CĐ tốt nghiệp 2011 Hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty TNHH Cương Lĩnh

Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển biến khá vững chắc từ đó tạo ra nhiều cơ hội song cũng đặt không ít thách thức cho các doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp sản xuất. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp không ngừng đổi mới và hoàn thiện công cụ quản lý kinh tế trong đó có kế toán. Dưới góc độ quản lý kinh tế, việc hạch toán đúng chi phí sản xuất và tính đúng giá thành sản phẩm hoàn thành giúp nhà quản lý có cái nhìn xác thực tề tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Thông qua những thông tin về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm do kế toán cung cấp, nhà quản lý doanh nghiệp có thể phân tích, đánh giá được tình hình sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn, máy móc thiết bị có hiệu quả không, tiết kiệm hay lãng phí vật tư, từ đó tìm ra giải pháp nhằm sử dụng hợp lý, tiết kiệm các yếu tố cấu thành nên các sản phẩm làm giảm chi phí hạ giá thành sản phẩm trên cơ sở đó không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Doanh nghiệp sản xuất nào thực hiện điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp đó có điều kiện tăng khả năng cạnh tranh và khả năng tích luỹ cho doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh. Chính vì vậy, công việc tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phải chính xác và đầy đủ, kịp thời là một yêu cầu cần thiết và luôn là vấn đề luôn được các nhà quản lý doanh nghiệp quan tâm.

doc118 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1697 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu CĐ tốt nghiệp 2011 Hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty TNHH Cương Lĩnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển biến khá vững chắc từ đó tạo ra nhiều cơ hội song cũng đặt không ít thách thức cho các doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp sản xuất. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp không ngừng đổi mới và hoàn thiện công cụ quản lý kinh tế trong đó có kế toán. Dưới góc độ quản lý kinh tế, việc hạch toán đúng chi phí sản xuất và tính đúng giá thành sản phẩm hoàn thành giúp nhà quản lý có cái nhìn xác thực tề tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Thông qua những thông tin về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm do kế toán cung cấp, nhà quản lý doanh nghiệp có thể phân tích, đánh giá được tình hình sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn, máy móc thiết bị có hiệu quả không, tiết kiệm hay lãng phí vật tư, từ đó tìm ra giải pháp nhằm sử dụng hợp lý, tiết kiệm các yếu tố cấu thành nên các sản phẩm làm giảm chi phí hạ giá thành sản phẩm trên cơ sở đó không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Doanh nghiệp sản xuất nào thực hiện điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp đó có điều kiện tăng khả năng cạnh tranh và khả năng tích luỹ cho doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh. Chính vì vậy, công việc tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phải chính xác và đầy đủ, kịp thời là một yêu cầu cần thiết và luôn là vấn đề luôn được các nhà quản lý doanh nghiệp quan tâm. Nhận thức được tầm quan trọng đó, sau một khoảng thời gian thực tập tại công ty TNHH Cương Lĩnh cùng với sự hướng dẫn tận tình của giáo viên Trần Thị Miến và các cô chú anh chị em trong công ty, em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: "Hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty TNHH Cương Lĩnh". Nội dung chuyên đề gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận cơ bản về kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại doanh nghiệp sản xuất. Chương 2: Thực trạng công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính gia thành sản phẩm tại công ty TNHH Cương Lĩnh. Chương 3: Nhận xét và giải pháp hoàn thiện công tác tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty TNHH Cương Lĩnh. Trong thời gian thực tập tại Công ty, việc áp dụng lý thuyết đã được nghiên cứu trên giảng đường vào thực tế còn hạn chế, chuyên đề của em chỉ xin đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất của đề tài em đã lựa chọn. Với sự cố gắng của bản thân nhưng do kiến thức về thực tế còn giới hạn, bài chuyên đề không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định nên em rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung của thầy cô để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn và còn thực hiện cho công tác thực tế sau này. