Trong thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự phân công lao động ngày càng sâu, thì quan hệ hàng hoá - tiền tệ cúng được hình thành và bước đầu phát triển. Tiền tệ ngày càng thể hiện đầy đủ hơn chức năng và vai trò của mình. Đây chính là điều kiện tiền đề làm nảy sinh quan hệ tín dụng.
Thật vậy, song song với sự phân công lao động là sự phân chia về thu nhập trong xã hội. Giờ đây, của cải vật chất không còn chia đều cho mỗi thành viên trong công xã như trước mà có xu hướng :
-Tập trung giá trị vật chất và tiền tệ vào thay một số ít người nắm giữ tư liệu sản xuất.
-Sự bần cùng thiếu thốn thường xuyên về vật phẩm tiêu dùng tư liệu lao động của đại bộ phận các gia đình khác.
Trong xã hội lúc này xuất hiện sự phân chia giai cấp : kẻ giầu – người nghèo. Với thực trạng đó, để có tiền đóng thuế, nộp tô, chi tiêu cho sinh hoạt, những người nghèo chẳng còn cách nào khác là phải vay mượn ở những người giầu bằng tiền hoặc hiện vật. Chính giai đoạn này, quan hệ tín dụng ra đời.
Quan hệ tín dụng giai đoạn này là tín dụng nặng lãi và đã phát triển từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến. Trong suốt chiều dài lịch sử, với hoàn cảnh kinh tế – xã hội khó khăn, đời sốgn những người sản xuất nhỏ phải gánh chịu nhiều rủi ro và đứng trước yêu cầu bức thiết của con nợ thì các chủ nợ không dại gì mà không nâng lãi suất lên cao nhất. Có thể nói, nền sản xuất nhỏ là mảnh đất tốt để tín dụng nặng lãi tồn tại và phát triển. Mặt khác, với lãi suất cho vay là rất cao nên người đi vay chỉ giảm sử dụng vào mục tiêu phi sản xuất.
Cho đến khi chủ nghĩa tư bản ra đời, quá trình tái sản xuất giản đơn với quy mô nhỏ hẹp được thay thế dần bằng quá trình tái sản xuất mở rộng với quy mô lớn mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Với thực tại khách quan đó, các nhà tư bản rất cần bổ sung thêm vốn nhưng họ không thể sử dụng tiền vay nặng lãi để đáp ứng. Trong giai đoạn đầu do chưa đủ sức để thủ tiêu ngay tín dụng nặng lãi nên họ đã phải nhờ Nhà nước can thiệp bằng luật pháp và nhờ giáo hội tuyên truyền thuyết phục các tổ chức kinh doanh nặng lãi giảme lãi suất. Tuy nhiên, những biện pháp này không đạt hiệu quả. Do đó, khi giai cấp tư sản đã phát triển đủ sức họ đã tự góp vốn lại và cho nhau vay với lãi suất vừa phải. Nói cách khác, họ đã thiết lập quan hệ tín dụng cho riêng mình và tước đoạt vai trò độc quyền tín dụng của những tên cho vay nặng lãi. Đây cũng là thời điểm mở đầu cho chặng đường phát triển mới ngày càng lớn mạnh của hệ thống tín dụng phục vụ đắc lực cho quá trình tiến bộ xã hội.
73 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2015 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I.
Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của
ngân hàng thương mại.
1.1.Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với phát triển kinh tế.
1.1.1-Khái niệm về tín dụng
1.1.1.1-Tiền đề ra đời của tín dụng.
Trong thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự phân công lao động ngày càng sâu, thì quan hệ hàng hoá - tiền tệ cúng được hình thành và bước đầu phát triển. Tiền tệ ngày càng thể hiện đầy đủ hơn chức năng và vai trò của mình. Đây chính là điều kiện tiền đề làm nảy sinh quan hệ tín dụng.
Thật vậy, song song với sự phân công lao động là sự phân chia về thu nhập trong xã hội. Giờ đây, của cải vật chất không còn chia đều cho mỗi thành viên trong công xã như trước mà có xu hướng :
-Tập trung giá trị vật chất và tiền tệ vào thay một số ít người nắm giữ tư liệu sản xuất.
-Sự bần cùng thiếu thốn thường xuyên về vật phẩm tiêu dùng tư liệu lao động của đại bộ phận các gia đình khác.
