Hoạt động của ngân hàng liên quan đến sự ổn định hay thay đổi của tiền tệ về lưu lượng ,chi phí và giá trị.Vì những thay đổi nói trên tác động đến giá cả hàng hoá và giá trị tài tài sản ,thu nhập của nhân dân.Cho nên nó làm chuyển biến mức sống của họ giữa hai thái cực khó khăn đắt đỏ ,thuận lợi và tiện nghi.Do đó bằng cách tạo ra các biến động về tiền tệ người ta có thể hoàn toàn hướng dẫn những biến động nhất định trong đời sống kinh tế của một quốc gia .Mối quan hệ ấy đã làm cho những biến động về tiền được gọi là chính sách tiền tệ.Ngân hàng trung ương thực hiện chính sách tiền tệ thông qua các công cụ của mình để kiểm soát và điều tiết lượng tiền cung ứng nhằm đạt được các mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô là ổn định giá cả ,tăng trưởng kinh tế ,đảm bảo công ăn việc làm.Qua ví dụ sau ta có thể thấy tác động của chính tiền tệ đối với nền kinh tế .
Giả sử rằng vận tốc quay vòng của đồng tiền không đổi , giá của những chiếc bánh của nền kinh tế tạo ra sẽ phụ thuộc lượng bánh sẽ được sản suất ra và khối lượng tiền do Ngân hàng trung ương cung ứng .Cho rằng nền kinh tế chỉ sản suất ra độc nhất 1 loại hàng hoá là bánh và 1 năm tạo được 10 bánh .Nếu Ngân hàng trung ương cung ứng vào nền kinh tế là 20 đồng tiền thig giá mỗi chiếc bánh sẽ là 2 đồng . Bây giờ gải sử năm sau nền kinh tế tạo ra đến 20 bánh ,nếu ngân hàng trung ương không phát hành thêm tiền thì chỉ có 20 đồng tương ứng với 20 bánh .Bánh trở nên thừa và sự thiếu tiền sẽ làm cho chỉ cần 1 đồng đã đổi được 1 bánh.Giá cả của bánh bây giờ 1 tiền so với thời điểm trước giá đã tụt xuống hay không còn ổn định nữa.
21 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4272 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chính sách tiền tệ và vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của ngân hàng trung ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I
Chính sách tiền tệ và vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của Ngân hàng trung ương
I Chính sách tiền tệ
1. Thực chất về chính sách tiền tệ
Hoạt động của ngân hàng liên quan đến sự ổn định hay thay đổi của tiền tệ về lưu lượng ,chi phí và giá trị.Vì những thay đổi nói trên tác động đến giá cả hàng hoá và giá trị tài tài sản ,thu nhập của nhân dân.Cho nên nó làm chuyển biến mức sống của họ giữa hai thái cực khó khăn đắt đỏ ,thuận lợi và tiện nghi.Do đó bằng cách tạo ra các biến động về tiền tệ người ta có thể hoàn toàn hướng dẫn những biến động nhất định trong đời sống kinh tế của một quốc gia .Mối quan hệ ấy đã làm cho những biến động về tiền được gọi là chính sách tiền tệ.Ngân hàng trung ương thực hiện chính sách tiền tệ thông qua các công cụ của mình để kiểm soát và điều tiết lượng tiền cung ứng nhằm đạt được các mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô là ổn định giá cả ,tăng trưởng kinh tế ,đảm bảo công ăn việc làm.Qua ví dụ sau ta có thể thấy tác động của chính tiền tệ đối với nền kinh tế .
