Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiobac và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác

Trong lịch sử triết học nói chung và triết học phương Tây nói riêng, vần đề bản chất con người là một trong những vấn đề được đặt ra rất sớm. Cùng với quá trình phát triển lâu dài với nhiều biến động của lịch sử, tùy thuộc vào lập trường quan điểm và phương pháp tiếp cận, các triết gia đ cĩ những cu trả lời khc nhau về vấn đề này. Trong dòng chảy xuyên suốt của lịch sử tư tưởng nhân loại, triết học cổ điển Đức đã khẳng định mình với những đặc trưng rất riêng so với những trường phái triết học khác trong lịch sử về nhiều phương diện. Trong đó, L.Feuerbach được xem là một nhà duy vật điển hình, đặc biệt với quan niệm về bản chất con người của ông, đã tạo ra một dấu ấn riêng của thời đại, đồng thời đã trở thành một trong những tiền đề lý luận quan trọng đối với sự hình thành của triết học Mác – đó là chủ nghĩa duy vật nhân bản. Với những điều phân tích trên, nghiên cứu triết học của L.Feuerbach về bản chất con người là một việc làm cần thiết, góp phần vào quá trình tiếp cận việc nghiên cứu chuyên sâu vấn đề bản chất con người trong triết học Mác – Lênin sau này, đặc biệt là tinh thần nhân văn hay tính nhân bản, lấy con người làm trung tâm của nghiên cứu triết học. Những quan điểm của Feuerbach nó có ảnh hưởng đến sự ra đời của triết học Mác và đối với con người trong xã hội ngày nay thì nó có ảnh hưởng như thế nào. Bài viết này tôi sẽ tìm hiểu một chút gì đó mối liên hệ giữa quan điểm nhân bản của L.Feuerbach với con người trong xã hội ngày nay. Trong bài viết này em đã tham khảo tài liệu Giáo trình triết học và các bài giảng của thầy Bùi Văn Mưa. Các tài liệu thu thập được trên internet. Do đó bài viết có thể là chưa sâu lắm và đó cũng là một vài quan điểm của em, mong thầy có thể góp ý cho bài viết có thể hoàn thiện hơn.

pdf17 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2456 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiobac và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Bài tập nhóm Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiobac và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác 2 LỜI MỞ ĐẦU Trong lịch sử triết học nói chung và triết học phương Tây nói riêng, vần đề bản chất con người là một trong những vấn đề được đặt ra rất sớm. Cùng với quá trình phát triển lâu dài với nhiều biến động của lịch sử, tùy thuộc vào lập trường quan điểm và phương pháp tiếp cận, các triết gia đ cĩ những cu trả lời khc nhau về vấn đề này. Trong dòng chảy xuyên suốt của lịch sử tư tưởng nhân loại, triết học cổ điển Đức đã khẳng định mình với những đặc trưng rất riêng so với những trường phái triết học khác trong lịch sử về nhiều phương diện. Trong đó, L.Feuerbach được xem là một nhà duy vật điển hình, đặc biệt với quan niệm về bản chất con người của ông, đã tạo ra một dấu ấn riêng của thời đại, đồng thời đã trở thành một trong những tiền đề lý luận quan trọng đối với sự hình thành của triết học Mác – đó là chủ nghĩa duy vật nhân bản. Với những điều phân tích trên, nghiên cứu triết học của L.Feuerbach về bản chất con người là một việc làm cần