Việt Nam có truyền thống lâu đời trong việc sản xuất đồ gỗ kiểu cổ nhưng lại khá lạ lẫm với kiểu đồ gỗ thương mại trong nhà và ngoài trời của thế giới.
Việc sản xuất đồ gỗ thương mại quy mô lớn đã có bước phát triển nhanh chóng trong 7, 8 năm trở lại đây, bắt đầu bằng việc một số nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm thị trường lao động giá rẻ. Họ đã chuyển đến từ khu vực Đông Á như Đài Loan, Philipin, Malaixia, Thái Lan và mới đây thậm chí là cả Trung Quốc. Việc sản xuất này xuất phát từ nugồn vốn FDI được bổ sung nhờ có sự tham gia của các công ty thương mại lớn như IKEA, Carrefours, B & Q, Walmart, vv. Họ tìm kiếm mặt hàng đồ gỗ trên cơ sở thương lượng giá thấp như một hàng rào chống lại sự khuyếch trương quá mức của hàng hoá Trung Quốc. Điều này đã mang lại sư khởi đầu cho một số lượng lớn các doanh nghiệp Việt Nam để đáp ứng nhu cầu thị trường. Bề ngoài, tất cả có vẻ như đang tiến triển rất tốt. Xuất khẩu tăng với tỉ lệ đáng kể, số lượng lao động tăng lên, ngành công nghiệp có vẻ như đang đi đúng hướng. Nhưng thực tế có phải vậy?
Sự tăng trưởng của ngành công nghiệp đồ gỗ dựa trên nền tảng không vững chắc. Cần phải có một chiến lược để định hướng đúng và tạo ra một mội trường mà trong đó ngành công nghiệp đồ gỗ được ghi nhận như một sự thành công thực sự về kinh tế nếu như có sự đảm bảo cho sự đóng góp lâu dài của nó.
Sự thành công hiện tại đạt được không dựa trên cơ sở bền vững vì:
•thiếu nguồn nhân công lành nghề
•thiếu nghiêm trọng cở đào tạo nâng cao tay nghề
•trang thiết bị nghèo nàn, lạc hậu
•thiếu diện tích rừng được xác nhận về các điều kiện môi trường tại Việt Nam
•thiều nguồn cung cấp nguyên liệu thô
•thiều nguồn nhân sự marketing được đào tạo và kinh nghiệm
• yếu trong khâu thiết kế và
•cơ sở hạ tầng yếu kém
69 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3320 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chiến lược xuất khẩu quốc gia ngành công nghiệp chế biến gỗ tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHIẾN LƯỢC XUẤT KHẨU QUỐC GIA
Ngành công nghiệp chế biến gỗ tại Việt Nam
Hà Nội
Tháng 6, 2009
Tóm tắt nội dung chính
Việt Nam có truyền thống lâu đời trong việc sản xuất đồ gỗ kiểu cổ nhưng lại khá lạ lẫm với kiểu đồ gỗ thương mại trong nhà và ngoài trời của thế giới.
Việc sản xuất đồ gỗ thương mại quy mô lớn đã có bước phát triển nhanh chóng trong 7, 8 năm trở lại đây, bắt đầu bằng việc một số nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm thị trường lao động giá rẻ. Họ đã chuyển đến từ khu vực Đông Á như Đài Loan, Philipin, Malaixia, Thái Lan và mới đây thậm chí là cả Trung Quốc. Việc sản xuất này xuất phát từ nugồn vốn FDI được bổ sung nhờ có sự tham gia của các công ty thương mại lớn như IKEA, Carrefours, B & Q, Walmart, vv. Họ tìm kiếm mặt hàng đồ gỗ trên cơ sở thương lượng giá thấp như một hàng rào chống lại sự khuyếch trương quá mức của hàng hoá Trung Quốc. Điều này đã mang lại sư khởi đầu cho một số lượng lớn các doanh nghiệp Việt Nam để đáp ứng nhu cầu thị trường. Bề ngoài, tất cả có vẻ như đang tiến triển rất tốt. Xuất khẩu tăng với tỉ lệ đáng kể, số lượng lao động tăng lên, ngành công nghiệp có vẻ như đang đi đúng hướng. Nhưng thực tế có phải vậy?
