Trong điều kiện của một nền kinh tế mở, thương mại quốc tế trở thành
phổ biến, việc thanh toán giữa các quốc gia nhất thiết phải sử dụng tiền tệ của
nước này hay nước khác. Để thực hiện việc chuyển đổi tiền tệ các nước, các quốc
gia phải dựa vào tỷ giá hối đoái.
Theo quan điểm kinh tế học , tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế
quan trọng trong thương mại, đầu tư quốc tế. Tỷ giá ảnh hưởng tới giá cả và tác
động đến các hoạt động kinh tế xã hội trong và ngoài nước.
Theo các nhà kinh doanh, tỷ giá hối đoái là sự so sánh mối tương quan
giá trị giữa hai đồng tiền phát sinh trong các hoạt động liên quan đến xuất nhập
khẩu hàng hóa, đầu tư, giao dịch tài chính quốc tế… Hoặc tỷ giá là giá cả của
một đồng tiền được biểu thị bằng số lượng đơn vị tiền tệ khác.
56 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 8403 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chính sách tỷ giá hối đoái và tác động của tỷ giá đến cán cân thương mại Việt Nam thời gian gần đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
CHƢƠNG 1: KHUNG LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁN CÂN THƢƠNG MẠI.
1.1 Tỷ giá hối đoái và cán cân thƣơng mại
1.1.1 Khái niệm tỷ giá hối đoái.
Trong điều kiện của một nền kinh tế mở, thương mại quốc tế trở thành
phổ biến, việc thanh toán giữa các quốc gia nhất thiết phải sử dụng tiền tệ của
nước này hay nước khác. Để thực hiện việc chuyển đổi tiền tệ các nước, các quốc
gia phải dựa vào tỷ giá hối đoái.
Theo quan điểm kinh tế học, tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế
quan trọng trong thương mại, đầu tư quốc tế. Tỷ giá ảnh hưởng tới giá cả và tác
động đến các hoạt động kinh tế xã hội trong và ngoài nước.
Theo các nhà kinh doanh, tỷ giá hối đoái là sự so sánh mối tương quan
giá trị giữa hai đồng tiền phát sinh trong các hoạt động liên quan đến xuất nhập
khẩu hàng hóa, đầu tư, giao dịch tài chính quốc tế… Hoặc tỷ giá là giá cả của
một đồng tiền được biểu thị bằng số lượng đơn vị tiền tệ khác.
Bảng 1.1 Tỷ giá của một số ngoại tệ ngày 28/03/2010
Mã NT Tên ngoại tệ Mua tiền mặt Bán tiền mặt
USD US DOLLAR 19,050.00 19,100.00
EUR EURO 25,122.90 25,198.50
JPY JAPANESE YEN 201.41 207.48
( Theo tỷ giá công bố của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam – Vietcombank)
1.1.2 Những nhân tố tác động đến tỷ giá
Về dài hạn có 4 nhân tố tác động tới tỷ giá :Năng suất lao động, mức giá
cả tương đối ở thị trường trong nước, thuế quan và hạn mức nhập khẩu, ưa thích
hàng nội so với hàng ngoại.
- Năng suất lao động(NSLĐ)trong nƣớc: đóng một vai trò quan trọng
trong việc ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ. NSLĐ trong nước tăng
lên tương đối so với nước ngoài, đồng nghĩa với việc các nhà kinh doanh có thể
2
hạ giá thành sản phẩm, dịch vụ của mình tương đối so với hàng ngoại nhập, dẫn
đến sự gia tăng mức cầu của hàng nội địa so với hàng ngoại nhập, làm cho hàng
nội địa vẫn bán tốt. Thực tế trên thị trường thế giới, TGHĐ của đồng tiền phụ
thuộc rất khăng khít vào NSLĐ tương đối của nước đó. Một nền kinh tế phát
triển có NSLĐ cao trong thời kì nào đó thường sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự
tăng giá của đồng tiền nước đó.
- Mức giá tƣơng đối ở thị trƣờng trong nƣớc: là nhân tố quan trọng ảnh
hưởng trực tiếp đến TGHĐ. Theo thuyết mức giá cả tương đối, khi mức giá cả
hàng nội địa tăng tương đối so với hàng ngoại nhập thì cầu của hàng nội địa sẽ
giảm xuống và đồng nội tệ có xu hướng giảm giá để cho hàng nội bán được tốt
hơn và ngược lại nó sẽ làm đồng nội tệ có xu hướng tăng giá, bởi vì hàng nội địa
vẫn bán tốt ngay cả với giá trị cao hơn của đồng nội tệ.