thiết, góp phần vào quá trình tiếp cận việc nghiên cứu chuyên sâu vấn đề bản chất con người trong triết học Mác – Lênin sau này, đặc biệt là tinh thần nhân văn hay tính nhân bản, lấy con người làm trung tâm của nghiên cứu triết học. Những quan điểm của Feuerbach nó có ảnh hưởng đến sự ra đời của triết học Mác và đối với con người trong xã hội ngày nay thì nó có ảnh hưởng như thế nào. Bài viết này tôi sẽ tìm hiểu một chút gì đó mối liên hệ giữa quan điểm nhân bản của L.Feuerbach với con người trong xã hội ngày nay. Trong bài viết này em đã tham khảo tài liệu Giáo trình triết học và các bài giảng của thầy Bùi Văn Mưa. Các tài liệu thu thập được trên internet. Do đó bài viết có thể là chưa sâu lắm và đó cũng là một vài quan điểm của em, mong thầy có thể góp ý cho bài viết có thể hoàn thiện hơn. 3 I) Sơ lược về xã hội Đức cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: 1) Kinh tế: Từ những năm 70 của thế kỉ XIX, nước Đức đã trở thành một nước thống nhất, Đức đã áp dụng được những kinh nghiệm và phát minh kỹ thuật mới nhất trong sản xuất. nền kinh tế nước Đức lớn lên nhanh chóng. Từ một nước nông nghiệp, Đức dần dần trở thành một nước công nghiệp quan trọng ở Châu Âu. Và thế giới. sản lượng các nghành công nghiệp nặng tăng lên nhanh chóng, chiếm tỉ lệ đáng kể trong tổng sản lượng thế giới, các nghành công nghiệp mới như điện, hóa chất tăng mạnh mẽ, chiếm vị trí hàng đầu Châu Âu. Sự phát trển nhanh chóng của công nghiệp đưa tới hiện tượng tập trung sản xuất và hình thành các tổ chức lũng đoạn sớm hơn các nước khác. Hình thức lũng đoạn phổ biến nhất là các ten và xanhđica. Bên cạnh công nghiệp hiện đại, Đức còn duy trì thủ công nghiệp trong thời gian khá lâu. Nông nghiệp nước Đức cũng có những bước tiến bộ, nhưng chậm chạp vì sự tiến hành không triệt để của cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Đến đầu thế kỉ XX, tốc độ phát triển của công nghiệp Đức có những bức chuyển biến mạnh mẽ, về tổng sản lượng cũng như về những nghành cơ bản, Đức đứng vào hàng đầu châu âu và thứ hai trên thế giới. 2) Chính trị: Cuối thế kỉ XIX ở nước Đức lúc này hình thành ra các Đảng. Đảng bảo thủ đại diện cho quyền lợi của địa vị quý tộc địa chủ vùng đông phổ.một bộ phận của Đảng bảo thủ tách ra thành Đảng đế quốc hay Đảng bảo thủ tự do, đại diện cho lợi ích của đại địa chủ, tổ chức nhà thờ thành lập Đảng, “trung tâm cơ đốc giáo” các Đảng trên đều đứng trên lập trường của giai cấp bóc lột, bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản. Cuối thế kỉ XIX giai cấp công nhân Đức bị bốc lột năng nề, đồng lương thấp, điều kiện lao động khắc khổ, phong trào đấu tranh đòi cải thiện đời sống phát triển mạnh, nhưng mang lại ít hiệu quả. Năm 1875, phái Aidơ Năc và phái Lat Xan đã họp đại hội ở thành phố Gôta thành lập ra một chính Đảng thống nhất lấy tên là Đảng thống nhất lấy tên “Đảng công nhân xã 4 hội dân chủ Đức” đưa ra cương lĩnh Gôta, những cương lĩnh nó thể hiện tính chất cơ hội chủ nghĩa bị phê phán. Phong trào công nhân và đảng của gia cấp công nhân Bix Mac đại diện cho sự cấu kết của hai tập đoàn tư bản và Gioongke tấn công mạnh và người lãnh đạo Đảng tuyên bố giải tán