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Thảo CHƯƠNG I LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT. 1.1. Sự cần thiết của công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất. 1.1.1. Đặc điểm của hoạt động sản xuất và sản phẩm ảnh hưởng đến kế toán chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm. 1.1.1.1. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất. Doanh nghiệp sản xuất là những doanh nghiệp trực tiếp tạo ra của cải vật chất để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Để tiến hành hoạt động sản xuất các doanh nghiệp sản xuất thường phải bỏ ra các khoản chi phí về các loại đối tượng lao động, tư liệu lao động và sức lao động của con người, các chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí bằng tiền khác. Nếu doanh nghiệp có quy trình sản xuất sản phẩm phức tạp thì đối tượng hạch toán chi phí sản phẩm có thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến, phân xưởng sản xuất, còn đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở bước chế tạo cuối cùng hay bán thành phẩm ở từng bước chế tạo. Đối với sản phẩm đơn chiếc và sản phẩm hàng loạt nhỏ thì đối tượng hạch toán là các đơn đặt hàng riêng biệt hoặc từng chiếc sản phẩm còn đối tượng tính giá thành là giá thành đơn. Đối với sản xuất hàng loạt và sản xuất với khối lượng lớn thì hoàn toàn phụ thuộc vào quy trình sản xuất giản đơn hay phức tạp, mà đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết nhóm hay từng giai đoạn công nghệ. Còn đối tượng tính giá thành sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm. 1.1.1.2. Đặc điểm của sản phẩm Nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay đang phát triển theo hướng kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước theo xu hướng XHCN. Như ta đã biết thị trường là nơi diễn ra các quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá, nó được hình thành bởi các quan hệ kinh tế như quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Chính vì vậy doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải có chỗ đứng vững chắc trên thị trường, phải không ngừng chiếm lĩnh sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp và giá thành hợp lý, như vậy doanh nghiệp phải chú trọng làm tốt công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Công tác này không chỉ có ý nghĩa với bản thân doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa với nhà nước và các bên liên quan. Đối với doanh nghiệp: Nếu làm tốt công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm sẽ giúp cho doanh nghiệp nhận thức đúng thực trạng của quá trình sản xuất, từ đó cung cấp thông tin một cách đầy đủ chính xác và kịp thời cho bộ máy lãnh đạo đề ra các chiến lược, sách lược, biện pháp phù hợp nhằm tiết kiệm tối đa chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Có như vậy doanh nghiệp mới có lợi thế cạnh tranh, giữ vững uy tín trên thị trường. Đồng thời làm tốt công tác này sẽ giúp cho doanh nghiệp có được kế hoạch sử dụng vốn có hiệu quả, đảm bảo tính chủ động trong sản xuất kinh doanh, chủ động về tài chính. Đối với nhà nước: Công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp, phải nộp cho nhà nước. Mặt khác, cũng giúp cho nhà nước có cái nhìn tổng thể, toàn diện đối với sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung, để từ đó đề ra các đường lối kinh tế phù hợp. Do vậy nhà nước cần chú trọng quan tâm đến công tác này trong các doanh nghiệp. Đối với bên thứ ba: Đề ra các quyết định phù hợp, có lợi cho bản thân bên thứ ba như: Ngân hàng, nhà đầu tư tài chính, các khách hàng... cần biết được tình hình tài chính, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hay nói cách khác công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của họ. Tóm lại: Trong nền kinh tế thị trường, kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp là vô cùng quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của doanh nghiệp và các bên liên quan. Do vậy doanh nghiệp cần phải tổ chức tốt công tác này theo đúng chế độ nhà nước quy định và phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp. 1.1.2. Vai trò, nhiệm vụ và ý nghĩa của công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất. 