- Thuế quan và hạn mức nhập khẩu: là những công cụ kinh tế mà
Chính phủ dùng để điều tiết và hạn chế nhập khẩu. Chính công cụ này nhiều hay
ít đã tác động và làm tăng giá cả của hàng ngoại nhập, làm giảm tương đối nhu
cầu với hàng nhập khẩu, góp phần bảo hộ và khuyến khích tiêu dùng hàng sản
xuất trong nước. Những công cụ mà nhà nước dùng để hạn chế nhập khẩu sẽ ảnh
hưởng và làm cho tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ có xu hướng giảm về lâu dài.
- Ƣa thích hàng nội so với hàng ngoại : Nếu sự ham thích của người
nước ngoài về mặt hàng trong nước tăng lên thì cầu về hàng nội sẽ tăng lên làm
đồng nội tệ tăng giá, bởi hàng nội địa vẫn bán được nhiều ngay cả với giá cao
hơn của đồng nội tệ. Cầu đối với hàng xuất khẩu của một nước tăng lên làm cho
đồng tiền nước đó giảm giá.
1.1.3. Chính sách tỷ giá hối đoái
1.1.3.1 Khái niệm chính sách tỷ giá hối đoái
Chính sách tỷ giá hối đoái là một hệ thống các công cụ được dùng để tác
động vào quan hệ cung - cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, từ đó giúp điều
chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm đạt tới những mục tiêu cần thiết. Về cơ bản, chính
sách tỷ giá tập trung chú trọng vào giải quyết hai vấn đề lớn: lựa chọn chế độ tỷ
giá hối đoái và điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
3
1.1.3.2 Mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái
Chính sách tỷ giá hối đoái nằm trong hệ thống chính sách tài chính-tiền tệ,
là một trong những hệ thống chính sách cơ bản để thực hiện các mục tiêu cuối
cùng của nền kinh tế.
Trong nền kinh tế mở cửa, động cơ của việc hoạch địch chính sách nói
chung, chính sách tài chính - tiền tệ và chính sách tỷ giá nói riêng là nhằm đạt
được các cân đối bên trong và bên ngoài của nền kinh tế. Các cân đối bên trong
và bên ngoài của một nền kinh tế luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tỷ giá
hối đoái là một biến số có khả năng ảnh hưởng đến cả hai cân đối đó lẫn mối
quan hệ giữa chúng. Vì vậy, mục tiêu của chính sách tỷ giá cũng nhằm phục vụ
để đạt được cả hai mục tiêu này.
1.1.3.3 Các công cụ của chính sách tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái là một biến số quan trọng có liên quan đến rất nhiều biến
số kinh tế khác nên mọi sự thay đổi của các biến số kinh tế ít nhiều đều có tác
động đến những giao dịch dân cư, Chính phủ một nước với dân cư và nền kinh tế
thế giới và như vậy sẽ có tác động đến tỷ giá hối đoái. Vì vậy, tất yếu sẽ có rất
nhiều các công cụ và thách thức khác nhau để thực hiện cơ chế tác động của
chính sách tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên, ngoài các biện pháp có tính chất hành
chính mà các nước thường sử dụng điều chỉnh tỷ giá hối đoái thì có hai công cụ
cơ bản và mang tính kinh tế thuần túy thường được các nước phát triển sử dụng
để can thiệp vào điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Hai công cụ đó là lãi suất chiết khấu
và nghiệp vụ thị trường mở.