Giả sử rằng vận tốc quay vòng của đồng tiền không đổi , giá của những chiếc bánh của nền kinh tế tạo ra sẽ phụ thuộc lượng bánh sẽ được sản suất ra và khối lượng tiền do Ngân hàng trung ương cung ứng .Cho rằng nền kinh tế chỉ sản suất ra độc nhất 1 loại hàng hoá là bánh và 1 năm tạo được 10 bánh .Nếu Ngân hàng trung ương cung ứng vào nền kinh tế là 20 đồng tiền thig giá mỗi chiếc bánh sẽ là 2 đồng . Bây giờ gải sử năm sau nền kinh tế tạo ra đến 20 bánh ,nếu ngân hàng trung ương không phát hành thêm tiền thì chỉ có 20 đồng tương ứng với 20 bánh .Bánh trở nên thừa và sự thiếu tiền sẽ làm cho chỉ cần 1 đồng đã đổi được 1 bánh.Giá cả của bánh bây giờ 1 tiền so với thời điểm trước giá đã tụt xuống hay không còn ổn định nữa.
Trong trường hợp Ngân hàng trung ương muốn giữ cho giá ổn định ở mức 2 đồng 1 chiếc bánh thì cần phải phát hành thêm tiền để tương nứng với lượng bánh mới tăng thêm là 10 chiếc,10 chiếc bánh mới cũng có giá trị là 2 đồng /chiếc nên ngân hàng TW phải cung ứng thêm 20 đồng .Lúc ấy tổng số tiền cung ứng là 40 đồng ,tổng sản phẩm là 20 bánh,khi đó giá mỗi chiếc bánh sẽ ổn định ở mức 2 đồng .
Trong trường hợp ngược lại khi bánh giảm xuống còn 5 chiếc để giá cả không đổi với mức 2 đồng / 1 bánh thì lượng tiền cung ứng tối đa không quá 10 đồng .Nghĩa là Ngân hàng trung ương phải rút bớt tiền về thông qua hệ thống các công cụ của mình khi số lượng sản phẩm được tạo ra trong nền kinh tế giảm đi.
Chính sách tiền tệ được biểu hiện dưới hai hình thức đó là chính sách tiền tệ thắt chặt và chính sách tiền tệ nới lỏng.Tuỳ thuộc vào từng thời kỳ cụ thể mà Ngân hàng trung ương thực hiện 1 trong 2 chính sách trên.
2.Chính sách tiền tệ ở Việt Nam
ở nước ta luật ngân hàng nhà nước Việt Nam qui định:
Chính sách tiền tệ quốc gia là bộ phận của chính sách kinh tế tài chính của nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền,kiềm chế lạm phát ,góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội ,đảm bảo quốc phòng an ninh và nâng cao đời sống nhân dân.Quốc hội quyết định và giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia ,mức lạm phát dự kiến hàng năm trong mối tương quan với ngân sách nhà nước và mức tăng trưởng kinh tế .Chính phủ xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia ,mức lạm phát dự kiến hàng năm trình quốc hội quyết định ,tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia ,quyết định lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông hàng năm.Trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia của mình Ngân hàng nhà nước có trách nhiệm điều hành các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia .Thực hiện việc đưa tiền ra lưu thông ,rút tiền từ lưu thông về theo tín hiệu của thị trường trong phạm vi lượng cung ứng tiền đã được chính phủ phê duyệt .
