Chiến lược phát triển thị trường tiêu thụ ở Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng

Từ sau Đại hội Đảng cộng sản Việt nam lần thứ sáu (1986) đất nước ta đã thực sự chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp được chủ động trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu thụ và hướng tới mục tiêu lợi nhuận đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Muốn có được nhiều lợi nhuận thì hàng hoá các công ty phải có thị trường tiêu thụ tức là phải bán được. Vì vậy đối với bất kỳ công ty nào thì việc hoạch định ra chiến lược phát triển thị trường trong tương lai là rất cần thiết. Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng là một doanh nghiệp nhà nước và là một đơn vị thành viên của Tổng công ty xi măng Việt Nam, trong quá trình kinh doanh công ty đã đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên trước đây xi măng là một mặt hàng độc quyền của nhà nước vì vậy mà trước đây có thể nói không cần phải có chiến lược phát triển thị trường tiêu thụ nhưng nay thì khác, xi măng của công ty bây giờ phải cạnh tranh với xi măng của địa phương, xi măng liên doanh và đặc biệt trong tương lai tới đây khi lộ trình cắt giảm thuế quan đang đến gần, xi măng của các nước asean chỉ chờ dịp là có thể xuất sang Việt nam nó cạnh tranh trực tiếp với xi măng của công ty bán ra trên các địa bàn. Vì vậy việc có chiến lược phát triển thị trường tiêu thụ ở Công ty là hoàn toàn cần thiết Với nhận thức trên trong thời gian thực tập tại Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng được sự giúp đỡ của GS-TS Vũ Thị Ngọc Phùng và tập thể lãnh đạo Công ty cùng các phòng ban có liên quan em đã chọn đề tài “Chiến lược phát triển thị trường tiêu thụ ở Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng ” Bài viết được chia làm 3 chương. Chương I: Vai trò và sự cần thiết phải có chiến lược phát triển thị trường tiêu thụ ở Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng. Chương II: Thực trạng tiêu thụ ở Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng Chương III: Chiến lược phát triển thị trường tiêu thụ ở Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng

doc77 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1936 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chiến lược phát triển thị trường tiêu thụ ở Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu Từ sau Đại hội Đảng cộng sản Việt nam lần thứ sáu (1986) đất nước ta đã thực sự chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp được chủ động trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu thụ và hướng tới mục tiêu lợi nhuận đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Muốn có được nhiều lợi nhuận thì hàng hoá các công ty phải có thị trường tiêu thụ tức là phải bán được. Vì vậy đối với bất kỳ công ty nào thì việc hoạch định ra chiến lược phát triển thị trường trong tương lai là rất cần thiết. Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng là một doanh nghiệp nhà nước và là một đơn vị thành viên của Tổng công ty xi măng Việt Nam, trong quá trình kinh doanh công ty đã đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên trước đây xi măng là một mặt hàng độc quyền của nhà nước vì vậy mà trước đây có thể nói không cần phải có chiến lược phát triển thị trường tiêu thụ nhưng nay thì khác, xi măng của công ty bây giờ phải cạnh tranh với xi măng của địa phương, xi măng liên doanh và đặc biệt trong tương lai tới đây khi lộ trình cắt giảm thuế quan đang đến gần, xi măng của các nước asean chỉ chờ dịp là có thể xuất sang Việt nam nó cạnh tranh trực tiếp với xi măng của công ty bán ra trên các địa bàn. Vì vậy việc có chiến lược phát triển thị trường tiêu thụ ở Công ty là hoàn toàn cần thiết Với nhận thức trên trong thời gian thực tập tại Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng được sự giúp đỡ của GS-TS Vũ Thị Ngọc Phùng và tập thể lãnh đạo Công ty cùng các phòng ban có liên quan em đã chọn đề tài “Chiến lược phát triển thị trường tiêu thụ ở Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng ” Bài viết được chia làm 3 chương. Chương I: Vai trò và sự cần thiết phải có chiến lược phát triển thị trường tiêu thụ ở Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng. Chương II: Thực trạng tiêu thụ ở Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng Chương III: Chiến lược phát triển thị trường tiêu thụ ở Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng Chương I Vai trò và sự cần thiết phải có chiến lược phát triển thị trường tiêu thụ ở Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng I.-Tổng quan ngành công nghiệp xi măng Việt Nam 1.-Tóm lược quá trình phát triển ngành công nghiệp xi măng Việt Nam Công nghiệp xi măng Việt Nam đến nay đã hình thành và phát triển trên 100 năm, bắt đầu hoạt động từ năm 1989 bằng việc xây dựng nhà máy xi măng đầu tiên ( lò đứng ) tại Hải Phòng. Từ năm 1924 đến năm 1980 đã xây tiếp 9 lò quay sản xuất theo phương pháp ướt với thiết bị của Công ty F. L Smith(FLS) - Đan Mạch và của Rumani cung cấp ở miền Nam tại Hà Tiên tỉnh Kiên Giang, nhà máy xi măng Hà tiên 2 đã được lắp đặt năm 1964 với 2 lò quay sản xuất theo phương pháp ướt ( kích thước 3,3m* 100m) do hãng Venot -pic của Pháp cung cấp Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, Chính phủ đã quyết định xây dựng thêm các thêm các nhà máy mới có công suất lớn để đáp ứng nhu cầu trong công cuộc tái thiết đất nước. Đầu tiên là nhà máy xi măng Bỉm Sơn - tỉnh Thanh Hoá được đưa vào vận hành năm 1981 với hai lò quay sản xuất theo phương pháp ướt có kích thước 5.0m*185m do Liên Xô cung cấp, năng suất là 2*1750 tấn clinker /ngày tương đương 1,2 triệu tấn xi măng/năm. Tiếp đó là nhà máy xi măng Hoàng Thạch tỉnh Hải Hưng đã được xây dựng và bắt đầu vận hành vào năm 1983 với công nghệ lò quay sản xuất theo phương pháp khô đầu tiên, có kích thước 5,5*89m do công ty F.L.S mith(FLS)- Đan Mạch cung cấp năng suất là 3100 tấn clinker/ngày tương đương 1.1 triệu tấn/năm. Năm 1991 lắp đặt thêm tại Hà Tiên một dây chuyền sản xuất nữa với một lò quay sản xuất theo phương pháp khô (kích thước 4.8*64m) do hãng Polysius của Pháp cung cấp. Clinker sản xuất tại nhà máy này một phần chuyển đến Thủ Đức -Thành phố Hồ Chí Minh bằng đường thuỷ để nghiền. Ngoài các nhà máy xi măng lò quay lớn còn có một số nhà máy xi măng lò đứng do các địa phương, các ngành quản lý và nằm rải rác ở các tỉnh, tập