Sự tăng trưởng của ngành công nghiệp đồ gỗ dựa trên nền tảng không vững chắc. Cần phải có một chiến lược để định hướng đúng và tạo ra một mội trường mà trong đó ngành công nghiệp đồ gỗ được ghi nhận như một sự thành công thực sự về kinh tế nếu như có sự đảm bảo cho sự đóng góp lâu dài của nó.
Sự thành công hiện tại đạt được không dựa trên cơ sở bền vững vì:
thiếu nguồn nhân công lành nghề
thiếu nghiêm trọng cở đào tạo nâng cao tay nghề
trang thiết bị nghèo nàn, lạc hậu
thiếu diện tích rừng được xác nhận về các điều kiện môi trường tại Việt Nam
thiều nguồn cung cấp nguyên liệu thô
thiều nguồn nhân sự marketing được đào tạo và kinh nghiệm
yếu trong khâu thiết kế và
cơ sở hạ tầng yếu kém
Tính đến những hạn chế này của ngành công nghiệp bản địa và thực tế là một số lượng lớn sản phẩm xuất khẩu được sản xuất bởi các công ty có vốn đầu tư của nước ngoài, sự phát triển mở rộng xuất khẩu rõ ràng cần có một chiến lược cụ thể để thúc đẩy khả năng cạnh tranh của ngành, nâng cao giá trị xuất khẩu để đạt được mục tiêu của chính phủ và xây dựng một nền tảng bền vững cho sự phát triển lâu dài.
Chiến lược được đề cập trong bản báo cáo này được xây dựng nhằm đạt được một ngành công nghiệp đầu tư dài hạn một cách bền vững, phân phối giá trị cho nền kinh tế Việt Nam. Mục tiêu dài hạn là để phân tích chuỗi giá trị hiện tại từng bước một và tìm kiếm để nắm lấy lợi ích tối đa cho nền kinh tế trong khi đặt nền móng cho một nền công nghiệp bền vững lâu dài.
Chiến lược này sẽ đạt được bằng cách:
phát triển khả năng cung cấp nguyên liệu thô tại địa phương càng nhiều càng tốt, ở những nơi không thể cung cấp nguyên liệu thô thì cần đảm bảo các cơ sở hạ tầng đầy đủ cho việc nhập khẩu nguyên liệu cần thiết
thông qua thiết kế và phát triển sản phẩm sử dụngt tối đa nhưng nguyên liệu tự nhiên không phải là gỗ như mây, tre và sợi tự nhiên như cói, vv
tổ chức đào tạo ở cấp độ thủ công, cấp độ chế tạo cơ khí, cấp độ thiết kế và quản lý để có thể cung cấp nguồn nhân lực được đào tạo khi cần
lấp đầy những khoảng trống trong cơ sở hạ tầng về đào tạo bằng cách trực tiếp hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc thuê chuyên gia bên ngoài về kỹ thuật, thiết kế, marketing, quản lý và tài chính
tận dụng các cơ hội để quảng bá Việt Nam như một điểm đến thiết thực cho nguồn cung đồ gỗ, tham dự các hội chợ thương mại quốc tế với vai trò là nhà cung cấp Việt Nam trong khi vẫn đảm bảo rằng những doanh nghiệp có gian hàng tại các triển lãm trong nước có thể nâng tầm và đề cao thương hiệu của đồ gỗ Việt Nam.
bắt đầu gắn thương thiệu cho các sản phẩm càng sớm càng tốt trong quá trình phát triển doanh nghiệp
cung cấp các tiện nghi triển lãm tiến tiến nhất để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam trưng bày sản phẩm của họ tại một điạ điểm tiện nghi và tin cậy
khuyến khích các doanh nghiệp FDI đầu tư ổn định để họ không dễ dàng chuyển đến một mục tiêu “giá rẻ” tiếp theo.
sử dụng tất các cơ hội tận dụng công nghệ thông tin để thúc đẩy sự gia nhập của Việt Nam vào thị trường thế giới và giữ thái độ vui vẻ với hàng hoá bị trả lại
tận dụng tối đa các phương tiện hiệu quả để đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng trong khi cần phải chú trọng đến tất cả các bước như sử dụng nguồn nguyên liệu bền vững, môi trường sản xuất sạch và giảm tối thiểu các dấu vết cac-bon trong quá trình giao hàng đến người tiêu dùng.
Sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp đồ gỗ Việt Nam đòi hỏi phải có sự cam kết dài hạn từ Chính phủ. Lý tưởng nhất là được hỗ trợ bởi “Một cửa” (one stop shop) dưới sự quản lý của một Bộ tương ứng mà có thể cung cấp tất cả đầu vào và tư vấn về các nguồn hỗ trợ quản lý, marketing, đào tạo, tài trợ, hỗ trợ tài chính, vv.
1 Giới thiệu
1.1 Cơ sở
Việc sản xuất đồ gỗ có truyền thông lâu đời tại Việt Nam nhưng chỉ mới nở rộ trong thời gian gần đây. Nó đã trở thành một trong 5 ngành xuất khẩu mũi nhọn sau dầu thô, dệt may, da giày và hải sản.
Đồ gỗ Việt Nam đã được công nhận trên thị trường thế giới với kim ngạch xuất khẩu tăng từ 135 triệu đô la Mỹ năm 1998 lên 1 tỉ đô năm 2004 và đạt 2.72 tỉ đô năm 2008. Năm 2008, đồ gỗ Việt Nam đã gia nhập vào cộng đồng 167 quốc gia và lãnh thổ trên toàn thế giới, trong đó Mỹ là thị trường nhập khẩu lớn nhất với kim ngạch nhập khẩu lên tới 1,1 tỷ USD, tiếp theo là Nhật Bản (378,8 triệu USD), Anh (197 triệu USD), Đức (152 triệu USD). Từ năm 2000 - 2008, mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trung bình hàng năm là 25%. Từ 2006, Việt Nam đã vượt qua Indonesia và Thái Lan để trở thành một trong hai nhà xuất khẩu đồ gỗ hàng đầu Đông Nam Á.
Trên cả nước có khoảng 2,562 doanh nghiệp chế biến gỗ, tạo công ăn việc làm cho gần 170,000 người lao động. Ngành công nghiệp đã đóng góp đáng kể vào việc cải thiện đời sống cho người dân ở vùng nông thôn Việt Nam. Ngoài ra, sự phát triển của ngành công nghiệp gỗ cũng mang lại cơ hội phát triển cho các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước như phần cứng, phụ kiện, vật liệu hoàn thiện, keo dán, gỗ dán, máy móc, vv và các công nghiệp dịch vụ như tư vấn, phần mềm, marketing, vận tải, tài chính, vv. Tất cả những lĩnh vực này chưa hoàn toàn được nắm bắt trong chuỗi giá trị.
Sự phát triển của ngành công nghiệp gỗ ở Việt Nam còn rất nhiều khó khăn. Những khó khăn này bao gồm cả các yếu tố bên trong và bên ngoài, đó là:
thiếu nguồn nhân lực có tay nghề
thiếu nghiêm trọng các tiện nghi đào tạo và các cơ hội được đào tạo nâng cao về thiết kế và chế tạo cho những người mới vào nghề
các thiết bị nghèo nàn và lạc hậu tại nhiều nhà máy
thiếu diện tích rừng được công nhận ở Việt Nam và các khó khăn về nguồn cung cấp gỗ được xác nhận và không được xác nhận từ thị trường thế giới.
thiếu nguồn nhân sự marketing có kinh nghiệm và khoảng cách giữa các thị trường lớn làm hạn chế rất lớn cho việc bán hàng.
sự yếu kém trong thiết kế và chế tác đồ gỗ đã dẫn đến việc các sản phẩm tương tự lại tìm đến những thị trường giống nhau, do đó đẩy giá cả, là lợi thế cạnh tranh hàng đầu, xuống thấp và làm giảm khả năng đầu tư vào thiết kế, chế tác và phát triển sản phẩm.
Cơ sở hạ tầng yếu kém trong cả vận tải đường bộ và đường biển sẽ làm hạn chế khả năng xuất khẩu.
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu thời gian gần đây cũng đã gây ra rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp chế biến gỗ, thị trường có xu hướng bị thu hẹp, lượng hàng tồn kho của các doanh nghiệp ngày càng nhiều, giá bán cũng bị chèn ép dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp phải sản xuất cầm chừng hoặc ngừng sản xuất.