Trong xã hội lúc này xuất hiện sự phân chia giai cấp : kẻ giầu – người nghèo. Với thực trạng đó, để có tiền đóng thuế, nộp tô, chi tiêu cho sinh hoạt, những người nghèo chẳng còn cách nào khác là phải vay mượn ở những người giầu bằng tiền hoặc hiện vật. Chính giai đoạn này, quan hệ tín dụng ra đời.
Quan hệ tín dụng giai đoạn này là tín dụng nặng lãi và đã phát triển từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến. Trong suốt chiều dài lịch sử, với hoàn cảnh kinh tế – xã hội khó khăn, đời sốgn những người sản xuất nhỏ phải gánh chịu nhiều rủi ro và đứng trước yêu cầu bức thiết của con nợ thì các chủ nợ không dại gì mà không nâng lãi suất lên cao nhất. Có thể nói, nền sản xuất nhỏ là mảnh đất tốt để tín dụng nặng lãi tồn tại và phát triển. Mặt khác, với lãi suất cho vay là rất cao nên người đi vay chỉ giảm sử dụng vào mục tiêu phi sản xuất.
Cho đến khi chủ nghĩa tư bản ra đời, quá trình tái sản xuất giản đơn với quy mô nhỏ hẹp được thay thế dần bằng quá trình tái sản xuất mở rộng với quy mô lớn mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Với thực tại khách quan đó, các nhà tư bản rất cần bổ sung thêm vốn nhưng họ không thể sử dụng tiền vay nặng lãi để đáp ứng. Trong giai đoạn đầu do chưa đủ sức để thủ tiêu ngay tín dụng nặng lãi nên họ đã phải nhờ Nhà nước can thiệp bằng luật pháp và nhờ giáo hội tuyên truyền thuyết phục các tổ chức kinh doanh nặng lãi giảme lãi suất. Tuy nhiên, những biện pháp này không đạt hiệu quả. Do đó, khi giai cấp tư sản đã phát triển đủ sức họ đã tự góp vốn lại và cho nhau vay với lãi suất vừa phải. Nói cách khác, họ đã thiết lập quan hệ tín dụng cho riêng mình và tước đoạt vai trò độc quyền tín dụng của những tên cho vay nặng lãi. Đây cũng là thời điểm mở đầu cho chặng đường phát triển mới ngày càng lớn mạnh của hệ thống tín dụng phục vụ đắc lực cho quá trình tiến bộ xã hội.
1.1.1.2-Khái niệm.
Tín dụng là quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản phải cam kết hoàn trả theo thời hạn đã thoả thuận.
Trong quan hệ giao dịch này thể hiện các nội dung sau :
Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hoặc hình thái hiện vật như hàng hoá, máy móc thiết bị, bất động sản.
Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi hết hạn sử dụng theo thoả thuận người đi vay phải hoàn trả ngời cho vay.
Giá trị được hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hoặc nói cách khác người đi vay phải trả thêm lợi tức.
Quan hệ tín dụng có thể diễn tả theo mô hình sau :
T
Giá trị tín dụng
Người Người
cho vay đi vay
Giá trị tín dụng + Lãi
T+L
Trong quan hệ tín dụng, có nhiều loại chủ thể tham gia như : Nhà nước, Ngân hàng, doanh nghiệp, cá nhân người tiêu dùng. Với mỗi loại chủ thể có thể phát sinh nhiều loại quan hệ tín dụng khác nhhau như : tín dụng Nhà nước, tín dụng Ngân hàng, tín dụng thương mại, tín dụng hợp tác xã, tín dụng tiêu dùng, tín dụng thuê bao …
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng mà chủ thể tham gia gồm một bên là Ngân hàng, và một bên là phần còn lại của nền kinh tế – gồm tất cả các tổ chức kinh tế xã hội, Nhà nước, dân cư …
Các tổ chức ngân hàng tham gia vào quan hệ tín dụng với hai tư cách: ngân hàng đóng vai tròlà người đi vay khi nó nhận tiền gửi của khách hàng, phát hành trái phiếu để vay vốn trong xã hội, vay vốn Ngân hàng Nhà nước và vay vốn Ngân hàng khác; Ngân hàng đóng vai trò là người cho vay khi nó cung ứng vốn ra nền kinh tế.