- Công cụ lãi suất tái chiết khấu: Cách thức dùng lãi suất tái chiết khấu
để điều chỉnh tỷ giá hối đoái được thực hiện với mong muốn tạo ra sự thay đổi
tức thời về tỷ giá. Lãi suất tái chiết khấu thay đổi kéo theo sự thay đổi cùng chiều
của lãi suất thị trường, làm thay đổi hướng chảy của các dòng vốn đầu tư bằng
việc các nhà đầu tư trong một nước sẽ chuyển đổi đồng tiền mình đang sở hữu
sang đồng tiền có lãi suất cao hơn, cung - cầu ngoại tệ thay đổi làm cho tỷ giá
thay đổi theo (phân tích trong ngắn hạn). Cụ thể, khi lãi suất trong nước tăng,
dòng vốn ngắn hạn trên thị trường tài chính quốc tế sẽ đổ vào trong nước, các
4
nhà đầu tư trong nước cũng chuyển vốn của mình sang đồng nội tệ. Ngược lại,
khi muốn điều chỉnh tỷ giá hối đoái tăng, ta sẽ tiến hành giảm lãi suất tái chiết
khấu.
- Công cụ nghiệp vụ thị trƣờng mở ngoại tệ: Nghiệp vụ thị trường mở
ngoại tệ thực chất là hoạt động của NHTW can thiệp vào thị trường ngoại hối để
điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
Các Chính phủ thực hiện can thiệp vào tỷ giá hối đoái thông qua việc điều
chỉnh mức dự trữ ngoại tệ. Tùy theo mục tiêu muốn tăng hay giảm giá đồng nội
tệ mà NHTW sẽ bán ra hay mua vào đồng ngoại tệ, thay đổi mức dự trữ ngoại tệ
và thay đổi tỷ giá hối đoái. Có hai khả năng có thể xảy ra khi NHTW tiến hành
can thiệp vào thị trường ngoại hối. Đó là, khả năng can thiệp hữu hiệu và khả
năng can thiệp vô hiệu.
Một sự can thiệp hữu hiệu của Chính phủ vào thị trường ngoại hối diễn
ra khi NHTW tiến hành mua, bán đồng nội tệ trên thị trường ngoại hối, nhờ đó
làm thay đổi cơ số tiền, làm thay đổi mức cung tiền, lãi suất và làm thay đổi tỷ
giá hối đoái.
Sự can thiệp vô hiệu sẽ diễn ra khi hành động mua bán này của NHTW
được phối hợp với nghiệp vụ thị trường mở trên thị trường tiền tệ tương ứng.
Việc mua bán đồng nội - ngoại tệ diễn ra đồng thời với việc mua bán chứng
khoán. Kết quả của sự phối hợp các nghiệp vụ này chỉ dẫn đến sự thay đổi trong
mức dự trữ quốc tế của một nước, chứ không làm thay đổi mức cung tiền và do
đó không dẫn đến sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái và giá trị của các đồng tiền.
Ngoài hai công cụ cơ bản và thuần túy mang tính chất kinh tế trên, các
quốc gia còn sử dụng một loạt các công cụ khác mang tính hành chính như : quy
định quản lý ngoại hối, điều chỉnh các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ trên thị
trường, những điều chỉnh trong chính sách tài chính (thuế khóa, chi tiêu...) để
điểu chỉnh tỷ giá hối đoái .
1.1.4. Cán cân thƣơng mại.
1.1.4.1 Khái niệm cán cân thƣơng mại
5
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân
thanh toán quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu
và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc
năm) cũng như mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng.
Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư.
Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt.
Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng.
Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương
mại. Khi cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại
mang giá trị dương. Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng
dư thương mại mang giá trị âm. Lúc này còn có thể gọi là thâm hụt thương mại.
1.1.4.2 Những nhân tố tác động đến cán cân thƣơng mại
- Ảnh hƣởng của thu nhập quốc dân (GDP): Thu nhập thực tế (đã điều
chỉnh theo lạm phát) tăng làm gia tăng mức tiêu thụ hàng hóa. Một sự gia tăng
trong chi tiêu hầu như phản ánh một mức cầu gia tăng đối với hàng hóa nước
ngoài. Vì vậy, GDP tăng đã làm nhập khẩu có xu hướng tăng. Sự gia tăng của
nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên (MPZ). MPZ là
phần của GDP tăng thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu.
- Nhập khẩu: có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng
nhanh hơn. Sự gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập
khẩu biên (MPZ). MPZ là phần của GDP có thêm mà người dân muốn chi cho
nhập khẩu. Ngoài ra, nhập khẩu phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản
xuất trong nước và hàng hóa sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng
tương đối so với giá thị trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại.
- Xuất khẩu: chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc
gia khác vì xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó
chủ yếu phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng. Chính
vì thế trong các mô hình kinh tế người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố tự định.