Những hạn chế này ảnh hưởng lên toàn ngành nói chung và từng vùng nói riêng. Thực tế là một số lượng lớn hàng xuất khẩu đang được sản xuất bởi các công ty có vốn đầu tư nước ngoài( FDI), để mở rộng quy mô của ngành công nghiệp đò gỗ trong tương lai cần phải có một chiến lược rõ ràng để thúc đẩy tính cạnh tranh, gia tăng giá trị xuất khẩu và cơ cấu lại các doanh nghiệp tư nhân để có thể đứng vững và là những đối thủ cạnh tranh mạnh trong thị trường đồ gỗ thế giới những năm tới. Cần phải nhấn mạnh rằng giá trị mới là chủ yếu chứ không phải là số lượng.
Một chiến lược phát triển ngành là rất cần thiết khi mà Bộ Thương mại đã đặt ra mục tiêu xuất khẩu là 5.56 tỉ đô la Mỹ vào năm 2020 và Thủ tướng cũng đặt ra mục tiêu là 7 tỉ đô la Mỹ vào năm 2020.
1.2 Phương pháp
Chiến lược xuất khẩu ngành gỗ hướng tới việc đưa ra một cơ cấu để đạt được các mục tiêu xúc tiến xuất khẩu và cải thiện tình hình phát triển của ngành. Xây dựng trên những đánh giá tổng thể về chuỗi giá trị hiện tại, hiện trạng xuất khẩu, khả năng cạnh tranh xuất khẩu, các yếu tố thiết yếu để thành công, các chính sách và chiến lược liên quan của chính phủ và mạng lưới hỗ trợ ngành. Chiến lược này đề ra tầm nhìn dài hạn cùng với các biện pháp và hành động đề xuất cần được triển khai trong vòng 5 năm tới.
Phương pháp chính được áp dụng là Phân tích chuỗi giá trị và Khung Bốn bánh xe tương tác (Four - Wheel Gear Interactive Frame) của ITC. Một chuỗi giá trị bao gồm tất cả các cá nhân và doanh nghiệp mua và bán lẫn nhau để cung cấp một sản phẩm hay một bộ sản phẩm gồm có các liên kết dọc và ngang.
Trong ngành gỗ, chuỗi giá trị có thể được mô tả như một sự kết nối giữa những nhà cung cấp nguyên liệu thô (cả gỗ và phụ liệu), nhà sản xuất, nhà xuất khẩu ở phía trong nước và các nhà nhập khẩu, nhà bán buôn, bán lẻ, người tiêu dùng cuối cùng ở phía quốc tế trong.
Khung Bốn bánh xe tương tác được dùng để tạo ra một chiến lược xuất khẩu tổng thể bằng cách đưa ra cái nhìn gần hơn với 4 hạng mục của vấn đề phát triển chuỗi giá trị là:
Nội biên: phần này giải quyết các vấn đề liên quan đến:
Phát triển nguồn lực liên quan đến khả năng sản xuất của ngành. Nó giải quyết các vấn đề liên quan đến sản lượng, tăng số lượng, cải tiến chất lượng và quan trọng nhất là tăng giá trị;
Đa dạng hoá và phát triển sản phẩm như sản xuất dòng sản phẩm mới và/hoặc các sản phẩm liên quan;
Phát triển nguồn nhân lực bao gồm phát triển và đào tạo nguồn nhân sự và khuyến khích, thúc đẩy sự liên kết trong ngành.
Biên: phần này giải quyết các vấn đề liên quan đến:
Cải thiện cơ sở hạ tầng cần thiết cho sự phát triển ngành;
Các ưu đãi về thương mại cần thiết để cải thiện tính cạnh tranh và nắm bắt giá trị;
Giảm chi phí kinh doanh để đảm bảo và cải thiện tính cạnh tranh của ngành.
Ngoại biên: phần này giải quyết các vấn đề liên quan đến:
Thâm nhập thị trường bao gồm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan và các vấn đề thâm nhập thị trường khác;
Hỗ trợ trong thị trường như thiết kế, phát triển sản phẩm, triển lãm, vv.
Xúc tiến và xây dựng thương hiệu củng cố hình ảnh của ngàh tại các thị trường mục tiêu.
Phát triển: phần này giải quyết các vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế và xã hội tại đất nước mà ngành công nghiệp gỗ đang đóng góp.