1.1.1.3.Phân loại tín dụng Ngân hàng
Có nhiều loại tín dụng khác nhau tuỳ theo tiêu thức phân chia, như phân chia theo thời hạn, theo mục đích sử dụng vốn, theo đối tượng, theo hình thức bảo đảm vốn vay…
1.1.1.3.1.Phận loại theo mục đích sử dụng
-Tín dụng đối với bất động sản: là loại tín dụng liên quan đến việc mua bán và xây dựng nhà ở, đất đai…
-tín dụng công nghiệp và thương mại là loại tín dụng ngắn hạn hoặc dài hạn để bổ sung vốn ngắn hạn hoặc trung dài hạn cho các doanh nghiệp trong lĩnh cực công nghiệp thương mại và dịch vụ
-Tín dụng nông nghiệp là loại tín dụng để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu…
-Các loại tín dụng khác.
1.1.1.3.2.Phân loại theo thời hạn:
-Tín dụng ngắn hạn: Tín dụng có thời hạn dưới 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đối với Ngân hàng thương mại tín dụng cá nhân chiếm tỷ trọng cao.
-Tín dụng trung hạn: Thời hạn của tín dụng trung hạn thường là không cố định. TRước đây thời hạn mà NHNN đưa ra đối với tín dụng trung hạn là 1-3 năm. Tuy nhiên đến nay, để đáp ứng yêu cầu vay của doanh nghiệp, các Ngân hàng thương mại đã đưa thời hạn này lên 5 năm. Việc nâng thời hạn tín dụng lên 5 năm đã đáp ứng tót hơn nhu cầu của doanh nghiệp vì đối với một số tài sản cố định có thời hạn sử dụng tương đối dài nên cầu phải có thời gian đủ lớn doanh nghiệp mới có thể hoàn trả gốc và lãi cho Ngân hàng và sẽ giúp doanh nghiệp tránh rơi vào tình trạng nợ quá hạn. Còn đối với các nước khác trên thế giới thời hạn này lên tới 7 năm.
Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tạo hoặc đổi thiết bị, công nghệ, mở rộng kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô vừa và nhỏ phục vụ đời sống, sản xuất…Trong nông nghiệp, tín dụng trung hạn chủ yếu để đầu tư vào các đối tượng như máy cày, máy bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều…
-Tín dụng dài hạn là loại tín dụng mà thời hạn của nó dài hơn đối với tín dụng trung hạn. Loại tín dụng này được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, các phương tiện vận tải cóquy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp, nhà máy lớn, các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng…
Đối với các Ngân hàng thương mại chủ yếu vẫn là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, từ những năm 70 trở lại đây tuy đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp nhưng nghiệp vụ còn nghèo nàn, chưa đáp ứng đủ nhu cầu của nền kinh tế
1.1.1.3.3.Phân loại theo căn cứ bảo đảm :
-Tín dụng không bảo đảmlà loại tín dụng không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba.
-Tín dụng có bảo đảm là loại cho vay mà ngân hàng chỉ cho vay khi khách hàng phải có tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc có người thứ ba đứng ra bảo lãnh.
Ngoài ra còn có nhiều cách phân loại khác nhau như theo phương thức hoàn trả, theo xuất xứ món vay, theo hình thái giá trị.
1.1.2.Vai trò của tín dụng Ngân hàng:
Trên cơ sở phát huy những tính năng vốn có, tín dụng ngân hàng thể hiện ba vai trò tích cực đối với các mặt trong đời sống kinh tế xã hội, cụ thể là:
1.1.2.1.Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để duy trì sự hoạt động liên tục đòi hỏi vốn của các doanh nghiệp phải đồng thời tồn tại ở ba giai đoạn dự trữ-sản xuất-lưu thông, nên hiện tượng thừa và thiếu vốn tạm thời xảy ra tại các doanh nghiệp. Từ đó, tín dụng góp phần điều tiết các nguồn vốn tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn.
Mặt khác, với mục tiêu mở rộng sản xuất đối với từng doanh nghiệp thì yêu cầu về nguồn vốn là một trong những mối quan tâm hàng đầu được đặt ra. Bởi lẽ để đẩy nhanh tiến độ phát triển sản xuất không thể chỉ trông chờ vào vốn tự có mà doanh nghiệp phải biết tận dụng những dòng chảy khác của vốn trong xã hội. Từ đó tín dụng với tư cách là nơi tập trung đại bộ phận vốn nhàn rỗi sẽ là trung tâm đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư phát triển.
Qua đó cho thấy vốn tín dụng luôn chiếm vị trí đáng kể trong cơ cấu vốn lưu động và vốn cố định của các doanh nghiệp. Nói cách khác tín dụng luôn là người trợ thủ đắc lực cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, là người bạn đường trong tiến trình phát triển kinh tế.