II.Các công cụ điều tiết của chính sách tiền tệ
1.Các công cụ truyền thống của các nước trên thế giới
Công cụ trực tiếp :Công cụ trực tiếp là công cụ tác động trực tiếp vào khối lượng tiền trong lưu thông công cụ trực tiếp dược áp dụng phổ biến là hạn mức tín dụng.Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng trung ương buộc các tổ chức tín dụng phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế .Mức dư nợ được qui định cho từng ngân hàng tuỳ thuộc đặc điểm kinh doanh của từng NH.Công cụ này thường được sử dụng trong trường hợp lạm phát cao nhằm khống chế ngay lập tức khối lượng tín dụng cung ứng .Trong trường hợp khi các công cụ gián tiếp không phát huy hiệu quả do thị trường tài chính tiền tệ chưa phát triển hoặc mức cầu tiền tệ không nhạy cảm với sự biến động của lãi suất hay Ngân hàng trung ương không có khả năng khống chế và kiểm soát được sự biến động của lượng vốn khả dụng của hệ thống NHTM thì công cụ hạn mức tín dụng là cứu cánh của ngân hàng Trung ương trong viẹc điều tiết lượng tiền cung ứng .Tuy nhiên hiệu quả của công cụ này không cao bởi nó thiếu tính linh hoạt và đôi khi đi ngược lại chiều hướng biến động củ thị trường tín dụng do đó đẩy lãi suất lên cao hoặc làm giảm cạnh tranh của các ngân hàng thương mại
Công cụ gián tiếp: Công cụ gián tiếp là nhóm công cụ tác động trước hết vào mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ thông qua cơ chế thị trường mà các tác động này được truyền đến các mục tiêu trung gian là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất .Thuộc về mhóm công cụ này gồm:
-Dự trữ bắt buộc:
DTBB là số tiền mà các ngân hàng thương mại phải duy trì trên 1 tài khoản tiền gửi không hưởng lãi tại Ngân hàng trung ương ,được xác định bằng 1 tỷ lệ phần trăm nhất định.Tỷ lệ DTBB được quản lý theo nguyên tắc bình quân.Khi ngân hàng TW nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc khả năng cho vay và khả năng thanh toán của ngân hàng bị thu hẹp khối lượng tín dụng trong nền kinh tế sẽ giảm .Ngược lại nếu ngân hàng trung ương hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì cung về tín dụng của các NHTM cũng tăng lên ,khối lượng tín dụng và khối lượng thanh toán có xu hướng tăng lên đồng thời tăng xu hướng mở rộng tiền khối lượng tiền .Do tính chất và tác dụng như vậy nên tại các nước Ngân hàng trung ương có quy định phân biệt tỷ lệ DTBB cho từng loại tiền gửi theo nguyên tắc : Tiền gửi tiết kiệm có tỷe lệ DTBB thấp nhất sau đó đến tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn tỷ lệ cao nhất
- Chính sách tái chiết khấu:
Chính sách tái chiết khấu bao gồm các quy định về điều kiện cho vay của ngân hàng TW đối với các ngân hàng thương mại trên cơ sở chiết khấu các giấy tờ có giá ngắn hạn thông qua lãi suất tái chiết khấu.Lãi suất có 2 tác dụng đó là tác dụng trực tiếp và tác dụng gián tiếp .Tác dụng trực tiếp là nó làm tăng giảm lãi suất cho vaycủa NHTM do đó tác động đến cung ứng tiền và tín dụng.Tác động gián tiếp nó làm tăng hoặc giảm dự trữ của ngân hàng .Do vậy tác động đến lượng cho vay tiêu dùng và đầu tư trong nền kinh tế .
-Nghiệp vụ thị trường mở:
Nghiệp vụ thị trường mở là các hoạt động của ngân hàng trung ương trên thị trường mở thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá,Các hoạt động này làm ảnh hưởng trực tiếp đến dự trữ của các ngân hàng thương mại và ảnh hưởng truực tiếp đến các mức lãi suất .Khi ngân hàng thương mại mua (bán) các giấy tờ có giá nó sẽ làm giảm(tăng )ngay lập tức dự trữ cuả các ngân hàng thương mại vì thế khả năng tạo tiền thông qua cung ứng tín dụng của hệ thống ngân hàng giảm xuống ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng .Đây là công cụ điều tiết các mục tiêu trung gian rất có hiệu quả vì nó rất linh hoạt và chủ động.Tuy nhiên để sử dụng nó có hiệu quả càn phải có 1 thị trường vốn thứ cấp và thị trường tiền tệ phát triển.
2.Các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt nam
Để thực hiẹn chính sách tiền tệ quốc gia ngân hàng nhà nước Việt Nam sử dụng các công cụ như :
- Công cụ lãi suất
Tỷ giá hối đoái
Dự trữ bắt buộc
Nghiệp vụ thị trường mở
Công cụ tái cấp vốn bao gồm:
1.Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng
2.Chiết khấu,tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác .
3.Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Các công cụ khác do nhà nước qui định .
Ngân hàng nhà nước xác định và công bố lãi suất cơ bản ,lãi suất tái cấp vốn vàtỷ giá hối đoái của đồng Việt nam trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của nhà nước .
Trong thực hiện dự trữ bắt buộc ngân hàng nhà nước Việt nam qui định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình tổ chức tín dụng và từng loại tiền gửi với mức từ 0-20% tổng số dư tiền gửi tại mỗi tổ chức tín dụng trong từng thời kỳ.Việc trả lãi đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc của tùng loại hình tổ chức tín dụng,từng loại tiền gửi trong từng thời kỳ do chính phủ qui định.
Ngân hàng nhà nước Việt nam thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc mua bán tín phiếu kho bạc,chứng chỉ tiền gửi ,tín phiếu ngân hàng nhà nước và các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị trường tiền tệ.
Như vậy so sánh với các công cụ truyền thống của các nước trên thế giới thì ở Việt nam còn sử dụng thêm các công cụ bổ trợ là Lãi suất và tỷ giá hối đoái để thực hiên chính sách tiền tệ quốc gia.
III Vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của ngân hàng trung ương
Thông qua các công cụ chính sách tiền tệ của mình Ngân hàng trung ương thực hiện vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô bằng việc thực thi các chính sách tiền tệ nhằm làm thay đổi cung ứng tiền từ đó dẫn đến sự thay đổi về lãi suất ,dự trữ,tỷ giá .Những nhân tố này tác động đến đầu tư ,tiêu dùng ,sản lượng công ăn việc làm,giá cả.Như vậy để đạt được đến mục tiêu điều tiết cuối cùng thì ngân hàng trung ương phải thực hiện điều tiết các mục tiêu trung gian.Trong ngắn hạn lãi suất ,tỷ giá và dự trữ thay đổi ảnh hưởng 1 cách nhanh chóng đến tiêu dùng và đầu tư do vậy nó sẽ ảnh huưởmg đến toàn bộ nền kinh tế vĩ mô từ lý do đó mà trong ngắn hạn mà chúng được xem là những mục tiêu trung gian
Như vậy vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của Ngân hàng trung ương thể hiện ở chỗ điều tiết cung ứng tiền phù hợp để thúc đẩy nền kinh tế với những mục tiêu đã đề ra.
1.Các mục tiêu điều tiết của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ phải phục vụ cho nền kinh tế có tăng trưởng kinh tế thực tế.
Chính sách tiền tệ phải hướng về việc ổn định giá cả.
Chính sách tiền tệ phải đảm bảo công ăn việc làm
Chính sách tiền tệ phải góp phần liên tục mở rộng sản lượng tiềm năng
Công cụ chính sách tiền tệ
Cung ứng tiền
M1,M2,M3
Lãi suất
dự trữ
tỷ giá
Đầu tư ,Tiêu dùng,sản lượng,công ăn việc làm
Mục tiêu trung gian
Hoạt động điều tiết
Mục tiêu điều tiết
Làm thay
Làm thay đổi đổi
Chương 2
Các giải pháp nhằm chuyển đổi công cụ chính sách tiền tệ từ trực tiếp sang gián tiếp ở Việt Nam
Như đã phân tích ở trê, việc điêu hành chính sách tiền tệ thông qua công cụ trực tiếp trong 10 năm qua ở Việt Nam đã đem lại một số thành công nhất định trong việc ổn định vĩ mô: Đẩy lùi lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, việc sử dụng các công cụ mang tính hành chính là là mang tính tạm thời trong khi Việt Nam chưa hội đủ các điều kiện để sử dụng các các gián tiếp dựa vào thị trường. Các công cụ trực tiếp ngày càng tỏ rõ những mặt tiêu cực của nó. Thực tế cho thấy, việc chuyển sang sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ gián tiếp thay cho trực tiếp là một xu hướng tất yếub. Để có thể thực hiện quá trình chuyển đổi nàyc, theo em cần thực hiẹn một số giải pháp sau:
Thiết kế các công cụ
1.1. Dự trữ bắt buộc (DCBB) cần phải áp dụng thống nhất đối với tất cả các tổ chức và mọi loại tài sản nợ. Cần cho phép tính toán và áp dụng DTBB bình quân theo chu kỳ, thương tính thưo tuần để các Ngân hàng có sự linh hoạt trong việc quản lý vốn kả dụng của mình và do đó thúc đẩy sự phát triển của thị trường tiền tệ. Việc không tuân thủ cần bị xử phạt nghiêm khắc thể hiện bằng lãi suất phạt áp dụng trên số thiếu hụt bình quân của cả kỳ và lãi suất phạt này phải cao nhất so với các mức lãi suất khác. NHTW phải có quyền quy định cách thức tính toán và loại tài sản nợ cũng như loại hình tổ chức áp dụng DTBB.
