Chiếc Lexus và cây Olive

“Chiếc lexus và cây olive” là tác phẩm nổi tiếng trình bày về toàn cầu hố. Ở đó, quá trình toàn cầu hố được hình thành do sự thúc đẩy của nhiều yếu tố : dân chủ hố, internet, đầu tư nước ngoài, Toàn cầu hố trở thành hệ thống quốc tế thay thế cho hệ thống 2 cực thời chiến tranh Lạnh. Nó tác động đến mọi đối tượng, ở mọi nơi trong cuộc sống và toàn cầu hố là không thể đảo ngược. Vì thế các nước cần học cách hội nhập toàn cầu hố với những điều kiện nhất định. Tác phẩm đã truyền tải đến người đọc những khám phá thú vị về toàn cầu hố. Để làm được điều đó, tác giả đã thể hiện là một cây bút bình luận tài năng với nghệ thuật lập luận hấp dẫn , lôi cuốn được biểu hiện rõ qua cách nêu vấn đề, cách sử dụng trao đổi thông tin và kể chuyện để giải thích vấn đề, cách dùng so sánh và ẩn dụ, hoà trộn trong những trang viết mang tính tri thức mạnh mẽ.

doc25 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3134 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chiếc Lexus và cây Olive, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC A. Giới thiệu đề tài 3 1. Tên đề tài: Cảm nhận, đánh giá về tác phẩm “Chiếc lexus và cây olive” của Thomas L.Friedman. 3 2. Mục đích: 3 3. Kết cấu 3 a. Giới thiệu 3 b. Đánh giá tác phẩm 3 B. Nội dung 3 I. Giới thiệu 3 1. Tác giả 3 2. Tác phẩm 3 II. Đánh giá tác phẩm 4 1. Những quan điểm khái quát cao, sâu sắc, mới mẻ trong tác phẩm 4 a. Quan điểm khái quát cao về toàn cầu hố 4 b. Quan điểm về dân chủ hố trong toàn cầu hố 6 c. Quan điểm về đầu tư trong toàn cầu hố 9 d. Quan điểm về thực trạng thế giới trong bối cảnh toàn cầu hố 2.0 11 e. Quan điểm về internet trong toàn cầu hố 14 f. Quan điểm về quản trị trong toàn cầu hố 15 2. Cách trình bày lôi cuốn, hấp dẫn của tác giả 18 a. Cách nêu vấn đề 18 b. Cách giải thích vấn đề bằng trao đổi thông tin và kể chuyện 19 c. Cách sử dụng phương pháp so sánh và ẩn dụ 20 d. Tính tri thức mạnh mẽ 21 3. Hạn chế 23 Minh Giới thiệu đề tài Tên đề tài: Cảm nhận, đánh giá về tác phẩm “Chiếc lexus và cây olive” của Thomas L.Friedman. Mục đích: Đánh giá về ưu điểm và hạn chế của tác phẩm. Truyền tải đến người nghe cảm nhận chủ quan của nhóm thuyết trình Rút ra những bài học từ việc cảm nhận, đánh giá Kết cấu Giới thiệu Tác giả Tác phẩm Đánh giá tác phẩm Những quan điểm khái quát cao, sâu sắc, mới mẻ trong tác phẩm Cách trình bày lôi cuốn, hấp dẫn của tác giả Một số điểm hạn chế Nội dung Giới thiệu Tác giả Thomas L. Friedman là một trong những nhà bình luận hàng đầu của nước Mỹ về quan hệ quốc tế. Sinh năm 1953 tại Minneapolis, ông đã học tại Đại học Brandeis và Trường St. Anthony, Đại học Oxford. Cuốn sách đầu tay của ông Từ Beirut đến Jerusalem đoạt giải National Book Award năm 1988. Friedman cũng đoạt hai giải thưởng Pulitzer trong thời gian làm Trưởng phân xã tờ The New York Times tại Beirut và Jerusalem. Anh hiện sống ở Bethesda, Maryland, cùng vợ là Ann và hai con gái là Orly và Natalie. Tác phẩm “Hút hồn…gây phấn