1.1.2.2-Tín dụng góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả.
Với chức năng tập trung, tận dụng những nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, tín dụng đã trực tiếp giảm khối lượng tiền mặt tồn đọng trong lưu thông. Lượng tiền dôi thừa này nếu không được huy động và sử dụng kịp thời có thể gây ảnh hưởng xấu đến tình trạng lưu thông tiền tệ, dẫn đến mất cân đối trong quan hệ lưu thông H-T và hệ thống giá cả bị biến động là điều không thể tránh khỏi. Do đó, trong điều kiện nền kinh tế bị lạm phát, tín dụng được xem như một trong những biện pháp hữu hiệu góp phần làm giảm lạm phát.
Mặt khác, hoạt động tín dụng còn tạo điều kiện mở rộng công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Đây cũng là một trong những nhân tố tích cực làm giảm việc sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế, là bộ phận lưu thông mà Nhà nước khó quản lý và dễ bị tác động của quy luật lưu thông tiền tệ.
Trong những năm gần đây ở hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển, trong công tác quản lý vĩ mô của Nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kì nhất định, lãi suất tín dụng đã trở thành một trong những công cụ điều tiết nhạy bén và linh hoạt để đưa thêm tiền vào lưu thông, qua đó tạo sự phù hợp giữa khối lượng tiền tệ với yêu cầu tăng trưởng kinh tế.
Từ đó, cho ta thấy tín dụng đã góp phần không nhỏ trong việc ổn định tiền tệ tạo điều kiện ổn định giá cả là tiền tệ để quan trọng để sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển.
1.1.2.3-Tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm ổn định trật tự xã hội.
Nền kinh tế phát triển ổn định là điều kiện nâng cao dần đời sống của các thành viên trong xã hội, là điều kiện để thực hiện tốt hơn các chính sách xã hội từ đó rút ngắn chênh lệch giữa các giai cấp, góp phần thay đổi cấu trúc xã hội.
Mặt khác, trên cơ sở đa dạng hình thức tín dụng, vốn tín dụng chỉ đáp ứng cho nh ucầu của các doanh nghiệp mà còn phục vụ cho các tầng lớp dân cư trong xã hội.
1.2-Các đặc trưng của tín dụng trung, dài hạn – vai trò của tín dụng trung, dài hạn.
1.2.1-Các đặc trưng của tín dụng trung, dài hạn.
Tín dụng trung, dài hạn là một loại hình tín dụng và nó được phân biệt với các loại hình tín dụng khác qua một số đặc trưng cơ bản sau :
Thời hạn cho vay.
Điểm khác biệt cơ bản đầu tiên giữa tín dụng trung, dài hạn và tín dụng ngắn hạn là thời hạn cho vay.
-Tín dụng ngắn hạn : Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng nhưng không quá 12 tháng.
-Tín dụng trung, dài hạn: Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nơu của khách hàng và tính chất của nguồn vốn vay. Trong đó :
+Tín dụng trung hạn có thời gian từ 12 tháng đến 36 tháng hoặc 60 tháng tuỳ theo quy định của từng ngân hàng.
+Tín dụng dài hạn có thời gian trên 36 tháng hoặc 60 tháng.
Đối tượng cho vay :
Đối tượng cho vay trung dài hạn là toàn bộ các chi phí cấu thành trong tổng mức vốn đầu tư của các dự án xây dựng mới, mở rộng cải tạo công nghệ…
Trong quan hệ tín dụng Ngân hàng, đối tượng cho vay trung, dài hạn là các công trình, hạng mục công trình hoặc dự án đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản cố định… của các đơn vị kinh tế có luận chứng kỹ thuật tốt, xác thực và tổng dự toán đã phê duyệt.
Nguyên tắc và điều kiện vay vốn.
Khách hàng muốn vay vốn của Ngân hàng phải đảm bảo được ba nguyên tắc tín dụng cơ bản., Đó là :
-Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Khi vay trung, dài hạn người vay phải soạn thảo dự án, chương trình sản xuất kinh doanh. Các dự án này phải thể hiện một cách đầy đủ, rõ ràng việc sử dụng vốn theo các mục đích cụ thể. Mục tiêu này phải nằm trong mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế chung của vùng và của đất nước. Để cho dự án thực hiện được, cần có sự thông qua, cho phép của cơ quan có thẩm quyền.