DTBB không được hưởng lãi có tác động làm tăng chi phí huy động vốn, mức chênh lệch lãi suất và do đó tác động tới lãi suất được quy định ở mức rất cao thì sẽ có tác động bóp méo như các công cụ trực tiếp, đặc biệt khi không áp dụng đồng đều với tất cả các tổ chức. Do đó cần giảm tỷ lệ DTBB khi có các công cụ khác và giữ ở mức độ thấp. Cũng cần xem xét trả lãi toàn phần hay một phần do DTBB vượt quá một mức độ nhất định.
DTBB luôn được hạ thấp một cách dễ dàng nhưng không dễ tăng DTBB vì nó đòi hỏi từng Ngân hàng phải có điều chỉnh lớn trong doanh mục đầu tư và do đso DTBB không phải là một công cụ linh hoạt. Tuy nhiên DTBB lại rất hữu hệu và cần phải là một trong những công cụ của bất kỳ NHTW nào.
1.2. Hoạt động tái chiết khấu và tái cấp vốn
Các NHTW thường bắt đầu quá trình cải cách với nhièu thể thức tái cấp vốn, kể cả các thể thức doà hạn dành cho các dự án đặc biệt và các tiểu ngành. Lãi suất tái cấp vốn áp dụng đối với từng thể thức cũng khác nhau và hiếm khi gắn liền với lãi suất thị trường và thường là bao cấp. Các thể thức tái cấp vốn này thường được dùng chủ yếu như là cac công cụ tín dụng có lựa chọ hơn là công cụ tiền tệ mặc dù có tác động tổng hể trực tiếp về mặt tiền tệ. Các thể thức này buộc NHTW phải tham gia vào việc đưa ra các quyết định vi mô và có thể không áp dungj đồng đều đối với mọi Ngân hàng. Đây là công cụ tiền tệ không linh hoạt và hầu như hoàn toàn thuộc quyền chủ động của các Ngân hàng thương mại.
Cần hợp nhất các thể thức tái cấp vốn thành một thể thức với một lãi suất cho vay tía cấp vốn duy nhất. Thường cần phải có một thể thức tái chiết khấu chung để cung cấp vốn khả dụng cho thị trường và ngăn chặn việc biến động quá mức của lãi suất ngứn hạn, đặc biệt là lãi suất liên Ngân hàng. Thể thức này cần áp dụng thống nhất với mọi Ngân hàng và cho phép được vay tự động vơí các quy tắc và hạn mức được quy định trước. hạn mức vay cần thảo gắn với vốn của Ngân hàng hay tài sản thế chấp.