2 Hiện trạng ngành
2.1 Các nhóm sản phẩm
Theo bảng hệ thống mã số hàng hoá (HS), ngành gỗ Việt Nam có thể chia ra làm 8 nhóm cơ bản là:
HS940161: Ghế bọc (khung gỗ)
HS940169 : Ghế không bọc, làm từ gỗ
HS940180 : Các loại ghế khác
HS940190 : Các bộ phận của ghế
HS940330 : Đồ gỗ văn phòng, làm từ gỗ
HS940340 : Nội thất nhà bếp và các đồ gỗ nhà bếp khác, làm từ gỗ
HS940350 : Nội thất phòng ngủ, làm từ gỗ
HS940360 : Nội thất phòng ăn và phòng khách, làm từ gỗ
Các sản phẩm cũng có thể được chia ra thành nội thất trong nhà và ngoài trời. Trong nhiều trường hợp, có thể chia ra theo các kiểu như Cổ điển, Sang trọng, Nông thôn, Hiện đại…
Việc sản xuất đồ gỗ tại Việt Nam được tiến hành cả tại các làng nghề và tại các xưởng sản xuất công nghiệp (nhà máy). Có 4 trung tâm sản xuất đồ gỗ chính là Đồng bằng sông Hồng, tỉnh Bình Dương, Tây Nguyên (Gia Lai, Đak Lak) và Miền Nam Việt Nam (Bình Dương, Tp. HCM, Đồng Nai và Long An)
Tại đồng bằng sông Hồng thì Hà Tây, Bắc Ninh và Hà Nội là những trung tâm hàng đầu về sản xuất đồ gỗ theo kiểu truyền thống. Những trung tâm nổi tiếng là làng Đồng Kỵ (Bắc Ninh), Vạn Điểm (Hà Tây), Vân Hà (Hà Nội)… Còn có rất nhiều làng nghề sản xuất đồ gỗ tại các tỉnh Hải Dương, Vĩnh Phúc, Nam Định, Hưng Yên. Tổng cộng có 342 làng nghề thủ công làm đồ gỗ tạ Việt Nam, tạo việc làm cho 99,904 người lao động. Hầu hết các đồ gỗ trạm khảm được dùng trong nước hoặc xuất khẩu sang các thị trường như Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông.
Các sản phẩm gỗ công nghiệp sản xuất theo quy mô lớn tại Việt Nam, không phải đồ gỗ truyền thống, tập trung ở 3 khu vực chính là tỉnh Bình Dương, Tây Nguyên (Gia Lai, Dak Lac) và phía Nam (TP.HCM, Đồng Nai, Long An). Đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là từ 3 khu vực này, đặc biệt là tại các tỉnh miền Nam và Bình Dương. Từ những tỉnh này, các sản phẩm như đồ gỗ trong nhà và ngoài trời làm từ gỗ tự nhiên, gỗ trồng hoặc gỗ hỗn hợp, gỗ dán và các vật liệu khác được sản xuất. Thường thì chúng được sản xuất theo yêu cầu và đơn đặt hàng của khách hàng. Ngoài ra, khu vực này cũng xuất khẩu một khối lượng lớn vỏ bào và gỗ vụn.
Có sự đa dạng rất lớn về các doanh nghiệp trong ngành, từ những tập đoàn, công ty lớn với nhiều máy móc, dây chuyền hiện đại sản xuất hàng loạt tới những hộ gia đình sản xuất nhỏ hầu hết với máy móc lạc hậu và phụ thuộc chủ yếu vào lao động thủ công. Việc sản xuất đồ gỗ tại các gia định trong các làng nghề rất phổ biến ở Việt Nam. Những sản phẩm gia đình này có nhưng lợi thế lớn vì hầu hết các công đoạn sản xuất đều được thực hiện bởi những người có tay nghề cao. Họ sử dụng những máy móc rất đơn giản. Nhưng rất khó để họ thực hiện được các đơn đặt hàng lớn.
Điều này cho phép có sự linh hoạt trong việc tìm kiếm các sản phẩm đa dạng về mẫu mã trang trí và nó phù hợp cho những ai tìm kiếm các sản phẩm chuyên về thủ công tinh xảo. Một vấn đề nảy sinh là khi số lượng đơn hàng lớn thì không có đủ nhân lực để làm. Chất lượng có thể bị giảm, nhà sản xuất giao hàng không đúng hẹ, khách hàng thất vọng và hình ảnh của nhà sản xuất có thể bị phá hỏng.