chấn…Một khám phá táo bạo và đầy sáng tạo về trật tự mới của toàn cầu hóa kinh tế” (Báo The New York Times) “Chiếc lexus và cây olive” là tác phẩm nổi tiếng trình bày về toàn cầu hố. Ở đó, quá trình toàn cầu hố được hình thành do sự thúc đẩy của nhiều yếu tố : dân chủ hố, internet, đầu tư nước ngoài, … Toàn cầu hố trở thành hệ thống quốc tế thay thế cho hệ thống 2 cực thời chiến tranh Lạnh. Nó tác động đến mọi đối tượng, ở mọi nơi trong cuộc sống và toàn cầu hố là không thể đảo ngược. Vì thế các nước cần học cách hội nhập toàn cầu hố với những điều kiện nhất định. Tác phẩm đã truyền tải đến người đọc những khám phá thú vị về toàn cầu hố. Để làm được điều đó, tác giả đã thể hiện là một cây bút bình luận tài năng với nghệ thuật lập luận hấp dẫn , lôi cuốn được biểu hiện rõ qua cách nêu vấn đề, cách sử dụng trao đổi thông tin và kể chuyện để giải thích vấn đề, cách dùng so sánh và ẩn dụ,… hoà trộn trong những trang viết mang tính tri thức mạnh mẽ. Đánh giá tác phẩm Những quan điểm khái quát cao, sâu sắc, mới mẻ trong tác phẩm Quan điểm khái quát cao về toàn cầu hố Ngày nay, cụm từ Toàn cầu hóa đã quá quen thuộc với chúng ta nhưng có mấy ai hiểu rằng Toàn cầu hóa đến từ đâu cũng như những yếu tố nào giúp hình thành nên Toàn cầu hóa. Friedman, bình luận viên quan hệ quốc tế sắc sảo của tờ NEW YORK TIMES đưa ra một cái nhìn xuyên suốt về hệ thống quốc tế mới đang làm biến đổi tình hình thế giới ngày nay đồng thời giải thích rõ nguồn gốc hình thành tòan cầu hóa. Toàn cầu hóa được ghi nhận từ giữa thế kỷ 19 cho đến khoảng 1920. Quá trình toàn cầu hóa bị chậm lại trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất, bị đẩy ngược lại trong cuộc đại khủng hoảng những năm 1930 tiếp theo là chiến tranh thế giới thứ hai, và lần nữa lại bị chậm lại bởi chiến tranh lạnh. Ngày nay toàn cầu hóa có điểm xuất phát cao hơn và tốc độ lan truyền nhanh hơn. Toàn cầu hóa trước đây dựa vào sụt giảm chi phí giao thông, trong khi toàn cầu hóa ngày nay dựa vào sự sụt giảm nhanh chóng chi phí thông tin. Toàn cầu hố ra đời và phát triển dựa trên sự hình thành và thúc đẩy của nhiều yếu tố: Dân chủ hóa trong công nghệ, dân chủ hóa tài chính, dân chủ hóa thông tin,…Thêm vào đó, thông tin được dân chủ hóa do công nghệ nén thông tin phát triển. Quan trọng tương đương với công nghệ truyền hình cáp và viễn thông qua vệ tinh chính là Internet. Internet chính là trụ cột trong quá trình dân chủ hóa thông tin. Thúc đẩy cho cơn lốc toàn cầu hóa này còn có các định chế quốc tế như WTO, IMF và các tiến bộ đáng kinh ngạc trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông. Ý tưởng làm động lực cho điều này chính là chủ nghĩa tư bản dựa trên nền kinh tế thị trường mở cửa cho phép lưu thông và cạnh tranh tự do. Điều này hình thành cho riêng toàn cầu hóa một luật lệ kinh tế xoay quanh việc mở cửa, thả nổi và tư nhân hóa nền kinh tế để nó đạt được tính cạnh tranh và thu hút nhiều đầu tư nước ngoài hơn. Và bằng tốc độ siêu tốc, toàn cầu hóa