-Phải hoàn trả tiền vay và lãi theo đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
-Phải đảm bảo tiền vay theo quy định của Chính phủ, NHNN
Trên cơ sở các nguyên tắc trên, mỗi ngân hàng sẽ đề ra các điều kiện ràng buộc, các quy định mang tính chất bắt buộc có thể thực hiện vốn vay của ngân hàng. Các quy định này về cơ bản là giống nhau nhưng các điều khoản cụ thể thì khác nhau phụ thuộc vào điều kiện của mỗi ngân hàng và thời điểm lịch sử.
Do các đặc trưng của tín dụng trung, dài hạn nên thời gian thu hồi vốn rất lâu, có khả năng gặp nhiều rủi ro trong quá trình sử dụng nên việc cho vay trung, dài hạn phải tuân theo quyết định 367/QĐNH1 của thống đốc NHNN Việt Nam về thể lệ tín dụng trung, dài hạn như sau:
-Doanh nghiệp vay vốn phải là đơn vị sản xuất kinh doanh có lãi, có vốn tham gia tối thiểu bằng 20% tổng dự đoán công trình đầu tư.
-Doanh nghiệp vay vốn phải chấp hành đầy đủ các quy định của Nhà nước về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản về thể lệ tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng
-Doanh nghiệp vay vốn phải mua bảo hiểm cho tài sản hình thành bằng ốn vay tại một công ty bảo hiểm được phép hoạt động hợp pháp tại Việt nam, nếu như tài sản đó quy định phải mua bảo hiểm và cam kết sử dụng bố tiền bồi thường khi gặp rủi ro để trả nợ. Trường hợp không mua bảo hiểm do tổng giám đốc Ngân hàng quy định.
-Đối với các công trình xây dựng mới phải có đầy đủ các điều kiện:
Phải có giấy phép xây dựng và giấy phép sử dụng đất do các cấp có thẩm quyền cấp để bảo đảm được tính pháp lý cho công trình.Phải có lệnh hoặc hợp đồng phân phối vật tư máy móc thiết bị và nếu là nhập khẩu trực tiếp thì phải có giấy phép nhập khẩu hợp pháp.
-Đối với công trình dự án của các đơn vị kinh tế đã và đang hoạt động kinh doanh ổn định, đang có lãi thực sự, có xu hướng phát triển tốt phù hợp với cơ chế kinh tế mới, phải có vốn tham gia tối thiểu 30% tổng dự toán đầu tư công trình.
Hiện nay theo quy định mới của chính phủ, các đơn vị kinh doanh nếu chứng minh được mình làm ăn có hiệu quả thì sẽ có khả năng vay vốn mà không cần thế chấp.
Quy trình cho vay
Quy trình cho vay là một tập hợp các thao tác, thủ tục mà cán bộ tín dụng phải làm khi thực hiện xem xét một khoản vay đối với người xin vay. Quy trình tín dụng là những quy định của cơ quan cấp trên quản lý Ngân hàng ban hành, buộc Ngân hàng và cán bộ tín dụng phải tuân thủ. Quy trình tín dụng cho vay bao gồm các bước cơ bản sau:
Bước 1: Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và hồ sơ vay vốn. Cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm hướng dẫn đầy đủ rõ ràng cho khách hàng về thể lệ vay, tránh gây phiền hà cho khách hàng.
Bước 2: Điều tra, thu thập, tổng hợp các thông tin về khách hàng và phương án vay vốn. Những thông tin này phải được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau để đảm bảo có được thông tin chính xác nhất, từ các bạn hàng, từ sự đánh giá của cán bộ tín dụng, từ các tổ chức có liên quan, thông tin từ thị trường, điều tra thực tế…
Bước 3: Phân tích-thẩm định khách hàng và phương án vay vốn.
-Thẩm định tư cách pháp nhân, các giai đoạn phát triển
-Thẩm định tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Bước 4: Thẩm định dự án đầu tư:
-Thẩm định sự cần thiết của đầu tư
- Thẩm định phương tiện kỹ thuật, tổ chức quản lý tài chính.
Tuỳ theo từng món vay cụ thể mà cán bộ tín dụng cần xác định nội dung và phương pháp thẩm định thích hợp để vừa phải đảm bảo chất lượng và thời gian thẩm định. Tránh việc thẩm định quá rườm rà, phức tạp làm mất cơ hội kinh doanh cho khách hàng.