Tuy nhiên cũng có rất nhiều công ty có chứng nhận chất lượng và họ có thể điều hành việc sản xuất để đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng của khách hàng. Những nhà máy được điều hành tốt hơn thì có tổ chức tốt và mức độ đầu tư vào sản xuất cũng lớn hơn. Công nhân được đào tạo lành nghề tại những vị trí chuyên môn. Những người quản lý biết cách tổ chức các tiện nghi sản xuất sao cho hiệu quả và năng suất. Nhiều nhà sản xuất hàng loạt tại Việt Nam không tập trung vào một số sản phẩm nhất định, thay vào đó họ trải nguồn lực vào nhiều mặt hàng. Kiểu sản xuất này cần có mức độ công nghiệp hoá cao hơn và được hưởng lợi việc ứng dụng các thiết bị điều khiển bằng máy tính, các máy móc dây truyền và môi trường hoàn thiện.
Chuỗi giá trị của ngành
Chuỗi giá trị của ngành công nghiệp gỗ được tạo thành bởi sự tham gia của các đối tượng đa dạng. Những đối tượng chính là gỗ và nguyên liệu tấm ( MDF, tấm nhỏ, lát mỏng, lớp gỗ dán ngoài ) nguyên liệu hoàn thiện và keo dán, phần cứng và phần nối, đóng gói, cung cấp thiết bị, chi nhánh bán hàng, công ty vận tải, các cơ quan nghiên cứu phát triển, nhà bán buôn, nhà bán lẻ, khách hàng (Xem Chuỗi giá trị bên dưới)
Gỗ từ nguồn trong nước:
Gỗ từ nguồn trong nước tại Việt Nam bao gồm gỗ trong rừng tự nhiên, gỗ trồng và gỗ nhân tạo (MDF, gỗ dán, gỗ mảnh...)
Tổng diện tích rừng tự nhiên của Việt Nam khoảng 8,2 triệu ha, trong đó chỉ có 2,9 triệu ha được xếp loại là rừng sinh lợi. Việc khai thác gỗ từ rừng tự nhiên được nhà nước quản lý rất chặt chẽ. Khối lượng khai thác được phân bổ hàng năm tuỳ theo từng tỉnh và số lượng chặt hạ đang giảm dần từng năm trên phạm vi cả nước. Nếu vào năm 1990, khối lượng khai thác hàng năm là trên 1 triệu M3, thì sau đó đã giảm xuống 300,000 M3 vào năm 2000 và đến 2008 thì hạn mức khai thác gỗ chỉ còn 120,000 M3 trên cả nước.
Bảng 1: Hạn mức khai thác gỗ tại Việt Nam
Năm
1990s
2000
2004
2005
2006
2007
2008
Hạn ngạch khai thác (m3)
Trên 1 triệu.
300,000
200,000
150,000
130,000
120,000
120,000
* Các dịch vụ (Services) ở đây đề cập đến các dịch vụ sấy khô bằng lò, bảo dưỡng dụng cụ máy móc.
** Nguyên liệu hoàn thiện (finishing materials) là các nguyên liệu dùng để chuẩn bị và hoàn thiện sản phẩm ví dụ như băng dính, nguyên liệu mài mòn (đá mài, đánh giáp), dung môi, sơn mài, sơn nước, vv. Bản thân việc sản xuất đồ gỗ với những công đoạn phức tạp của nó chỉ chiếm 25% giá trị tiêu dùng của sản phẩm. 75% giá trị còn lại nằm trong chuỗi giá trị bên ngoài. Điều này nhấn mạnh vào cơ hội tăng phần giá trị còn lại cho sản phẩm.
Cần phải lưu ý rằng, số lượng gỗ tự nhiên khai thác hàng năm ở trên không phải chỉ để sản xuất đồ gỗ mà còn dùng vào rất nhiều mục địch khác như xậy dựng và khai thác mỏ. Theo ước tính chỉ khoảng 60% gỗ khai thác từ các khu rừng tự nhiên được dùng vào mục đích sản xuất đồ gỗ (tương đương 72,000 M3 năm 2008).
Diện tích rừng trồng ở Việt Nam là 2.2 triệu ha, trong đó rừng sinh lợi là 1.45 triệu ha (681,000 ha là rừng trưởng thành). Khối lượng khai thác từ các khu rừng trồng tăng dần mỗi năm từ 800.000 M3 năm 2000 lên trên 2 triệu M3 năm 2008. Hầu hết gỗ từ nguồn rừng trồng của Việt Nam được sử dụng để sản xuất giấy, làm giá đỡ để khai thác mỏ, các nguyên liệu ván, tấm nhân tạo và sản xuất đồ dùng bằng gỗ.