đã ảnh hưởng ngày càng sâu rộng đến chính trị, môi trường, địa chính trị và kinh tế của hầu như mọi quốc gia trên thế giới. Về mặt tích cực, toàn cầu hóa là một sự hội nhập không thể đảo ngược giữa những thị trường, quốc gia và công nghệ, tới mức chưa từng có – theo phương cách tạo điều kiện cho các cá nhân, tập đoàn công ty và nhà nước vươn quan hệ đến nhiều nơi trên thế giới xa hơn, sâu hơn với chi phí thấp hơn bao giờ hết và cũng theo phương cách giúp thế giới tiếp cận các cá nhân, tập đoàn công ty và nhà nước xa hơn, sâu hơn với chi phí thấp hơn bao giờ hết. Nói trắng ra toàn cầu hóa là sự bành trướng không gì ngăn cản nổi của chủ nghĩa tư bản quốc tế khi các rào cản chính trị, địa lý, tài chính, thông tin... được tháo gỡ để tạo dòng chảy thoải mái cho đồng vốn, công nghệ đi khắp thế giới, tác động đến từng cá nhân và lối sống của họ. Tuy nhiên, toàn cầu hóa đem lại không ít ảnh hưởng tiêu cực cho thế giới. Trong toàn cầu hóa, nếu các quốc gia hội nhập toàn cầu hóa đáp ứng đúng luật chơi, tức là mở cửa thị trường, thả nổi và tư nhân hóa nền kinh tế thì sẽ mời được “bầy thú điện tử” vào nhà, cuộc sống của người dân sẽ nhanh chóng được cải thiện. Còn ngược lại, nếu luật lệ tù mù, xã hội thiếu minh bạch, quyền lực rơi vào một nhóm người, “bầy thú” sẽ bỏ đi, giẫm nát luôn mọi thứ trên đường tháo chạy. Friedman khẳng định ông “hoàn toàn hiểu rõ những mặt trái của toàn cầu hóa”. Bởi theo ông, đứng về mặt văn hóa, toàn cầu hóa hiện nay bao gồm một quá trình “Mỹ hóa” - dù tốt hay xấu. Trong hoàn cảnh đó, con người không còn lựa chọn nào khác mà phải “hội nhập”, trở thành những con người cô đơn, xã hội giảm tính người, và quốc gia có nguy cơ đánh mất những giá trị văn hóa truyền thống của mình mà Friedman hình tượng hóa thành những cây ôliu. Toàn cầu hóa còn có tiềm năng hủy diệt môi trường, phá hủy hệ sinh thái trên qui mô lớn. Ông viết: “Toàn cầu hóa có thể tiếp sức vô hạn nhưng cũng có thể chèn ép con người vô cùng. Toàn cầu hóa có thể phân bổ các cơ hội nhưng cũng khiến tràn lan sự hoang mang”. Nhiều trường hợp nội chiến xảy ra giữa phe muốn toàn cầu hóa và phe chống lại. Các nhà phân tích cần thích nghi với một hiện thực: Nhiều chiến lược ngày nay không phải quân sự mà là kinh tế hay tài chính. Sự thành công của toàn cầu hóa lại chính là mối đe dọa cho nó, khi không kiểm sốt được tăng trưởng. Nếu không có một cơ chế bảo vệ môi trường và các giá trị văn hóa địa phương, kết quả sẽ chẳng mấy tốt đẹp. Các giá trị văn hóa sẽ chỉ còn ở Disneyland, các cá nhân quên mất quá khứ của mình, tách rời khỏi những cội rễ của mình. Tuy một số tập đoàn hay ngân hàng đang trở nên nhạy cảm hơn với môi trường, việc thành lập các liên minh bảo vệ môi trường một cách nghiêm túc vẫn còn là một thách thức lớn đối với các nước đang phát triển. Nếu toàn cầu hóa chẳng là gì hơn Mỹ hóa, toàn cầu hóa sẽ thất bại. Sẽ có lực kìm hãm lại hay những phản ứng tương tự. Sao chép lại không phải là điều lý tưởng và thế giới sẽ tốt hơn nếu