trung nhiều tại các tỉnh có đá vôi ở Miền Bắc. Năm 1993 Chính Phủ chỉ đạo triển khai chương trình cải tạo và đầu tư xi măng lò đứng để đạt 3 triệu tấn xi măng trong giai đoạn 1993-1997. Thực hiện chủ trương này nhiều nhà máy xi măng lò đứng được cải tạo mở rộng và đầu tư mới sử dụng công nghệ lò đứng cơ giới hoá có một phần tự động hoá theo mô hình công nghệ xi măng lò đứng của Trung Quốc. Hiện nay đã có 55 nhà máy xi măng lò đứng có công suất thiết kế từ 5000 đến 82000 tấn/năm Từ năm 1992 một mô hình hợp tác mới trong công nghiệp sản xuất xi măng ra đời đó là các liên doanh với các đối tác nước ngoài. Đến thời điểm 3/2002 đã có 5 công ty liên doanh sản xuất xi măng tại Việt Nam đang hoạt động và triển khai bao gồm : +4 liên doanh với tổng công suất 5, 81 triệu tấn đã triển khai xây dựng xong và đi vào sản xuất có hiệu quả là xi măng Chinfon-Hải Phòng 1.4 triệu tấn / năm, xi măng Sao Mai 1,76 triệu tấn/năm, xi măng Vân Xá 0,5 triệu tấn/năm, xi măng Nghi Sơn 2,15 triệu tấn/năm +1 liên doanh triển khai với tiến độ rất chậm là xi măng Phúc Sơn 1,8 triệu tấn/năm Năm 1998 xuất hiện mô hình đầu tư mới là các địa phương vay vốn xây dựng nhà máy có công suất lớn như Hoàng Mai 1,4 triệu tấn/năm và Tam Điệp 1,4 triệu tấn/năm. Tuy nhiên hiện nay 2 nhà máy này đã đựơc chuyển giao về Tổng công ty xi măng Việt Nam quản lý Từ 2001 đến nay xuất hiện thêm mô hình đầu tư xây dựng do một số Tổng công ty nhà nước đang triển khai thực hiện như Tổng công xây dựng Miền Nam với dự án xi măng sông Gianh, Tổng Công ty xây dựng Công nghiệp với dự án xi măng Thái Nguyên, Tổng Công ty xây dựng Sông Đà với dự án xi măng Hạ Long, Tổng công ty xi măng Việt Nam với dự án xi măng Bình Phước, Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam với dự án xi măng Cẩm Phả. Bên cạnh đó theo xu thế phát triển chung của xã hội, một số công ty cổ phần (do các đơn vị thuộc các thành phần kinh tế góp cổ phần) trong lĩnh vực sản xuất xi măng cũng đã được thành lập từ quy mô nhỏ như Việt Trung, Hải Thịnh (công suất khoảng 0,1 triệu tấn/năm) đến quy mô lớn như Công ty xi măng Thăng Long có công suất 2,3 triệu tấn/năm (đang triển khai công tác chuẩn bị đầu tư) Với quá trình phát triển trên 100 năm lịch sử của nghành công nghiệp xi măng Việt Nam được đánh dấu bằng những sự đổi mới và phát triển rất nhanh cả về quy mô đầu tư, phương thức đầu tư, trình độ công nghệ sản xuất và đáp ứng kịp thời nhu cầu tiêu dùng xi măng của xã hội theo từng thời kỳ lịch sử. Cũng trong tiến trình phát triển này việc ứng dụng về công nghệ sản xuất, tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường cũng như việc đào tạo nguồn nhân lực có đủ trình độ kỹ thuật, quản lý để nhanh chóng tiếp nhận, làm chủ công nghệ tiên tiến, hiện đại của công nghiệp trên xi măng thế giới luôn được chú trọng và trên thực tế chúng ta đã đưa vào vận hành khai thác an toàn nhiều công trình mới có trình độ công nghệ cao, nhanh chóng phát huy hết công suất thiết kế nên đã góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế chung của đất nước 2.-Công nghệ sản xuất xi măng a.