Đảng, năm 1890 Đảng xã hội dân chủ lại ra hoạt động công khai, nhiều cuộc biểu tình nổ ra và họ thông qua cương lĩnh mới tiến bộ hơn cương lĩnh Gota. Đầu thế kỉ XX, phong trào công nhân Đức đạt tới đỉnh cao mới. Nhiều cuộc bãi công nổ ra và số lượng người tham gia tăng. Những tin tức của cuộc Cách mạng Nga 01/1905 lan truyền nhanh sang Đức, làn sóng đấu tranh ở nước Đức lại bùng lên mạnh mẽ. 3) Xã hội: Nhà nước đế quốc Đức được thành lập sau khi cuộc đấu tranh thống nhất thắng lợi. Vua là người đứng đầu nhà nước. Nhà vua có quyền rất lớn như thống lĩnh quân độ, bổ nhiệm và cách chức chức thủ tướng, ký ước, ngoại dao, tuyên chiến…vua có quyền triệu tập, giải tán và hoãn các phiên họp của hội đồng liên bang và quốc hội… Vai trò của quý tộc Giooke (quý tộc tư sản hóa)còn rất lớn, thế lực kinh tế của quý tộc khá mạnh, nhất là miền đông phổ. Hầu hết đất đai ở trong tay họ, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho nông thôn phân hóa sâu sắc, phần lớn nông dân nghèo túng hay phá sản phải đi làm thuê. Cho các địa chủ, phú nông hoặc đi làm ăn ở các cơ sở công nghiệp, do vậy giai cấp công nhân Đức rất lớn mạnh. Đại đa số quần chúng nhân dân bị bóc lột nặng nề, bị tước đoạt quyền tuyển cử, bị gạt ra ngoài sinh hoạt chính trị của nhà nước. Giai cấp tư sản công nghiệp lớn mạnh, có vai trò rất lớn trong nền kinh tế và chính trị của nước Đức. 5 II) Feuerbach và triết học nhân bản: 1) Sơ lược về triết gia Feuerbach: L.Feuerbach sinh trưởng trong một gia đình trí thức có tên tuổi. Người cha - một luật sư – muốn con trở người hữu ích cho chế độ đương thời, vì thế đã khuyên Feuerbach chọn một nghề có khả năng thành đạt trong cuộc sống. Năm1823 với mục đích nghiên cứu tôn giáo, Feuerbach vào học tại khoa thần học của trường đại học Heidelberg, nhưng sau một năm laị rời khoa thần học và chuyển đến Berlin, nơi Hegel đang giảng triết học. Chẳng mấy chốc Feuerbach trở thành người học trò nghiêm túc của Hegel. Hai năm ròng Feuerbach nghe các bài giảng của nhà triết học lừng danh này, nghe một cách say sưa và thích thú. "Nhờ Hegel, - Feuerbach công nhận, - tôi đã ý thức được chính mình, ý thức được thế giới. Hegel trở thành người cha thứ hai của tôi…”. Năm 1828 Feuerbach gởi cho Hegel bản luận án của mình mang tên “Về lý tính đơn nhất, phổ biến và vô hạn” trong đó ông nói thẳng ý nguyện triển khai tiếp tục chủ nghĩa duy tâm khách quan Năm 1829 Feuerbach lúc đó 25 tuổi bắt đầu sự nghiệp giảng dạy của mình tại trường đại học Erlangen . Tại đây Feuerbach trình bày logic học và siêu hình học, đồng thời nhen nhóm tư tưởng nhân bản mà về sau trở thành nội dung chủ yếu của chủ nghĩa duy vật đặc trưng – chủ nghĩa duy vật nhân bản .Khái niệm trung tâm –tình yêu. Năm 1830 Feuerbach xuất bản tác phẩm đầu tiên "Quan điểm về cái chết và bất tử". Một lần nữa chủ đề tình yêu lại được nêu ra. Feuerbach nói về tình yêu thiên đường và tình yêu trần tục, tình yêu thần thánh và tình yêu con người.