- Tỷ giá hối đoái : là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh
hưởng đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị
6
trường quốc tế. Khi tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của
hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên rẻ hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt
đỏ hơn đối với người nước ngoài. Vì thế việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây
bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu
ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế
trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng lên.
1.2. Một số nghiên cứu thực nghiệm điển hình trên thế giới về mối quan hệ
giữa chính sách tỷ giá và cán cân thƣơng mại.
1.2.1 Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thƣơng mại, kinh nghiệm
của các quốc gia Châu Á.
Công trình nghiên cứu của các tác giả Khim _Sen Liewa, Kian_Ping Limb
và Huzaimi Hussainc xem xét mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân
thương mại, thông qua việc nghiên cứu tình hình thay đổi tỷ giá hối đoái và cán
cân thương mại của Các quốc gia Asean (Thái Lan, Malaysia, Indonesia
,Singapore, Philippin) với Nhật Bản - một quốc gia có mối quan hệ giao thương
chính.
Thế nhưng kết quả thu được không mấy rõ ràng về mối quan hệ giữa tỷ
giá hối đoái và cán cân thương mại. Bởi lẽ theo lý thuyết, khi đồng nội tệ giảm
giá thì thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu từ đó cải thiện cán cân thương
mại, tuy nhiên trong một số mốc thời gian thì lý thuyết này không đúng và không
đưa ra một sự giải thích rõ ràng cho kết quả thu được. Các nhà nghiên cứu đã đưa
ra giả thuyết là có nhân tố khác tác động nhiều hơn đến cán cân thương mại thay
vì sự thay đổi tỷ giá hối đoái. Bài nghiên cứu này đề cập đến yếu tố cung tiền
thực (real money). Những vấn đề về cung tiền thực và hiệu ứng cung tiền thực
được trình bày trong phần phụ lục.
Nghiên cứu cho thấy rằng cán cân thương mại nhạy cảm với cung tiền
thực hơn là nhạy cảm với tỷ giá hối đoái. Thông qua đó, nghiên cứu đã chỉ ra tỷ
giá hối đoái của quốc gia sẽ cải thiện nếu cung tiền thực của chúng nhỏ hơn cung
tiền thực của Nhật . Về mặt logic kinh tế của giả thuyết thì bất cứ khi nào cung
tiền thực của quốc gia nội địa nhỏ hơn cung tiền thực của Nhật , thì sức mua của
7
đồng nội tệ sẽ tăng lên tương đối so với đồng Yên Nhật. Chính vì vậy , hàng hóa
trong nước và dịch vụ được xem là rẻ hơn trong mắt người Nhật, vì thế có sự
tăng lên trong xu hướng là Nhật sẽ nhập khẩu nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn từ
quốc gia nội địa. Mặt khác, người dân trong nước sẽ mua ít hàng hóa và dịch vụ
từ Nhật Bản, vì họ thấy rằng hàng hóa từ Nhật đắt hơn. Từ đó cho thấy cán cân
thương mại của quốc gia nội địa sẽ giảm sút nếu cung tiền thực của nó lớn hơn
của Nhật.
Phân tích thực nghiệm dữ liệu thống kê của nghiên cứu này đề xuất rằng
cung tiền thực có thể giải thích được sự thay đổi của cán cân thương mại giữa các
quốc gia Asean (Malaysia, Singapore, Thái lan và Philippines) với Nhật Bản
trong suốt thời kỳ quan sát. Vì vậy, khi đối mặt với cán cân thương mại thâm hụt,
Chính phủ của các quốc gia Asean nên dùng chính sách đo lường trọng tâm biến
số cung tiền thực. Và một điều quan trọng nữa là tỷ giá hối đoái không chỉ là
chính sách duy nhất đề điều hành chính sách cán cân thương mại của các quốc
gia ASEAN.
1.2.2 Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thƣơng mại: đƣờng cong
chữ J
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại
được thực hiện bởi các tác giả thuộc đại học Olugbenga Onafowora Susquehann .