-Phương pháp sản xuất Hiện nay ở Việt nam đang tồn tại song song cả 3 phương pháp sản xuất xi măng là: Ướt, khô và bán khô. -Phương pháp ướt hiện còn tồn tại ở 3 công ty là: Bỉm Sơn, Hải Phòng,Hà Tiên. Công suất (theo thiết kế ) clinker sản xuất theo phương pháp ướt là 1,129 triệu tấn/năm, chiếm 8,6 % (trong đó Bỉm Sơn: 550.000 tấn/năm; Hải Phòng 324.000tấn/năm; Hà Tiên 2: 255000tấn/năm Phương pháp khô: Tất cả các nhà máy được đầu tư ở giai đoạn 3 (Từ sau 1991) và dây chuyền của 1 nhà máy xi măng Hoàng Thạch (được đầu tư ở giai đoạn 2) đều sản xuất theo phương pháp khô. Công suất (theo thiết kế) clinker sản xuất theo phương pháp khô là 8,971 triệu tấn/năm chiếm 71,2 % Phương pháp khô: Tất cả các nhà máy xi măng lò đứng đều sản xuất theo phương pháp bán khô. Công suất (theo thiết kế) clinker sản xuất theo phương pháp bán khô là 2,5 triệu tấn/năm chiếm 19,84 %. Các nhà máy sản xuất theo phương pháp ướt đang chuyển đổi sang sản xuất theo phương pháp khô. Các nhà máy sản xuất theo phương pháp bán khô hiện tại vẫn duy trì phương pháp sản xuất này, chưa có phương hướng chuyển đổi cụ thể. b.- Dây chuyền công nghệ Hiện tại ở Việt nam đang tồn tại 2 loại hình dây chuyền công nghệ sản xuất xi măng là : Dây chuyền thiết bị hoàn chỉnh sản xuất xi măng từ các nguyên vật liệu ban đầu và dây chuyền công nghệ nghiền xi măng chỉ gồm công đoạn nghiền đóng bao. Cả 2 loại hình công nghệ này về cơ bản đều đầy đủ các thiết bị công nghệ tương tự như công nghệ sản xuất xi măng hiện đại đang tồn tại trên thế giới . Các dây chuyền sản xuất xi măng lò quay (sản xuất theo phương pháp khô và ướt ): Thiết kế và thiết bị công nghệ chính đều do nước ngoài cung cấp . +Dây chuyền công nghệ phương pháp ướt : Các nhà máy sản xuất xi măng bằng lò quay phương pháp ướt có các chỉ tiêu tiêu hao về nhiên liệu và năng lượng lớn, đặc biệt là gây ô nhiễm nặng nề cho môi trường sinh thái. Các dây chuyền này hiện nay không còn phù hợp với sự phát triển chung của công nghiệp xi măng Việt nam. Trong thời gian tới việc cải tạo chuyển đổi hoặc loại bỏ công nghệ sản xuất theo phương pháp ướt sang phương pháp khô sẽ được thực hiện triệt để nhằm bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất. Trước năm 2010 sẽ không còn sử dụng phương pháp công nghệ ướt trong công nghiệp sản xuất xi măng tại Việt nam +Dây chuyền công nghiệp phương pháp khô Hầu hết các dây chuyền loại này đạt được trình độ tiên tiến của thế giới đều được trang bị hệ thống máy nghiền đứng để nghiền liệu, lò nung có tháp trao đổi nhiệt và buồng phân huỷ (calcineri) cùng với thiết bị làm lạnh kiểu ghi, nghiền xi măng theo chu trình kín có phân ly, dây chuyền được trang bị hệ thống điều khiển tự động và kiểm tra đo lường với mức độ tiên tiến hiện nay của thế giới -Các dây chuyền sản xuất xi măng lò đứng theo phương pháp bán khô: Thiết bị chính của Trung Quốc, Việt nam đã thiết kế một số nhà máy và sản xuất một phần thiết bị chính trong dây chuyền. Cả nước đã xây dựng 55 cơ sở xi măng lò đứng với tổng công suất 3 triệu tấn/năm là công nghệ bán khô, chủ yếu được xây dựng trong giai đoạn 1993-1997 tại 28 tỉnh thành phố trong cả nước với quy mô công suất của mỗi dây chuyền từ 5000tấn/năm; 40000 tấn/năm ; 60000 tấn/năm đến 82000tấn/năm. Các cơ sở xi măng lò đứng phần lớn tập trung ở Miền Bắc nơi có sẵn nguồn nguyên liệu đá