Ông khẳng định: con người yêu con người cần phải yêu, yêu là hiến dâng. Đề cập đến sự bất tử, Feuerbach cho rằng chỉ cần những hành vi vĩ đại của lý tính con người mới bất tử, nhưng nhìn chung ông bác bỏ tư tưởng phổ biến về sự bất tử của linh hồn. Sách của Feuerbach bị tịch thu, còn vị phó giáo sư bị thì mất việc. Cũng từ năm ấy Feuerbach bắt đầu cuộc sống đơn độc, thậm chí ẩn dật ở vùng quê, công bố những tác phẩm đánh dấu cách nhìn khác đối với triết học Hegel. Năm 1836 Feuerbach cưới vợ, trong suốt 25 năm hầu như không rời khỏi ngôi nhà nhỏ của mình, mặc dù năm 1848 trúng cử đại biểu quốc hội vùng Frankfurt. Năm 1839 Feuerbach đoạn tuyệt hoàn toàn với chủ nghĩa duy tâm. Trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học Hegel", Feuerbach giải quyết vấn đề cơ bản của triết học theo hướng duy vật và xem xét giới tự nhiên, tồn tại, vật chất, như thực tại sinh ra lý tính tư duy. Vượt qua khỏi giới hạn triết học Hegel và Schelling, Feuerbach viết:"Thực tại của tồn tại cảm tính đơn nhất là chân lý". Thuật ngữ "chân lý” trong lối diễn đạt này có nghĩa là “thực tiễn", 6 “tính có trước”. Ở chỗ khác Feuerbach nói thêm: "Chân lý, thực tiễn, tính cảm giác đồng nhất với nhau. Chỉ bản chất cảm tính mới là bản chất chân lý thực tiễn”. Năm 1841 Feuerbach cho ra mắt tác phẩm chính “Bản chất đạo Cơ đốc”, ấn tượng mà nó đem lại thật to lớn. Những năm tiếp theo ông viết “Luận cương khởi đầu về cải cách triết học” (1842), “Các luận điểm triết học cơ bản của tương lai" (1843). Ông mất năm 1872, tức là sau công xã Paris (1871) thất bại. 2) Triết học nhân bản của Feuerbach: Trước khi tìm hiểu nội dung của triết học nhân bản của Feuerbach chúng ta sẽ tìm hiểu sơ về 1 số đặc trưng về chủ nghĩa duy vật của ông: a. Công lao lịch sử to lớn của Feuerbach ở chỗ, Feuerbach khôi phục, và phát triển truyền thống duy vật thế kỷ XVIII trong hoàn cảnh chủ nghĩa duy tâm và thần bí thắng thế ở Đức. Khác với các bậc tiền bối của triết học cổ điển Đức, Feuerbach là nhà duy vật chiến đấu ở bình diện này. b. Với tham vọng xây dựng một triết học thoát li khỏi tính tư biện, Feuerbach xem Con Người là đối tượng nghiên cứu chủ yếu. Feuerbach xem triết học của mình như sự khắc phục học thuyết của Hegel và các bậc tiền bối khác. Nếu như Hegel khách quan hóa lí tính, bản thể luận hóa tư duy, tách khỏi họat động cảm tính và những nhu cầu của họ, thì “Triết học mới", hay "triết học tương lai”(thuật ngữ của Feuerbach), xuất phát từ chỗ con người và chỉ có con người mới là chủ thể hiện thực của lí tính. c. Mặc dầu nội dung học thuyết của ông về cơ bản là duy vật, nhưng ông không sử dụng thuật ngữ đó. Điều này có lí do sâu xa: Các học thuyết duy vật trước đây không xuất phát từ con người vì thế dễ rơi vào tính khập khiểng. Feuerbach viết: “Chân lý không phải là chủ nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa duy tâm, không phải là sinh lí học lẫn tâm lí học; chân lí - chỉ có thuyết nhân bản…” Feuerbach viết về bản thân như sau: "… Feuerbach không phải là nhà duy tâm, không phải là nhà duy vật! Đối với Feuerbach Thượng đế, tinh thần, linh hồn, cái Tôi là những cái trừu tượng trống rỗng, nhưng chính những cái trừu tượng trống rỗng ấy đối với anh ta là vật thể, vật chất, sự vật. Chân lí, bản chất, thực tiễn đối với anh ta chỉ ở trong cảm giác”. 