1.1.2.1.Vai trò, nhiệm vụ của công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất. Vai trò của kế toán là cung cấp thông tin một cách đầy đủ, trung thực, kịp thời về việc tập hợp chi phí sản xuất và xác định giá thành thực tế của từng loại sản phẩm. Để đáp ứng được nhu cầu quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm kế toán phải thực hiện các nhiệm vụ sau: Căn cứ vào đặc điểm của quy trình công nghệ, đặc điểm tổ chức sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp để xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm thích hợp. Tổ chức tập hợp và phân bổ từng loại chi phí sản xuất theo đúng đối tượng tập hợp cho chi phí sản xuất đã xác định, cung cấp kịp thời những số liệu, thông tin kịp thời tổng hợp về các khoản mục chi phí và yếu tố chi phí quy định, xác định đúng đắn chi phí của sản phẩm dở dang cuối kỳ. Vận dụng phương pháp tính giá thành thích hợp để tính toán giá thành và giá thành đơn vị của các đối tượng. Tính giá thành theo đúng các khoản mục đã quy định với đúng kỳ giá thành đã xác định. Định kỳ cung cấp các báo cáo về chi phí sản xuất và tính giá thành cho lãnh đạo doanh nghiệp. Chi phí và giá thành sản phẩm là các chỉ tiêu quan trọng trong hệ thống các chỉ tiêu kinh tế phục vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp và có mối quan hệ mật thiết với doanh thu, kết quả (lỗ, lãi) hoạt động sản xuất kinh doanh, do vậy được chủ doanh nghiệp rất quan tâm. Tổ chức kế toán chi phí, tính giá thành sản phẩm một cách khoa học, hợp lý và đúng đắn, có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý chi phí, giá thành sản phẩm. Việc tổ chức kiểm tra tính hợp lý của chi phí phát sinh ở doanh nghiệp, ở từng bộ phận, góp phần tăng cường quản lý tài sản, vật tư lao động, tiền vốn một cách tiết kiệm, có hiệu quả. Mặt khác tạo điều kiện quan tâm trong doanh nghiệp một ưu thế trong cạnh tranh. Mặt khác, giá thành sản phẩm còn là cơ sở để định giá bán sản phẩm, là cơ sở hạch toán kinh tế nội bộ, phân tích chi phí và tính giá thành sản phẩm với nội dung chủ yếu thuộc về kế toán quản trị cung cấp toàn bộ thông tin phục vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp. Kế toán doanh nghiệp cần phải xác định rõ vai trò và nhiệm vụ của mình trong việc tổ chức kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm như sau: Trước hết cần nhận thức đúng đắn vai trò của kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp, mối quan hệ với các bộ phận kế toán có liên quan trong đó kế toán các yếu tố chi phí là tiền đề cho kế toán chi phí và tính giá thành. Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh, quy trình công nghệ sản xuất, loại hình sản xuất, đặc điểm của sản phẩm, khả năng hạch toán, yêu cầu quản lý cụ thể của doanh nghiệp để lựa chọn, xác định đúng đắn đối tượng kế toán chi phí sản xuất, lựa chọn phương pháp tập hợp chi phí theo các phương án phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp. Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh, đặc điểm của sản phẩm, khả năng và yêu cầu quản lý cụ thể của doanh nghiệp để xác định đối tượng tính giá thành cho phù hợp. 1.1.2.2. Ý nghĩa của tổ chức công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất. Trên cơ sở mối quan hệ với các đối tượng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành đã xác định để tổ chức áp dụng phương pháp tính giá thành cho phù hợp khoa học. Tổ chức bộ máy kế toán một cách khoa học hợp lý trên cơ sở phân công rõ ràng trách nhiệm của từng nhân viên, từng bộ phận liên quan đặc biệt đối với bộ phận kế toán chi phí. Hoàn thiện các tổ chức chứng từ hạch toán ban đầu, hệ thống tài khoản, sổ sách kế toán phù hợp với các nguyên tắc chuẩn mực, chế độ kế toán đảm bảo đáp ứng yêu cầu thu nhận xử lý hệ thống hoá thông tin về chi phí giá thành của doanh nghiệp. Tổ chức lập và phân tích báo cáo về chi phí giá thành sản phẩm, cung cấp thông tin cần thiết về chi phí, giá thành sản phẩm giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp đưa ra các quyết định một cách nhanh chóng và phù hợp với quá trình sản xuất tiêu thụ sản phẩm. 1.2. Những lý luận chung về kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại doanh nghiệp sản xuất. 1.2.1. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất sản phẩm. 1.2.1.1. Khái niệm và bản chất của chi phí sản xuất sản phẩm. * Khái niệm chi phí sản xuất sản phẩm. Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận động và tiêu hao của các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất, đó là đối tượng lao động, tư liệu lao động và sức lao động. Như vậy đã tiến hành các hoạt động sản xuất, các doanh nghiệp sản xuất thường xuyên phải bỏ ra chi phí nhất định như chi phí tiền công đó là biểu hiện bằng tiền của lao động sống, các chi phí về khấu hao tài sản, chi phí về nguyên vật liệu, đó là biểu hiện bằng tiền của hao phí về lao động vật hoá, các chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí bằng tiền khác. Do đó ta có thể thấy rằng: Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và các khoản chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp phải bỏ ra để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời kỳ nhất định. Chỉ những chi phí để tiến hành các hoạt động sản xuất mới được coi là chi phí sản xuất và chỉ những chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong thời kỳ mới được tính vào chi phí sản xuất trong kỳ. * Bản chất chi phí sản xuất sản phẩm. Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có thể khái quát với 3 giai đoạn cơ bản có mối quan hệ mật thiết với nhau. Quá trình mua sắm, chuẩn bị các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Quá trình tiêu dùng, biến đổi các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh một cách có mục đích thành quả cuối cùng. Quá trình tiêu thụ kết quả cuối cùng của quy trình sản xuất kinh doanh. Hoạt động của doanh nghiệp thực chất là sự vận động, kết hợp, tiêu dùng, chuyển đổi các yếu tố sản xuất kinh doanh bỏ ra để tạo thành sản phẩm công việc, lao vụ nhất định. Chi phí của doanh nghiệp phải được đo lường và tính toán trong một khoảng thời gian nhất định. Độ lớn của chi phí phụ thuộc vào 2 nhân tố chủ yếu: Khối lượng các yếu tố đã tiêu hao trong kỳ và giá cả của một đơn vị yếu tố sản xuất đã hao phí. Chi phí trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ tài sản tiêu dùng hết cho quá trình kinh doanh trong kỳ, số chỉ tiêu dùng cho quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ và số dùng cho quá trình sản xuất tính nhập hoặc phân bổ vào chi phí trong kỳ. Trên góc độ của kế toán tài chính: Chi phí được nhìn nhận như những khoản phí tổn phát sinh gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp để đạt được một sản phẩm, lao vụ, dịch vụ nhất định. Chi phí được xác định bằng tiền của những hao phí về lao động sống, lao động vật hoá trên cơ sở chứng từ, tài liệu bằng chứng chắc chắn. Trên góc độ của kế toán quản trị: Mục đích của kế toán quản trị chi phí là cung cấp thông tin chi phí thích hợp, kịp thời cho việc ra quyết định của các nhà quản trị doanh nghiệp. Vì vậy, đối với kế toán quản trị chi phí không chỉ đơn thuần nhận thức chi phí như kế toán tài chính. Chi phí có thể là phí tổn thực tế gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày khi tổ chức thực hiện kiểm tra ra quyết định, chi phí cũng có thể là phí tổn ước tính để thực hiện dự án. 1.2.1.2. Phân loại chi phí sản xuất trong doanh nghiệp Trong thực tế, chi phí sản xuất của các doanh nghiệp bao gồm nhiều loại, có nội dung kinh tế khác nhau, có mục đích và công dụng khác nhau trong quá trình sản xuất. Tuỳ theo yêu cầu của công tác hạch toán và quản lý, ta có các cách phân loại chi phí khác nhau. Trong các doanh nghiệp sản xuất có các các phân loại sau: * Phân loại chi phí theo công dụng chi phí. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Là chi phí nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ trực tiếp để chế tạo ra sản phẩm, không tính vào khoản mục này những chi phí nguyên vật liệu sử dụng vào mục đích sản xuất chung và những hoạt động ngoài sản xuất. Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm chi phí về tiền công, tiền trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn của công nhân sản xuất trực tiếp. Không tính vào khoản mục này số tiền công và trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn của nhân viên sản xuất chung, nhân viên quản lý, nhân viên bán hàng. Chi phí sản xuất chung: bao gồm toàn bộ những chi phí liên quan tới hoạt động quản lý phục vụ phân xưởng sản xuất trong phạm vi phân xưởng, tổ, đội như: chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí nguyên vật liệu phân xưởng, chi phí khấu hao TSCĐ... * Phân loại chi phí theo nội dung của chi phí. Chi phí nguyên vật liệu: bao gồm toàn bộ chi phí nguyên vật liệu phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh. Chi phí nhân công: bao gồm toàn bộ các khoản tiền lương, phụ cấp, tiền ăn ca, các khoản trích trên lương vào chi phí sản xuất trong kỳ phục vụ cho qúa trình sản xuất. Chi phí khấu hao TSCĐ: là giá trị hao mòn TSCĐ được sử dụng trong sản xuất. Chi phí dịch vụ mua ngoài. Chi phí khác bằng tiền. * Phân loại chi phí theo mối liên hệ với sản lượng sản xuất. Chi phí bất biến: Là những chi phí có tổng chi phí cố định không thay đổi khi sản lượng thay đổi nhưng chi phí cố định tính cho một đơn vị sản phẩm thay đổi. Chi phí khả biến: là những chi phí có đặc điểm tổng chi phí biến đổi thay đổi khi sản lượng thay đổi nhưng chi phí biến đổi tính theo một đơn vị sản phẩm không đổi. * Phân loại chi phí theo mối liên hệ quan hệ với lợi nhuận: Chi phí thời kỳ: Là chi phí phát sinh nó làm giảm lợi nhuận kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp, nó bao gồm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Chi phí sản phẩm: Là các khoản chi phí phát sinh tạo thành giá trị của vật tư, tài sản hoặc của thành phẩm và nó được coi là một tài sản lưu động của doanh nghiệp và chỉ trở thành phí tổn khi hàng hoá, sản phẩm được tiêu thụ. * Phân loại chi phí theo dõi đối tượng tập hợp chi phí và phương pháp tập hợp chi phí: Chi phí trực tiếp: Là những khoản chi phí phát sinh nó được tập hợp trực tiếp cho một đối tượng tập hợp chi phí. Chi phí gián tiếp: là loại chi phí có liên quan tới nhiều đối tượng do đó người ta phải tập hợp chung sau đó phải tiến hành phân bổ theo những tiêu thức thích hợp. 1.2.2. Giá thành sản phẩm sản xuất và phân loại giá thành sản phẩm. Giá thành sản phẩm (công việc, lao vụ) là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các chi phí sản xuất tính cho một khối lượng, một đơn vị sản phẩm (công việc, lao vụ) nhất định đã hoàn thành. Giá thành sản phẩm là phạm trù kinh tế khách quan của quá trình sản xuất sản phẩm, có mối quan hệ mật thiết với giá trị và giá cả hàng hoá. Giá thành sản xuất được coi là xuất phát điểm để xây dựng giá cả, là giới hạn tối thiểu của giá cả, dưới mức đó thì không thể tái xuất đơn giản. Trên ý nghĩa đó thì giá thành sản phẩm là một bộ phận chủ yếu cấu thành lên giá trị. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường của các doanh nghiệp luôn quan tâm đến hiệu quả của các chi phí bỏ ra, để với chi phí bảo ra là nhỏ nhất mà thu được giá trị sử dụng lớn nhất và luôn tìm mọi biện pháp để tiết kiệm chi phí, hạ thấp giá thành sản phẩm nhằm mục tiêu lợi nhuận tối đa. Giá thành là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng sản xuất, phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn trong quá trình sản xuất như các giải pháp về kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện. 1.2.2.2. Phân loại giá thành sản phẩm. * Căn cứ vào thời gian và cơ sở số liệu để tính giá thành. Giá thành sản phẩm được chia thành: Giá thành kế hoạch, giá thành định mức, giá thành thực tế. Giá thành kế hoạch: Là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí kế hoạch và sản lượng kế hoạch. Việc tính toán giá thành sản phẩm kế hoạch được tiến hành trước khi tiến hành quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm là do bộ phận kế hoạch thực hiện. Giá thành kế hoạch của sản phẩm được xem là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, là cơ sở để phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, kế hoạch hạ giá thành của doanh nghiệp. Giá thành định mức: Cũng giống như giá thành kế hoạch, việc tính giá thành định mức được thực hiện trước khi sản xuất chế tạo sản phẩm, nó được đưa vào các định mức dự toán chi phí hiện hành. Giá thành định mức được xem là thước đo chính xác kết quả sử dụng các loại vật tư, tài sản, tiền vốn trong doanh nghiệp để đánh giá các giải pháp mà doanh nghiệp đã áp dụng trong quá trình sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả chi phí. Giá thành thực tế: Được tính dựa trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh tập hợp ở trong kỳ và giá thành thực tế thì được xác định khi quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm đã hoàn thành. Giá thành thực tế của sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các giải pháp kinh tế - tổ chức - kỹ thuật để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm, là cơ sở để xác định kết quả hoạt độn
Luận văn liên quan