văn hóa địa phương có thể du nhập những gì thích hợp với hệ thống của mình mà không bị tràn lấp đi. Điều quan trọng ở đây là chúng ta phải biêt kết hợp hài hòa giữa chiếc lexus và cây ôliu, dung hòa giữa việc bảo tồn bản sắc, quê hương và cộng đồng…đồng thời nỗ lực hết sức để tồn tại trong hệ thống thế giới. Sự sống còn của toàn cầu hóa phụ thuộc một phần vào nỗ lực xây dựng sự cân bằng giữa phát triển và cội nguồn của chúng ta. Toàn cầu hóa ngày càng lan rộng và phát triển mạnh mẽ nhưng chỉ với cái nhìn trực diện hay bằng những lăng kính đơn giản chúng ta không thể nào hiểu rõ được về nó. Nhận thức được điều này, Friedman đã không chỉ dùng một mà là 6 lăng kính để phản ánh toàn cầu hóa rõ nét hơn, đó là: thị trường tài chính, chính trị, văn hóa, an nnh quốc gia và môi trường. Tác giả tin rằng những rào cản về địa lý, thị trường và luận thuyết ngày càng bị phá bỏ, cách duy nhất giúp người ta nhận biết và giải thích nó là sự cân đo, phân tích thông qua 6 lăng kính kể trên, nhưng tùy lúc tùy hoàn cảnh mà gán ý nghĩa nặng nhẹ cho mỗi chiều kích. Quan điểm về dân chủ hố trong toàn cầu hố “Chiếc lexus và cây olive” đã giúp người đọc tìm hiểu về vấn đề dân chủ hố một cách khá khái quát và sâu sắc. Đó là bốn cuộc dân chủ hố thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của toàn cầu hố. Dân chủ hóa công nghệ Sự thay đổi trong cách trong ta giao tiếp và liên lạc với nhau được tác giả ví như sự dân chủ hóa công nghệ và đó cũng là thứ mà ngày càng nhiều người ở nhiều quốc gia ngày càng kết nối với các dịch vụ internet, cáp quang, di động…để tiện lợi trong giao tiếp, thu hẹp khoảng cách và có cước phí ngày càng rẻ. Lấy ví dụ những năm 40 của thế kỉ 20 để gọi đi Anh từ Mỹ bạn phải mất 300USD mỗi phút nhưng hiện nay dịch vụ thoại đi các nước hầu như là miễn phí. Nhờ sự dân chủ hóa công nghệ mà ngày nay chúng ta có thể có 1 nhà băng trong nhà, một tờ báo trong nhà, một công ty đầu tư hay 1 trường học trong chính ngôi nhà bạn Trong công nghệ thông tin, ông cho rằng sự dân chủ hóa là kết quả của nhiều tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực vi tính hóa, công nghệ thu nhỏ, v.v… Bạn có thể liên lạc với nhau ở bất cứ nơi đâu với thời gian và cước phí ngày càng giảm. Tất cả các công nghệ ngày nay ngày càng phát triển nhờ công nghệ mã số hóa. Nó giúp ta thay đổi giọng nói, âm thanh, hình ảnh, hay tất cả các dữ liệu mà bạn có thể nghĩ ra vào bit máy tính và sau đó truyền tải đi khắp thế giới bằng điện thoại hay máy tính. Ông nhận ra sức mạnh mới để đẩy nhanh tốc độ toàn cầu hóa là sự dân chủ hóa công nghệ. Các quốc gia ngày càng xích lại gần nhau hơn, toàn thế giới hoạt động như một cơ thể sống và đồng nhất với nhau. Dân chủ hóa tài chính Sự thay đổi trong cách mà chúng ta đầu tư được ông ví như sự dân chủ hóa tài chính. Sự xuất hiện của thị trường chứng từ có giá từ những năm 60 – đây là những cổ phiếu mà các công ty phát hành nhằm huy động vốn, dần dần xóa thế độc tôn cho vay của các ngân hàng