vôi và đất sét cho sản xuất. Dây chuyền nghiền xi măng: Tính đến thời điểm 2001trong toàn quốc đã có 40 cơ sở nghiền xi măng với tổng công suất thiết kế 4.350.000 tấn/năm, các trạm nghiền này chủ yếu được tập trung tại khu vực miền Trung và miền Nam với quy mô công suất từ 20000 tấn/năm đến 520000 tấn/năm và được phân chia như sau: +2 dây chuyền có công suất > 100.000 tấn/năm +24 dây chuyền có công suất 100.000 tấn/năm +22 dây chuyền có công suất <100.000 tấn/năm Các trạm nghiền có quy mô công suất từ 100.000 tấn trở lên đều nhập thiết bị của Trung Quốc ngoại trừ trạm nghiền Hải Vân nhập thiết bị của Đức, các trạm nghiền < 100000 tấn/năm phần lớn thiết bị được chế tạo trong nước. Các trạm nghiền đều sử dụng nguồn clinker từ các nhà máy xi măng lò quay phía Bắc và clinker nhập khẩu. Do quy mô công suất khác nhau nên mức độ đầu tư trang thiết bị cũng khác nhau, nhiều trạm nghiền quy mô nhỏ không được trang bị phòng thí nghiệm kiểm tra sản xuất, không đầu tư thiết bị lọc bụi dẫn đến chất lượng sản phẩm không ổn định và vệ sinh môi trường không đảm bảo. c.- Khả năng khai thác công suất Có thể nói rằng khả năng khai thác công suất của các nhà máy xi măng của Việt nam là lớn. Khi có thị trường tiêu thụ thì hầu hết các nhà máy xi măng đều đạt và vượt công suất thiết kế. Đây là một đặc điểm tốt của công nghiệp xi măng Việt nam. Tuy nhiên mức độ khai thác công suất ở mỗi loại hình công nghệ và mỗi nhà máy có khác nhau *Xi măng lò quay: Tất cả các dây chuyền sản xuất xi măng bằng lò quay đều có khả năng khai thác hết công suất thiết kế. Tuy nhiên thời gian để đạt được công suất thiết kế của từng nhà máy là có khác nhau. Những nhà máy đầu tư trước 1996 phải 3-4 năm mới đạt công suất thiết kế do chưa đủ trình độ quản lý, tiếp cận công nghệ mới. Những dây chuyền được đầu tư sau năm 1996 do đã có kinh nghiệm trong công tác vận hành, quản lý nên thời gian phát huy hết công suất thiết kế đã được rút ngắn chỉ còn khoảng 2-3 năm. Trong đó có một số dây chuyền không đạt công suất thiết kế ngay do chưa phát triển được thị trường tiêu thụ +Xi măng lò đứng: Trong khoảng 3-4 năm đầu hầu hết các cơ sở xi măng lò đứng chỉ phát huy được 60-80% công suất thiết kế do khả năng tiêu thụ xi măng lò đứng bị hạn chế và chưa làm chủ được công nghệ. Tuy nhiên từ năm 1999 các nhà máy xi măng lò đứng đã bắt đầu nâng cao công suất đạt và vượt công suất thiết kế. Cho đến nay hầu hết các nhà máy đều vượt công suất thiết kế. +Trạm nghiền : Thời gian phát huy công suất của các trạm nghiền ít phụ thuộc vào trình độ công nghệ, thiết bị mà phụ thuộc chủ yếu vào địa điểm thị trường và trình độ quản lý. Các trạm nghiền nếu có thị trường thì ngay năm đầu tiên hoàn toàn có khả năng khai thác hết công suất thiết kế. Đặc biệt các trạm nghiền do Tổng công ty xi măng Việt Nam quản lý hầu hết đều vượt công suất thiết kế 3.- Tình hình đầu tư và phát triển công nghiệp xi măng trong những năm qua a.