7 d. Feuerbach phê phán chủ nghĩa duy tâm Hegel nhưng không hiểu đầy đủ vai trò của phép biện chứng trong việc lí giải thế giới, phê phán Cơ đốc giáo để thay thế nó bằng tôn giáo tình yêu. Ông khắc phục một ảo tưởng, nhưng lại hướng đến ảo tưởng khác. e. Feuerbach phân tích các hiện tượng tự nhiên muôn vẻ từ quan điểm duy cảm. Do không nắm bắt kịp thời, đầy đủ các chất liệu có giá trị của khoa học tự nhiên đương thời, nên sự phân tích của ông thường không sâu sắc, thiết chặt chẽ, thiếu sức thuyết phục. f. Quan điểm chính trị- xã hội của Feuerbach chịu ảnh hưởng của phong trào khai sáng và chủ nghĩa duy vật Pháp, tức quan điểm về xã hội công dân và nhà nước pháp quyền. g. Chủ nghĩa nhân bản Feuerbach hàm chứa trong mình những mầm mống của quan niệm khoa học về lịch sử. Tiếc thay ông hiểu cuộc sống hiện thực ấy một cách trừu tượng nằm bên ngoài mối liên hệ lịch sử - xã hội nhất định, với sự phân hóa xã hội và cuộc đấu tranh hiện thực vì tiến bộ xã hội. h. Triết học tự nhiên của Feuerbach là chủ nghĩa duy vật nhất nguyên. 2.1 Về cải cách triết học của L. Feuerbach: Trong số các nhà triết học cổ điển Đức, L.Feuerbach là một chân dung đặc biệt. Triết học của ông được gọi là chủ nghĩa duy vật nhân bản, vì ở đó có sự kết hợp giữa chủ nghĩa duy vật và thuyết nhân bản, là học thuyết lấy con người làm nền tảng, đối tượng nghiên cứu chủ yếu. Trong Cương lĩnh cải cách của mình Feuerbach nhấn mạnh: Thông qua con người đưa tất cả những gì siêu nhiên về với tự nhiên, và thông qua tự nhiên đưa tất cả những gì siêu nhân về với con người. Như vậy, khác với Kant và Hegel, Feuerbach loại bỏ Thượng đế ra khỏi đối tượng nghiên cứu, chỉ còn lại tự nhiên và con người – bộ phận ưu tú, hoàn thiện nhất của nó. Với tinh thần cải cách đó, Feuerbach từng bước khôi phục truyền thống triết học tự nhiên của chủ nghĩa duy vật thế kỷ trước. Feuerbach phê phán những cơ sở của chủ nghĩa duy tâm Hegel, xem đó là thứ triết học tư biện, học thuyết của tư duy thuần túy (tác phẩm “Góp phần phê phán triết học Hegel”, năm 1839). Dưới ảnh hưởng của Đại cách mạng Pháp, Feuerbach đề cao khát vọng tự do và dân chủ, mô hình xã hội công dân và nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, ông không tham gia vào những chuyển biến chính trị đang diễn ra tại Đức. Từ sau 1841, Feuerbach bắt đầu cuộc sống ẩn dật tại một vùng quê hẻo lánh. Feuerbach gọi triết học của mính là thuyết nhân bản, và lập luận như sau: nếu chúng ta xem vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề quan hệ giữa tồn tại và tư duy, thì cần phải 8 bắt đầu từ con người, vì chỉ con người mới biết tư duy. Trong khi tư duy về thế giới, con người cũng đồng thời tư duy về chính bản thân mình. Nhờ có con người mà những gì kỳ vĩ nhất của tự nhiên được bộc lộ ra. 2.2 Triết học nhân bản và quan điểm về con người của L.Feuerbach: Quan niệm về con người đã phát sinh và tồn tại từ khi triết học mới hình thành, nhưng phải đợi đến cuối thế kỷ XIX, khi xuất hiện hệ thống triết học phê phán của nhà triết học cổ điển Đức, I.Kant (1724- 1804) thì các quan niệm đó mới được hệ thống hóa và trình bày dưới dạng một học thuyết triết học với tên gọi là chủ nghĩa nhân bản. Tiếp thu những giá trị tư tưởng trong nhân bản học của Kant, đồng thời dựa