và các tổ chức tài chính. Chứng khốn mở cửa cho các công ty, các nhà đầu tư những người mà chưa bao giờ có thể tiếp cận các nguồn tiền mặt huy động vốn trước đây. Sự dân chủ hóa tài chính thực sự bùng phát vào những năm 80 với sự xuất hiện của nhân vật Milken với cách thức đầu tư vào loại cổ phiếu “junk-bond” do các công ty, tổ chức có uy tín cao phát hành với lợi ích luôn lớn hơn từ 3-4% so với các loại cổ phiếu đầy rủi ro khác. Sau cuộc khủng hoảng cho vay ở Mỹ latinh và sau khi đồng đô la thống trị, các nền kinh tế đã tiến hành phát hành trái phiếu theo cách của Brady, điều mới mẻ ở đây là độ phân tán của các trái phiếu trong các tổ chức cá nhân, tín dụng…bất cứ ai cũng có thể mua trái phiếu nếu họ có tiền. Friedman cho đó là sự dân chủ hóa trong cho vay. Một điều rất hay và mới mẻ trong dân chủ hóa trong đầu tư là việc cải cách lương hưu và ra đời tài khoản quản lý lương hưu ở Mỹ. Nước này dần chuyển từ nước có các quỹ phúc lợi chung để trả các khoản lương hưu cho người dân sang nước có các tổ chức, công ty chỉ có nhiệm vụ “phân phối” còn mỗi cá nhân có quyền quản lý lương hưu của mình, cho nó xoay vòng và tạo ra một khoản tiền lớn. Nhờ tự do hóa trong tài chính, chúng ta đã tiến từ một thế giới mà trong đó chỉ một số ngân hàng nắm giữ các khoản nợ không giới hạn của một vài quốc gia sang một thế giới trong đó có rất nhiều chủ ngân hàng cho vay những khoản tiền lớn cho nhiều quốc gia, một thế giới mà một số nhà đầu tư, ngân hàng giàu có cho nhiều nước vay và đến nay là một thế giới nhiều cá nhân, thông qua các quỹ lương hưu, tương hỗ cho nhiều quốc gia vay một lượng tiền lớn. Dân chủ hóa thông tin Sự thay đổi thứ ba trong thời đại toàn cầu hóa -một sự thay đổi mà chúng ta có thể nhận thấy trong thế giới ngay nay. Ông gọi sự thay đổi nay la “dân chủ hóa thông tin”. Nhờ những chiếc ăng ten chảo, Internet và tivi, ngày nay, chúng ta có thể xem, nghe, quan sát hầu như tất cả mọi thứ. Bước đột phá nay bắt đầu từ toàn cầu hóa vô tuyến. Mà sự đột phá là sự ra đời của hệ thống cáp quang, công nghệ thu nhỏ giúp cho mọi người có thể ngồi ở nhà mà vẫn tổng hợp được thông tin một cách nhanh nhất qua truyền hình và internet. Dân chủ hóa thông tin cũng làm thay đổi thị trường tài chính. Ngày nay, các nhà đầu tư không chỉ mua và bán chứng khốn, trái phiếu ra toàn thế giới mà còn có thế thực hiện việc mua và bán này thông qua máy tính nhà. Việc này sẽ giúp cho những người tài giỏi thực sự, có những kĩ năng thu thập và tổng hợp thông tin trên internet sẽ chiến thắng trong cuộc đua kiếm lợi nhuận qua thị trường tài chính. Dân chủ hóa việc vạch quyết định và phân quyền, chia thông tin. Đó là việc thay thế cơ chế quản trị tập quyền, thiếu dân chủ trong thông tin bằng phương pháp quản trị giao phó trách nhiệm cùng quyền hạn để nhân viên cấp dưới có thể chủ động khai thác thông tin, phân tích vấn đề, xác định cách làm việc riêng và có thể quản trị công việc chứ không phải chỉ biết làm theo mệnh lệnh cấp trên. Từ đó nhân