Bước 5: Quyết định cho vay.
Bước 6: Kiểm soát vốn cho vay và thu nợ.
1.2.2.Vai trò của tín dụng trung dài hạn đối với phát triển kinh tế ở Việt Nam
Với sự ra đời mạnh mẽ của các Ngân hàng thương mại, ta có thể thấy tín dụng Ngân hàng có vai trò quan trọng như thế nào đối với sự vận hành của một nền kinh tế, trong đó tín dụng trung dài hạn có vai trò đặc biệt quan trọng cho sự phát triển kinh tế của đất nước.
1.2.2.1.Tín dụng trung dài hạn đảm bảo phát triển kinh tế theo chiều sâu.
Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải biết nắm bắt và mọi cách thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Điều đó có nghĩa với doanh nghiệp cần có vốn để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Nguồn v ốn ngắn hạn sẽ chỉ đáp ứng nhu cầu thiếuvốn tạm thời trong doanh nghiệp chứ không thể giúp doanh nghiệp trong việc đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc trang thiết bị hiện đại. Do đó, doanh nghiệp cần đến nguồn vốn tín dụng trung, dài hạn. Đối với Việt Nam thì vay vốn Ngân hàng được coi la lối thoát lớn nhất cho nhu cầu vốn của các doanh nghiệp vì hiện nay, nước ta vẫn chưa có thị trường vốn thứ cấp. Bởi vậy, nếu các Ngân hàng chỉ chịu cung cấp vốn với thời hạn ngắn thì các doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở mác tái sản xuất, không có cơ hội tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật đem lại năng lực sản xuất cao hơn. Trong điều kiện nước ta hiện nay, việc đầu tư trung dài hạn nhằm tạo nền tảng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự tăng cường thực sự vững bền, đó là đảm bảo phát triển theo chiều sâu
1.2.2.2.Thúc đẩy mở rộng sản xuất phát triển
Cho vay trung dài hạn đối với các thành phần kinh tế thực sự là loại hình đầu tư chiều sâu nhằm mở rộng sản xuất, tăng quy mô, nâng cao năng lực sản xuất. Vì thế, tín dụng trung dài hạn thực sự là một cứu cánh khi doanh nghiệp có tiềm năng mở rộng phát triển mà không có vốn đầu tư. Khi đã có vốn nghĩa là một dự án đầu tư đã đi vào hoạt động, là một cơ hội để mở rộng sản xuất, cơ sở trang thiết bị đầy đủ làm cho năng lực sản xuất kinh doanh trưng lên,theo đó mà sản phẩm hàng hoá được sản xuất ra không những nhiều về số lượng, đa dạng mẫu mã chủng loại phong phú về chất lượng, kích thích nhu cầu xã hội.
1.2.2.3.Tạo thị trường sử dụng vốn ngắn hạn.
Tín dụng trung, dài hạn đầu tư vào máy móc thiết bị và xây dựng cơ bản do đó kích thích sản xuất phát triển. Khi đó, các doanh nghiệp cần nhiều vốn lưu động hơn để đáp ứng sự phát triển sản xuất, điều này tạo ra thị trường sử dụng vốn ngắn hạn. Tốc độ phát triển sản xuất càng cao thì nhu cầu vốn lưu động càng lớn và tín dụng trung dài hạn đã tạo điêu kiện cho tín dụng ngắn hạn phát triển.
1.2.2.4.Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá.
Thông qua nghiệp vụ tín dụng trung dài hạn, Ngân hàng có thể cho vay đáp ứng nhu cầu của ngành này chứ không phải ngành khác. Công nghiệp hoá không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới cơ bản về công nghệ tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nội dung giai đoạn đầu của tiến trình CNH-HĐH đất nước là tập trung vốn đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất trong nước theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu… Để thực hiện được điều đó, phải duy trì tốc độtăng trưởng cao trên 10% và cần đến 40-45 tỷ USD cho đầu tư. Trong đó nguồn vốn trong nước phải có từ 20-25 tỷ. Trong điều kiện thị trường vốn nước ta chưa phát triển hoàn thiện thì hiện tại và thời gian tới tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng vẫn đóng vai trò quyết định. Phương châm tiến hành CNH-HĐH ở nước ta là: “Nâng cấp cải tạo là chính và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế trước hết là những ách tắc và yếu kém nhất cản trở sự phát triển. Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghệp nặng trong những ngành trọng yếu mà nhu cầu đòi