-Quá trình đầu tư và phát triển ngành công nghiệp xi măng Việt nam trong những năm qua Có thể chia quá trình đầu tư phát triển ngành công nghiệp xi măng Việt nam thành 3 giai đoạn : Từ 1975 trở về trước; từ 1976-1990; từ 1991 đến nay *Giai đoạn từ 1975 trở về trước Ngành công nghiệp xi măng Việt nam còn rất nhỏ bé. ở Miền Bắc chỉ có 1 nhà máy xi măng Hải Phòng và một số nhà máy xi măng lò đứng thủ công lạc hậu. ở miền Nam, nhà máy xi măng Hà Tiên sản xuất theo phương pháp ướt với công suất khoảng 0,25 triệu tấn/năm. Tổng công suất toàn ngành chưa đạt 1,0 triệu tấn/năm *Giai đoạn từ 1976-1990 Trong giai đoạn này có 2 nhà máy xi măng mới được đầu tư là Hoàng Thạch và Bỉm Sơn. Đầu tư xi măng Hoàng Thạch đánh dấu một bước đổi mới cơ bản tư duy về công nghệ xi măng của chúng ta. Có thể nói từ khi có nhà máy xi măng Hoàng Thạch thì công nghiệp xi măng mới bắt đầu làm quen với công nghệ sản xuất xi măng hiện đại. Tuy nhiên do cơ chế kinh tế lúc đó còn nhiều ràng buộc nên việc đánh giá hiệu quả đầu tư gặp khó khăn. Ngoài mục đích kinh tế việc đầu tư các nhà máy xi măng còn giải quyết các vấn đề xã hội khác. *Giai đoạn từ 1991 đến nay Trong giai đoạn này việc đầu tư xây dựng các nhà máy xi măng có nhiều thay đổi. Thứ nhất: nhu cầu sử dụng xi măng trong xã hội tăng đòi hỏi phải tăng sản lượng sản xuất. Thứ hai do thực hiện chính sách cải cách mở cửa mà chúng ta có cơ hội tiếp xúc với nhiều loại hình công nghệ và thiết bị sản xuất xi măng khác nhau của thế giới. Thứ ba: tác động của cơ chế thị trường đến việc đầu tư, sản xuất xi măng. Hoàn cảnh kinh tế của chúng ta trong giai đoạn này vẫn khó khăn, nguồn vốn đầu tư phát triển công nghiệp xi măng còn hạn chế Trong bối cảnh như vậy, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo đầu tư xây dựng mới một số nhà máy xi măng lò quay công suất lớn có công nghệ hiện đại và thực hiện chương trình đầu tư sản xuất 3 triệu tấn xi măng bằng công nghệ lò đứng cơ giới hoá. Ngoài việc đầu tư các nhà máy xi măng lò quay và phát huy công suất của các nhà máy xi măng lò đứng trong giai đoạn này còn tiến hành đầu tư xây dựng 40 trạm nghiền xi măng với công suất mỗi tram nghiền từ 200000tấn/năm tới 520.000 tấn/năm tổng công suất 40 trạm nghiền là 4,35 triệu tấn/năm b.-Một số nhận định về tình hình đầu tư phát triển xi măng trong thời gian qua *Quy mô và tốc độ đầu tư Quy mô đầu tư: Trong giai đoạn vừa qua quy mô đầu tư tương đối đa dạng. Có thể phân thành 3 loại quy mô như sau: +Quy mô lớn: Dây chuyền công nghệ sản xuất có công suất thiết kế từ 3000 tấn clinker/ ngày trở lên. +Quy mô vừa: Dây chuyền công nghệ sản xuất có công suất thiết kế từ 1000-3000 tấn clinker / ngày. +Quy mô nhỏ: Dây chuyền công nghệ sản xuất có công suất thiết kế dưới 1000 tấn clinker /ngày. Tốc độ đầu tư : Việc xác định tốc độ đầu tư các dự án phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên tốc độ hoàn thành các dự án đầu tư để đi vào khai thác thường bị chậm. Có 3 nguyên nhân làm chậm các dự án là: Trình độ triển khai quản lý dự án, tốc độ giải quyết tài chính và các thủ tục hành chính trong đầu tư xây dựng cơ bản, giải phóng mặt bằng. *Suất đầu tư: Kinh phí đầu tư cho một tấn công suất xi măng ở nước ta còn cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, các dự án triển khai gần đây đang có xu thế giảm dần (125-135 USD/tấn công suất) do giảm được chi phí xây dựng kết cấu hạ tầng ngoài nhà máy ( đường giao thông, đường điện) và tập trung thi công đảm bảo tiến độ để giảm chi phí lãi vay trong thời gian thi công. Qua tình hình đầu tư phát triển ngành công nghiệp xi măng ta nhận thấy số lượng các nhà máy xi măng ngày càng tăng lên, nhu cầu xi măng cũng ngày càng tăng lên. Điều này có được là do vai trò to lớn của xi măng đối với sự phát triển của con người II.