viên có thể phát huy tính năng động, sáng tạo, góp phần xây dựng tổ chức. Quá trình dân chủ hố thứ tư này cho việc cải cách trung ương và khai thông liên lạc thông tin trên và dưới. Tác giả đã tóm tắt sự thay đổi này bằng đưa ra một sự so sánh rất tinh tế: hình dung một tấm biển đặt trước mặt mỗi lãnh đạo công ty ở Hoa Kỳ – tấm biển: “Tôi chịu trách nhiệm”. Phương châm này được phổ biến trong thời Chiến tranh Lạnh vì khi đó thông tin được truyền lên đầu não, và nhân viên ở dưới chỉ việc ngồi đợi quyết định từ trên xuống. Nhưng ngày nay, các tổng giám đốc tài năng phải là những người hiểu rõ nhiệm vụ của họ là xây dựng chiến lược phát triển, hình thành luật lệ làm việc, phát động phong trào ở các khâu chủ yếu và giành cho các quản đốc ở tuyến đầu – trên thị trường và quan hệ trực tiếp với khách hàng – vạch những quyết định cụ thể của riêng cá nhân họ. Quan điểm về đầu tư trong toàn cầu hố Toàn cầu hóa ngày nay đã trở thành một xu thế tất yếu. Toàn cầu hố không phải là một lựa chọn. Đó là một thực tế. Ngày nay chỉ có một thị trường toàn cầu. Phương pháp duy nhất để có thể tăng trưởng và lôi kéo dân chúng của một đất nước phát triển là phải sử dụng các nguồn cổ phần và trái phiếu trên toàn cầu, bằng cách mời các công ty xuyên quốc gia vào làm ăn và bán sản phẩm từ các nhà máy trên hệ thống thị trường thế giới. Nhưng trong thời chiến tranh lạnh tư bản không thể được chuyển dời một cách nhanh chóng và dễ dàng như trong thời toàn cầu hố hiện nay. Nguồn vốn đầu tư tài chính có thể sẽ mang lại nhiều lợi ích cho một đất nước nếu nó đáp ứng được lợi nhuận lâu dài của các nhà đầu tư, ngược lại nếu không thoả mãn hay làm “ phật lòng” họ thì họ sẽ quay lưng lại với quốc gia đó. Mỗi quốc gia nhận được nguồn vốn đầu tư tài chính cần phải có biện pháp kiểm sốt tình thế và xây dựng những bước đệm để tránh những cú sốc đầu tư. Thomas L.Friedman đã hình ảnh hóa các nhà đầu tư tài chính là “Bầy Thú Điện Tử”, Bầy thú điện tử ưa thích sự minh bạch về tài chính, chúng thường ưu ái cho những đất nước hay những công ty tuân thủ luật chơi. Chúng không muốn chứng kiến những đột biến bất lợi cho việc kiếm ăn của chúng. Chúng sẽ không nương tay với bất cứ ai. BTĐT không có con đầu đàn, tất cả cùng kiếm ăn như nhau, con to kiếm ăn nhiều, con nhỏ kiếm ăn ít. BTĐT dựa vào mạng Internet để kiếm ăn trên toàn thế giới. BTĐT ngày càng sinh sôi, lớn lên, trưởng thành và đang dần thay thế các siêu cường trong việc tập trung vốn để phát triển kinh tế toàn cầu. Friedman có đưa ra nhiều thực tế về ảnh hưởng của BTĐT đối với 1 đất nước hay 1 công ty. Tuy nhiên thực tế về Malaysia là thú vị nhất. Trong 2 thập kỷ BTĐT đã đầu tư cả trực tiếp cả gián tiếp vào Malaysia không biết bao nhiêu tiền. Và điều đó giúp cho Malaysia nâng mức thu nhập đầu người từ 350$ lên 5.000$. Đó là thời kỳ Malaysia tuân thủ luật chơi của BTĐT. Đến khi Malaysia vay nợ quá nhiều để xây dựng, tài chính có nhiều vấn đề bất ổn thì BTĐT đã giận dữ bỏ đi kiếm ăn nơi khác. Đó