Đây là nghiên cứu trong ngắn hạn và dài hạn của hiệu ứng tỷ giá hối đoái thực
lên cán cân thương mại của 3 quốc gia ASEAN trong thương mại song phương
với Mỹ và Nhật Bản với mô hình véc tơ hiệu chỉnh sai số(VECM). Mặc dù có sự
biến đổi trong kết quả nhưng xét tổng thể thì nghiên cứu này vẫn tiến tới đề nghị
là neo đồng nội tệ trong dài hạn mặc dù bị ảnh hưởng bởi tác động của hiệu ứng
đường cong chữ J trong ngắn hạn….
Trong nghiên cứu thực nghiệm này, cả hai phương tiện quan sát là hồi
quy và kinh tế lượng đều được áp dụng cho riêng mỗi quốc gia trong quá trình
nghiên cứu, kết quả cho thấy tỷ giá hối đoái đã ảnh hưởng như thế nào đến sự
thay đổi của cán cân thương mại và sự phát triển của quốc gia. Nghiên cứu còn
chỉ ra một sự khác biệt lớn về mối quan hệ giữa các biến số kinh tế và tác động
8
giảm giá tiền tệ trong việc cải thiện cán cân thương mại của quốc gia. Bởi vậy,
tác động tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại phải cân nhắc kỹ cho câu hỏi từ 2
hướng là phân tích và kinh nghiệm dự báo tương lai. Những kết quả nghiên cứu
gần đây là một sự tiến bộ, một phát hiện mới mẻ trong chuỗi các nghiên cứu về
kinh tế lượng.
Nghiên cứu này xem xét, kiểm định tác động trong ngắn hạn và dài hạn
của tỷ giá hoái đoái thực lên cán cân thương mại của 3 quốc gia ASean : Thái
Lan, Malaysia, và Indonesia với Mỹ và Nhật Bản để xác định có hay không sự
biến đổi trong ngắn hạn của cán cân thương mại. Và dựa vào mô hình nghiên
cứu véc tơ hiệu chỉnh sai số kiểm định tính ổn định của các biến số để khẳng
định lại một lần nữa rằng trong dài hạn thì sẽ có mối quan hệ bền vững và ổn
định giữa cán cân thương mại, tỷ giá hối đoái.
Nghiên cứu tìm thấy trong thương mại song phương giữa Indonesia,
Malaysia với Mỹ, Nhật Bản và giữa Thái Lan với Mỹ có hiệu ứng đường cong
chữ J trong ngắn hạn. Với sự giảm giá của tỷ giá hối đoái ban đầu dẫn đến sự trì
trệ trong cán cân thương mại ở 4 quý trong ngắn hạn, nhưng lại được cải thiện
đáng kể trong dài hạn. Thái Lan đối diện với biến động trong cán cân thương mại
song phương với Nhật : một sự giảm giá đột ngột trong tỷ giá hối đoái ban đầu
giúp cán cân thương mại được cải thiện rồi thâm hụt và sau đó lại được cải thiện.
Tóm lại, theo kết quả nghiên cứu là neo giữ đồng nội tệ trong dài hạn với
mức độ biến đổi của hiệu ứng đường cong J trong ngắn hạn. Những tìm kiếm này
có nhiều ứng dụng cho cán cân của những quốc gia khu vực Đông Á với Nhật và
Mỹ. Điều căn bản đó là tiếp tục giảm giá tiền tệ của các quốc gia Đông Á so với
đồng USD và Yên Nhật để có thể dẫn đến một sự cải thiện trong cán cân thương
mại của họ với Nhật và Mỹ. Dù thế nào đi nữa thì sự cải thiện này cũng sẽ xảy ra
chỉ trong 3 hoặc 4 thời kỳ sau khi có sự giảm giá thực sự.
1.3. Kinh nghiệm quốc tế trong việc sử dụng chính sách tỷ giá để cải thiện
cán cân thƣơng mại.
1.3.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc:
9
Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc được thực hiện có tính nhất
quán gắn trực tiếp với lợi thế thương mại về hàng hóa rẻ và khối lượng lớn của
Trung Quốc.