trên những thành tựu mới của khoa học tự nhiên đương thời, L. Feuerbach (1804-1872) có tham vọng vươn tới việc thiết lập một nền triết học mới - triết học tương lai, lấy con người và đời sống tâm - sinh lý của nó làm đối tượng nghiên cứu cơ bản. Triết học mới - Feuerbach viết: “Biến con người, kể cả giới tự nhiên với tư cách là nền tảng của con người, thành đối tượng duy nhất, phổ biến, cao nhất của triết học, do đó cũng biến nhân bản học, kể cả sinh lý học thành khoa học phổ quát”. Nền triết học mới mà Feuerbach đề cập đến ở đây là triết học phản ánh chân lý của thời đại, nó đặt ra và lý giải những vấn đề xã hội đương thời mà chủ nghĩa duy vật hay chủ nghĩa duy tâm trước ông đều bất lực: “Chân lý không phải là chủ nghĩa duy vật hay chủ nghĩa duy tâm, không phải là sinh lý học hay tâm lý học. Chân lý là nhân bản học”. Theo Feuerbach, triết học mới hay triết học tương lai sẽ khắc phục được sự khác biệt của mình đối với tôn giáo, sẽ không còn là thứ triết học nhận thức tư biện, mà trở thành nhân bản học - một học thuyết toàn diện về con người, về mối quan hệ của nó với thế giới. Trong triết học mới (triết học nhân bản), hình ảnh con người sẽ được trình bày cả trên cơ sở của các dữ liệu khoa học cũng như trên cơ sở của học thuyết về Chúa. Con người trong nhân bản học không chỉ được hiểu như là một bộ phận của giới tự nhiên mà còn là một sinh thể tự nhiên toàn năng. Triết học mới có sức mạnh truy tìm lời giải đáp hiện thực để giải quyết mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Triết học cũ là hệ thống triết học gắn liền với thần học, chứng minh cho sự tồn tại hợp lý của Chúa trời, còn triết học mới kết hợp chặt chẽ với khoa học tự nhiên, thực hiện sứ mệnh cao cả của mình là giúp con người: 1) nhận diện chính mình như một bộ phận, như là con đẻ của giới tự nhiên, 2) nhận ra chân giá trị của cuộc sống, 3) nhằm nỗ lực phấn đấu cho hạnh phúc ngay trong thế giới trần gian. Và để thực hiện được sứ mệnh lịch sử thiêng liêng đó thì “triết học cần thiết phải liên hệ chặt chẽ với khoa học tự nhiên còn khoa học tự nhiên phải liên hệ chặt chẽ với triết học”. 9 Vốn là người có tư tưởng cách tân, Feuerbach mơ tới việc thiết kế những đồ án cho việc cải cách triết học và ông thực sự đã làm như vậy trong 2 tác phẩm: Những luận điểm dự thảo cho cuộc cải cách triết học (1842), Những luận đề cơ bản của triết học tương lai (1843). Trong các tác phẩm đó ông đã khai mở một hướng đi mới cho các nhà triết học hậu thế, đó là truy tìm bí mật của triết học ngay trong giới tự nhiên và con người: “Hãy quan sát giới tự nhiên và con người, bạn sẽ thấy trong đó những bí mật của triết học”. “Quan điểm của tôi chỉ có thể biểu đạt trong hai từ: Giới tự nhiên và con người”. Từ việc quan sát hình thể bên ngoài của con người cho đến mọi hoạt động lao động sản xuất cũng như hoạt động tinh thần của nó, Feuerbach cho rằng, con người là một sinh vật có hình thể vật lý - sinh lý ở trong không gian và thời gian, nhờ vậy nó có năng lực quan sát và suy nghĩ vượt trội so với các loài sinh vật khác. Bản chất con người là một cái gì đó thống nhất toàn vẹn giữa hai phương diện thể xác (tồn tại) và tinh thần (tư duy). Sự