Các quy định thời hạn vay vốn tối đa càng ngắn càng tốt để cho phép NHTW chủ động thay đổi điều kiện vay khi cần thiết. Một số NHTW quy địn thời hạn vay vốn tối đa không quá vài ngày. điều này có nghĩa là các Ngân hàng thương mại muốn sử dụng vốn của NHTW lâu hơn thời hạn tối đa phải gia hạn tín dụng ngắn hạn với điều kiện đã thay đôỉ. Đối với thể thức tía chiết khấu, biến só chính sách củ chốt là lãi suất chiết khấu (LSCK). Nừu không có thị trường tiền tệ phát triển thì có thể phải quy định lãi suất này theo cách hành chính. Một số NHTW tổ chức đấu giá tín dụng của NHTW để xác định lãi suất chiết khấu. Quy tắc căn bản là phải luôn giữ lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất tiền gửi để vuộc các Ngân hàng phải huy đọng tiền gửi trước khi vay vốn của NHTW. Ngay khi có thể, cần đặt lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất tham chiếu chuẩn của thị trường tiền tệ. Ngoài thể thức cung cấp vốn khả dụng, hầu hết các NHTW còn đóng vai trò người cho vay cuối cùng thông qua thể thức cho vay khẩn cấp. Việc sử dụng thể thức vay này có thể bơm vào hệ thống một khối công cụ khác và điều quan trọng là thanh tra Ngân hàng cần được báo độngngay khi có Ngân hàng sử dụng thể thức này.
1.3. Tiền gửi có kỳ hạn tại NHTW
Một số NHTW đã sử dụng thành công tiền gửi có thời hạn để trung hoà vốn khả dụng dư thừa. Nừu tiền gửi này khong được rút trước khi đáo hạn thì tác động của nó giống như DTBB chỉ khác ở cõ đó là tiền gửi này cần phải đưa ra thời hạn và lãi suất hấp dẫn. Nừu loại tiền gửi này có thời hạn tương đôi dài, không được rút trước khi đáo hạn và không chuyển nhượg được thì nó có thể là công cụ tương đối hiệu quả để trung hoà vốn khả dụng.
Khó khăn của công cụ này là làm sao xác định được lãi suất thích hợp và các Ngân hàng thường muốn thời hạn tất ngắn. Điều này làm cho việc trung hoà trở nên không chắc chắn. Ngoài ra, sau khi NHTW đã xác định lãi suất và thời hạn thì Ngân hàng thương mại có toàn quyền chủ động. Một sô NHTW đã sử dụng công cụ này như là bước trong quốc tế phát triển thị trường tiền tệ. Bước tiếp theo là chuyển đỏi tiền gửi nàyv thành các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng.
1.4. Hoạt động thị trường mở thuần tuý
Hoạt động thị trường mở thuần tuý đòi hỏi phải có thị trường thứ cấp với khối lượng giao dịch lớn. Để thực hiện nghiệp vụ này, cả NHTW và Ngân hàng thương mại cần phải nắm giữ và sẵn sàng nắm giữ trái phiếu chính phủ và các loại trái phiếu khác có mức rủi ro thấp. Bằng việc mua bán trái phiếu hoặc thực hiện các giao dịch mua lại (REPO) NHTW có thể điều chỉnh khối lượng vốn khả dụng và lãi suất trên thị trường. Đây là một công cụ kiểm soát tiền tệ linh hoạt nhất và hoàn toàn dự trên cơ sở thị trường. Tuy nhiên, nó cũng là công cụ mà đa số các nước chưa có được vì chỉ ít quốc gia có thị trường tiền tệ đủ lớn để thực hiện các giao dịch này trên quy mô lớn.
1.5. Hoạt động kiểu thị trường mở
việc không có thị trường tiền tệ đủ lớn khôg có nghĩa là không thể thực hiện được các giao dịch có hiệu ứng tương tự. Ngứòi ta có thể toạ ra các hiệu ứng đó bằng cách thực hiện các giao dịch với các tín phiếu ngắn hạn trên thị trường sơ cấp, cụ thể lf sử dụng việc phát hành trên thị trường sơ cấp như là một cơ chế bán tín phiếu với giá thị trường.