Trung Quốc luôn theo đuổi chế độ tỷ giá hối đoái trên cơ sở định giá thấp
thực tế đồng nhân dân tệ so với các ngoại tệ khác đặc biệt với đồng đô la Mỹ để
tạo lợi thế thương mại ngắn hạn. Ngày 1.1.1994, đồng Nhân dân tệ chính thức bị
tuyên bố phá giá mạnh từ 5,8 NDT/USD xuống 8,7 NDT/USD, tương ứng với tỷ
lệ phá giá 50% (8,7/5,8). Kết hợp với tỷ lệ đồng Nhân dân tệ bị đánh giá thấp
0,14% thời kỳ 1990 - 1993, tỷ lệ phá giá thực tế là 50,14%. Có thể thấy rõ đây
chính là sự kết hợp giữa việc điều chỉnh và phá giá đồng Nhân dân tệ trong chính
sách tỷ giá của Chính phủ Trung Quốc.
Kết quả của một loạt những điều chỉnh kết hợp thả lỏng và xiết chặt từng
bộ phận trong chính sách tỷ giá và tiền tệ vào thời điểm này đã có tác động tích
cực nhanh chóng khôi phục lại đà tăng trưởng trong xuất nhập khẩu và nền kinh
tế Trung Quốc (xem bảng 2).
Bảng1. 2 : Tình hình kinh tế Trung Quốc những năm 1994 - 1997.
Chỉ tiêu 1994 1995 1996 1997
Tổng kinh ngạch xuất nhập khẩu (tỷ
USD)
236.73 280.90 289.90 325.05
Tốc độ tăng trưởng của XN khẩu (%
năm)
20.97 18.65 6.41 12.12
Cán cân tài khoản vốn (Triệu USD) 32,645 38,647 39,966 22,978
Lạm phát (% năm) 24.24 16.90 8.32 2.80
Tỷ giá hối đoái (trung bình NDT/USD) 8.6187 8.3514 8.3142 8.2898
Tốc độ tăng trưởng (% năm) 12.70 10.50 9.50 8.80
(Nguồn: Ngân hàng Phát triển đầu tư Châu Á – ADB)
10
Vào tháng 7/2005, Trung Quốc tiến hành điều chỉnh tỷ giá theo hướng
nâng giá đồng Nhân dân tệ và tỷ giá giữa đồng đô la và Nhân dân tệ vào thời
điểm này là 1 USD = 8.27 CNY sau đó Ngân hàng trung ương tiến hành cải cách
tỷ giá, cho phép thả nổi tỷ giá trong giới hạn biên độ 0.3% so với tỷ giá chính
thức của Ngân hàng Trung ương. Các phản ứng của Trung Quốc về tỷ giá hối
đoái khá linh hoạt và gắn với từng mối quan hệ thương mại cụ thể với từng thời
điểm cụ thể.
Trong điều kiện đồng đô la lên giá, Trung Quốc đã tìm cách để định giá
đồng nhân dân tệ thấp. Với cách thức này, Trung Quốc đã gần như khai thác triệt
để lợi thế thương mại không chỉ với Hoa Kỳ mà còn với các đối tác thương mại
khác.
Cụ thể hơn, trong giai đoạn 2001 – 2005, tốc độ tăng GDP bình quân mỗi
năm đạt 9,5% (năm 2006 đạt 11,5%). Tính theo USD, GDP của Trung Quốc đã
tăng gấp đôi, từ 1.325 tỷ USD năm 2001 lên 2.235 tỷ USD năm 2005. Trước đây,
Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ 6 thế giới; sau 5 năm, Trung Quốc đã đứng thứ
3. Chất lượng hàng hóa của Trung Quốc được cải thiện nhiều để đạt tiêu chuẩn
quốc tế và ngành dịch vụ mở rộng với quy mô chưa từng có. Mức tăng trưởng
thương mại của Trung Quốc cũng nhanh nhất thế giới và hiện nay Trung Quốc là
nước có giá trị thương mại lớn thứ 3 sau EU và Mỹ. Kim ngạch thương mại
chiếm 40% GDP năm 2001 đã lên đến 80% GDP năm 2005.
Và có thể thấy trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng của nền kinh
tế Trung Quốc được đánh giá là cao, cùng với sự thặng dư trong cán cân thương
mại, và nguồn dự trữ ngoại tệ khá lớn.
Bảng 1.3: Tình hình kinh tế Trung Quốc những năm 2005-2008
Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Tốc độ tăng trưởng nhập
khẩu (% năm)
28.1 28.3 26.7 24.8
Tốc độ tăng trưởng của XN
khẩu (% năm)
34.1 36.5 36.1 33.2
Tỷ giá hối đoái (NDT/USD) 8.1943 7.9734 7.6075 6.9