Tổng khối lượng đồ gỗ sản xuất từ gỗ trồng chiếm khoảng 20% tổng khối lượng gỗ khai thác. Tổng khối lượng gỗ trồng dùng để sản xuất đồ gỗ từ năm 2003-2006 là khoảng 1triệu M3. Lượng tiêu thụ gỗ trồng để sản xuất đồ gỗ ước tính vào năm 2010 là khoảng 3.5 triệu M3. Một khối lượng tương tự nguyên liệu ván, tấm nhân tạo cũng sẽ được sử dụng tới 2010. Một trong những điểm yếu của gỗ trồng tại Việt Nam là đường kính nhỏ. Điều này có nghĩa là sẽ khó có thể sản xuất đồ gỗ một cách hiệu quả từ nguồn nguyên liệu này. Hẩu hết được dùng để sản xuất ván ép nhân tạo và bột giấy. Thêm vào đó, ở Việt Nam không có sản phẩm gỗ được chứng nhận đủ các tiêu chuẩn về kinh tế xã hội và môi trường do Tổ chức quốc tế về quản lý rừng (FSC) cấp bất kể là gỗ tự nhiên hay gỗ trồng. (Chỉ có một công ty là OJI, nhà máy sản xuất giấy với vốn đầu tư của Nhật Bản đạt được chứng nhận FSC cho rừng trồng của họ. Nguyên liệu được dùng để làm bột giấy).
Để nỗ lực giảm sự khan hiếm của nguồn nguyên liệu gỗ tự nhiên, các nhà sản xuất dựa trên nguyên liệu là gỗ đã thu hút được nhiều sự quan tâm, đầu tư từ chính phủ. Tuy nhiên, dù lý do gì đi nữa, thì việc sản xuất vẫn không đáp ứng được mục tiêu đề ra. Điều này thể hiện ở việc chỉ đạt được 20% tổng công suất chế biến, trong đó:
Sản xuất gỗ dán: 12 nhà máy và 10 đơn vị sản xuất quy mô nhỏ với công suất thiết kế 150,000 m3 sản phẩm mỗi năm; thực tế chỉ đạt được 60.000 m3 sản phẩm mỗi năm.
Sản xuất ván dăm, ván ép bột sợi: 6 nhà máy với công suất thiết kế là 88.000 m3 sản phẩm mỗi năm và có công suất thực tế là 45.000 m3 mỗi năm.
Sản xuất ván phủ giấy: 9 đơn vị sản xuất với công suất 26.000 m3 sản phẩm mỗi năm nhưng công suất thực tế là 15.000 m3
Tính trung bình thì tình hình sản xuất chung chỉ đạt mức dưới 50% công suất và đòi hỏi phải có sự phân tích, quyết định kịp thời để đưa ra các biện pháp hỗ trợ kỹ thuật nhằm cải thiện tình hình. Từ nay đến 2020, chính phủ sẽ tập trung vào hai loại sản phẩm chủ yếu là gỗ tấm nhân tạo, ván dăm và ván ép bột sợi tỉ trọng trung bình sử dụng nguồn gỗ trồng. Mục tiêu đặt ra là công suất 540.000M3 sản phẩm, 320.000 m3 ván dăm và 220.000m3 ván ép bội sợi mỗi năm. Tuy nhiên, chất lượng gỗ trồng tại Việt Nam còn rất thấp do giống kém và kỹ thuật chăm sóc không đảm bảo, vì vậy hầu hết chỉ phù hợp để sản xuất giấy và làm nguyên liệu gỗ nhân tạo.
Gỗ nhập khẩu
Lượng tiêu thụ gỗ của ngành công nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam từ 3-3,5 triệu m3 mỗi năm nhưng lượng nguyên liệu trong nước mới chỉ đáp ứng được 20%, 80% còn lại là nhập khẩu. Theo thống kê, Việt Nam nhập khẩu nguyên liệu gỗ từ hơn 100 nước trên thế giới. Khối lượng gỗ nhập khẩu tăng lên hàng năm từ 151,5 triệu đô la Mỹ năm