Vây nên phát hành trái phiếu Chính phủ hay trái phiếu NHTW. Rõ ràng là nên sử dụng trái phiếu Chính phủ do ngân sách trả lãi. NHTW có thể làm địa lý và phát hành trái phiếu Chính phủ theo các mục tiêu tiền tệ, đặc điểm là lãi suất thị trường. Nếu việc phát hành trái phiếu nhằm phục vụ mục đích tiền tệ thì Chính phủ cần gửi vào tài khảon tại NHTW số tiền vượt qúa nhu cầu tài trợ đã định trong chương trình tiền tệ. Nừu Chính phủ chi tiền số tiền vượt quá này thì sẽ không được thoã mãn do có trở ngại về mặt pháp lý hoặc Chính phủ không muốn trung hoà số tiền này. Do đó, NHTW có thẻ phải phát hành trái phiếu hoặc chứng chỉ tiền gửi của NHTW.
Dù sử dụng loại trái phiếu nào thì bản chất của các hoạt động kiểu thị trường mở vẫn là việc bán trái phiếu định kỳ trên thị trường sơ cấp, tốt nhất là thông qua đấy thầu để NHTW có được tín hiệu của thị trường. Băng cách việc đấu thầu tín phiếu định kỳ, NHTW có thể rút bớt hoặc bơm thêm vốn khả dụng thông qua việc bán khối lượng tín phiếu nhiều hơn (ít hơn) so với số tín phiếu đáo hạn. việc bán nhiều hơn hay ít hơn có thể đòi hởi phải có sự tăng hay giảm lãi suất.
Việc xách đinh lãi suất luôn là vấn đề chủ chốt. Trong dầu thầu, NHTW cần phải tiến hành xác định lãi suất trên cơ sở khối lượng can thiệp cần thiết để đưa dự trữ của cacs Ngân hàng về mức đã định trong chương trình tiền tệ. NHTW cũng cần đảm bảo mức độ ổn định lãi suất hơp lý nhằm phát triển thị trường tiền tệ và việc mua bán thị trường thứ cấp. để làm được điều đó, NHTW phải quy định lãi suất trần cho mỗi lầm đấu giá. Tuy nhiên, điềud đó cũng có nghĩa là NHTW trực tiếp điều hành thị trường tiền tệ. Nừu việc quản lý được thực hiện tốt thì sẽ tạo ra được các mức lãi suất minh bạch và được coi là lãi suất trên cơ sở thị trường. điều này rất quan trọng vì lãi suất thị trường đáng tin cậy được dùng là lãi suất tham chiếu cho các loại lãi suất khác.
2. Lập chương trình và xác định chỉ tiêu tiền tệ
Việc chuyển đổi từ các công cụ trực tiếp sang gián tiếp đòi hỏi phải có sự thay đổi khuôn khổ lập chương trình tiền tệ và các chỉ tiêu vận hành. Chỉ tiêu của các công cụ trực tiếp là các đại lượng tiền tệ hay lãi suất của toàn hệ thống, còn chỉ tiêu vận hành của các công cụ gián tiếp là các đại lượng hạn chế trong bảng cân đối của NHTW mà các công cụ này có thể kiểm soát. chỉ tiêu khối lượng có thể là tài sản có trong nước ròng của NHTW, tiền dự trữ hay dự trữ vượt mức. Các chỉ tiêu về lãi suất có thể là lãi suất tái chiết khấu hay lãi suất tham chiếu của thị trường tiền tệ
Việc lập chương trình tiền tệ dựa trên bảng cân đối của NHTW thay cho các đại lượng tiền tệ mở rộng xuất phát từ thực tế là trong quá trình chuyển đổi không thể dự báo chính xác diễn biến của thị trường do sự gia tăng cạnh tranh và sự linh hoạt của lãi suất. Rõ ràng là cần theo dõi một số đại lượng tiền tệ mở rộng nhưng kinh nghiệm cho thấy người ta không càn quan tâm đến sự thay đổi vòng quay tiền tệ khi kiểm soát tốt các đại lượng trên bảng cân đôí của NHTW.
Quá trình chuyển đổi cũn đòi hỏi phải lập chương trình tiền tệ cho thưòi kỳ ngắn hạn. đối với các công cụ trực t