là năm 1997 chỉ số chứng khốn của Malaysia sụt giảm thê thảm tới 48%, trị giá đồng ringhit xuống mức thấp nhất trong vòng 26 năm. Những sản phẩm tài chính ngày nay rất đa dạng. Tính đa dạng của các loại công cụ tài chính và các thời cơ đã trở thành cơ hội ngàn vàng đối với các nước phát triển cũng như đang phát triển và các doanh nghiệp – khiến cho một vài trong số họ tăng trưởng nhanh chưa từng thấy. Hỗn hợp các loại cổ phần và trái phiếu, hàng hóa và hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền lựa chọn và hợp đồng phát sinh đến từ nhiều quốc gia và thị trường trên thế giới khiến bạn có thể đặt cọc đầu tư trên bất cứ mặt hàng hay dịch vụ gì. Cùng với việc phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và truyền thông đã làm cho có ngày càng nhiều người tham gia vào thị trương tài chính. Đầu tư toàn cầu giờ đây dễ dàng đến mức khiến cho người dân ai cũng nghĩ thị trường ở đâu cũng thực hành lối làm ăn tương tự như ở phố Wall. Đương nhiên cùng với đó cũng là nhiều rủi ro và thất bại nhiều hơn. Đối với các thị trường tài chính mới, nhỏ nhoi, thì các nhà đầu tư lớn ít khi để ý và theo dõi chúng. Hậu quả là những cư dân bản xứ với những hiểu biết cặn kẽ tình hình địa phương của họ, thường là những người đầu tiên đầu cơ dựa trên chính đồng nội tệ ít khả năng chuyển đổi ở chính nơi đó. Và khi hệ thống thị trường tài chính nội địa và những giao dịch tài chính quốc tế được thả nổi, thì chính những cư dân địa phương nọ được lợi, hốn chuyển và mua ngoại tệ vào để giữ giá. Dân địa phương, thông qua bè bạn, cha mẹ và các quan hệ làm ăn, bao giờ cũng biết cặn kẽ chi tiết về hoàn cảnh kinh tế của đất nước mình – chính họ là những người đi đầu trong việc bỏ đi tìm kiếm những vùng đất mới tốt tươi hơn. Ngày nay, họ làm được điều đó một cách dễ dàng hơn – thay vì như trước kia khi họ phải lén lút chuyển tiền, phải mở tài khoản nước ngoài với điều kiện họ dùng tên người khác Trong thời Chiến tranh Lạnh, khi các quốc gia thường bảo hộ thị trường nội địa bằng hàng rào thuế quan, các công ty xuyên quốc gia thường chú trọng đầu tư vào những nơi có thị trường lớn, nhằm vượt thứ hàng rào đó. Trong toàn cầu hóa, các công ty xuyên quốc gia ngày càng cần phải mở rộng ra nước ngoài, không chỉ để trở thành những nhà sản xuất hiệu quả ở các quốc gia đó, mà còn để trở thành những nhà sản xuất giỏi trên toàn cầu. Phần nhiều những đầu tư của các công ty xuyên quốc gia ngày nay không bị bó gọn vào việc xây dựng nhà máy hay cơ sở sản xuất. Thêm vào đó là lập liên minh với các đơn vị địa phương của các nước, những nơi vốn có sẵn cơ sở sản xuất – những địa phương này sẽ trở thành chi nhánh, đối tác và nhà thầu cho các công ty xuyên quốc gia – những quan hệ đối tác như vậy có thể di chuyển từ nước nọ sang nước kia, từ đối tác này sang đối tác khác, quay vòng nhanh, tìm ra giải pháp giảm thuế hữu hiệu nhất, sử dụng phương tiện và sức lao động có chi phí thấp nhất và sức cạnh tranh được duy trì. Mỗi quốc gia đang phát