thống nhất toàn vẹn này đảm bảo cho con người có thể tồn tại và phát triển như một sinh vật cao nhất, hoàn thiện nhất trong mọi sinh vật hiện có. Phê phán những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa nhị nguyên trong việc tách đôi thể xác và tinh thần, tồn tại và tư duy, Feuerbach đã thừa nhận một cách dứt khoát rằng quan hệ thực sự của tồn tại đối với tư duy là tồn tại - chủ thể, tư duy - thuộc tính. Tư duy xuất phát từ tồn tại, chứ không phải tồn tại xuất phát từ tư duy… Cơ sở của tồn tại nằm ngay trong tồn tại chính là cảm tính, là nguyên lý trí tuệ, là sự tất yếu và chân lý... Bản chất của tồn tại với tư cách một tồn tại chính là bản chất của giới tự nhiên. Tuy nhấn mạnh tính cá thể của con người, song Feuerbach cũng hé mở một ý tưởng cho rằng, trong quá trình sống, con người có thể giao tiếp với những người khác, với cộng đồng xã hội. Do tiếp xúc với xã hội mà "từ một tồn tại thuần tuý vật lý, con người trở thành một tồn tại chính trị, nói chung trở thành một cái gì đó khác với tự nhiên, tồn tại đó chỉ quan tâm đến bản thân mình".. Vấn đề quan trọng hơn là bản chất đích thực của con người, tức là những yếu tố quy định sự tồn tại của nó với tư cách là một sinh thể có tính loài hay nói theo cách của Mác là tính xã hội của con người. Bởi vì "khi con người sinh ra từ giới tự nhiên, nó mới chỉ là một sinh vật tự nhiên đơn thuần chứ không phải là người...Con người là sản phẩm của văn hoá và của lịch sử". Như vậy, theo Feuerbach, khi nói về con người, nhất thiết phải giả định rằng, có những người khác và chỉ có trong mối quan hệ đó thì con người mới là con người với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Từ việc công nhận con người như là sản phẩm của văn hoá, của lịch sử, Feuerbach đi đến quan điểm cho rằng, tính ích kỷ không chỉ mang 10 tính cá nhân như các nhà tư tưởng, các nhà đạo đức học trước ông (đặc biệt là những người theo eudaimonism - chủ nghĩa duy hạnh) tuyên bố, mà nó còn mang tính xã hội. "Không chỉ có một tính ích kỷ đơn độc hay là tính ích kỷ cá nhân - Feuerbach viết - mà còn có một tính ích kỷ xã hội, một tính ích kỷ của gia đình, của tập thể, của cộng đồng, một tính ích kỷ yêu nước. Tất nhiên, tính ích kỷ là nguyên nhân của mọi điều ác, nhưng cũng là nguyên nhân của mọi điều thiện, bởi vì không cái gì khác ngoài tính ích kỷ đã tạo nên sự chiếm hữu ruộng đất, nên thương nghiệp, cũng vì tính ích kỷ mà có nghệ thuật, có khoa học... Tính ích kỷ ngăn cấm sự trộm cướp, dối trá, làm hạn chế sự ngoại tình". Đây là một quan điểm hoàn toàn mới so với lịch sử đương thời, khi đọc những lời này của Feuerbach, V. I. Lenin cho rằng, đây là "phôi thai của chủ nghĩa duy vật lịch sử". Tiến xa hơn bước nữa, nhà triết học mang nặng tinh thần nhân đạo coi tính ích kỷ của con người như là một động lực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử xã hội. "Trong lịch sử, một thời đại mới bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ chỗ, đông đảo quần chúng bị

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdem_3_k22_nhom_9_de_tai_11_ho_van_phu_thanh_6825.pdf
  • pdfdem_3_k22_nhom_9_de_tai_11_do_thanh_son_4002.pdf
Luận văn liên quan