- Vai trò tác dụng của nguyên liệu xi măng đối với sự phát triển ngành công nghiệp xây dựng 1.-Đặc điểm của nguyên liệu xi măng Xi măng được sản xuất từ 2 nguyên liệu chính là đá vôi và đất sét ngoài ra còn có thêm các nguyên liệu điều chỉnh và phụ gia khoáng cho xi măng Công nghệ sản xuất xi măng không phức tạp nó được chuẩn hoá sản phẩm sản xuất trên dây chuyền công nghệ khép kín vì thế mà chất lượng xi măng được đảm bảo Xi măng được đóng thành bao do vậy nó có thể vận chuyển một cách dễ dàng. Xi măng được vận chuyển tới các công trình bằng đường sắt, đường thuỷ, đường bộ mà không gặp phải một sự trở ngại nào Xi măng không chịu được nước và thời gian lưu kho ngắn Xi măng có thời gian đông cứng nhanh có sức mài mòn và chịu va đập tốt Bảng các đặc tính kỹ thuật của xi măng Tên chỉ tiêu Xi măng Portland Xi măng Portland hỗn hợp Tiêu chuẩn Việt nam (TCVN 2682-1999) Xi măng Bút Sơn Tiêu chuẩn Việt nam (TCVN 6260-1997) Xi măng Bút Sơn PC30 PC40 PC50 PC30 PC40 PC50 PCB30 PC40 PCB30 PC40 Độ mịn Phần còn lại trên sàn0,08mm,%,max 15 12 12 10 12 12 Bể mặt riêng cm2/g, min 2700 2800 3000 3200 2700 3000 Thời gian ninh kết Bắt đầu phút không sớm hơn 45 60 45 60 Kết thúc phút không muộn hơn 375 375 600 600 Độ ổn định thể tích Xác định theo Lechatelier 10 10 10 10 Hàm lượng mất khi nung 5,0 5,0 Giới hạn bền nén Sau 3 ngày N/mm2, min 16 21 31 20 25 35 14 18 18 22 Sau 28 ngày N/mm2,min 30 40 50 35 45 52 30 40 32 42 2.-Vai trò của nguyên liệu xi măng đối với ngành công nghiệp xây dựng a-Đối với ngành công nghiệp xây dựng nói chung Trước khi tạo ra nguyên liệu xi măng thì trong xây dựng con người đã sử dụng các nguyên liệu khác như vôi, đất tuy nhiên các nguyên liệu này không đáp ứng được yêu cầu tiêu chuẩn kỹ thuật xây dựng, từ khi tạo ra nguyên liệu xi măng thì nó đã khắc phục được các điểm yếu của các nguyên liệu trước. Xi măng với các đặc tính như có độ mài mòn tốt, có sức va đập mạnh, khả năng đông cứng nhanh, độ ổn định thể tích lớn vì thế nó đặc biệt thích hợp trong xây dựng. Kinh tế thế giới trong vài thập kỷ qua đã có sự tăng trưởng nhanh chóng, các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Châu Âu muốn thể hiện tiềm lực kinh tế của mình đã cho xây dựng các khu nhà cao ốc như muốn thể hiện sự văn minh, tiềm lực kinh tế đồng thời còn giải quyết được nhu cầu nhà ở khi dân cư đô thị ngày càng tăng lên. Trong các công trình xây dựng này thì xi măng đóng vai trò quan trọng nó vừa là nguyên liệu chính trong qúa trình xây dựng vừa có thể tạo ra các nét hoa văn cho các công trình. Ví dụ :Toà nhà trung tâm thương mại Thế Giới, trụ sở của Liên hợp quốc, toà tháp đôi Petronat của Malaysia Không chỉ đáp ứng cho xây dựng nhà cao tầng mà nó còn phục vụ cho việc xây dựng các nhà máy, xí nghiệp, nhà ở hay trong các công trình quốc phòng như để xây dựng các công sự, lô cốt. Vì xi măng được sản xuất theo dây chuyền sản phẩm được chuẩn hoá, ng