Chứng minh Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử

Có thể nói, đứng trước xu thế thời đại lúc bấy giờ, khi mà Quốc tế cộng sản ra đời, chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền bá một cách rộng rãi, Cách mạng Tháng Mười Nga giành được thắng lợi to lớn và các Đảng cộng sản khác trên thế giới ra đời đã có tác động và ảnh hưởng không nhỏ tới sự ra đời của Đảng ta. Và khi Đảng ra đời không chỉ là sự đáp ứng cần thiết cho thực tiễn cách mạng nước nhà mà còn là sự hưởng ứng, hòa nhập cùng xu thế thời đại của nhân dân ta với giai cấp vô sản trên thế giới. Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga đã giành thắng lợi. Nhà nước Xô viết dựa trên nền tảng liên minh công – nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích Nga ra đời. Chủ nghĩa Mác – Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở đầu một thời đại mới – “thời đại cách mạng chống đế quốc và giải phóng dân tộc”. Cuộc cách mạng này đã cổ vũ mạnh mẽ phòng trào đầu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân các nước và là một trong những động lực thức đẩy sự ra đời của nhiều đảng cộng sản ở Đức và Hungary (1918), Mỹ (1919), Anh và Pháp (1920), Trung Quốc và Mông Cổ (1921), Nhật bản (1922), Đặc biệt là đối với nước ta, Cách mạng Tháng Mười Nga là một tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức. Vì sao cách mạng Nga thành công? Điều không thể phủ nhận được đó là tầm quan trọng của một chính đảng lãnh đạo cách mạng. Nó đã chiếu rọi cho nhân dân ta lúc bấy giời thấy rằng, để tiếp tục thực hiện cách mạng và đi đến thắng lợi ắt hẳn phải xây dựng một chính đảng như Đảng Bônsêvích vậy.

doc8 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 49249 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chứng minh Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NỘI DUNG CHÍNH. 1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời hoàn toàn phù hợp với xu thế thời đại. Có thể nói, đứng trước xu thế thời đại lúc bấy giờ, khi mà Quốc tế cộng sản ra đời, chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền bá một cách rộng rãi, Cách mạng Tháng Mười Nga giành được thắng lợi to lớn và các Đảng cộng sản khác trên thế giới ra đời đã có tác động và ảnh hưởng không nhỏ tới sự ra đời của Đảng ta. Và khi Đảng ra đời không chỉ là sự đáp ứng cần thiết cho thực tiễn cách mạng nước nhà mà còn là sự hưởng ứng, hòa nhập cùng xu thế thời đại của nhân dân ta với giai cấp vô sản trên thế giới. Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga đã giành thắng lợi. Nhà nước Xô viết dựa trên nền tảng liên minh công – nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích Nga ra đời. Chủ nghĩa Mác – Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở đầu một thời đại mới – “thời đại cách mạng chống đế quốc và giải phóng dân tộc”. Cuộc cách mạng này đã cổ vũ mạnh mẽ phòng trào đầu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân các nước và là một trong những động lực thức đẩy sự ra đời của nhiều đảng cộng sản ở Đức và Hungary (1918), Mỹ (1919), Anh và Pháp (1920), Trung Quốc và Mông Cổ (1921), Nhật bản (1922),… Đặc biệt là đối với nước ta, Cách mạng Tháng Mười Nga là một tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức. Vì sao cách mạng Nga thành công? Điều không thể phủ nhận được đó là tầm quan trọng của một chính đảng lãnh đạo cách mạng. Nó đã chiếu rọi cho nhân dân ta lúc bấy giời thấy rằng, để tiếp tục thực hiện cách mạng và đi đến thắng lợi ắt hẳn phải xây dựng một chính đảng như Đảng Bônsêvích vậy. Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế II) đã được thành lập. Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được công bố tại Đại hội III Quốc tế cộng sản năm 1920 đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa, mở ra con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức trên lập trường cách mạng vô sản. Đặc biệt, đối với Việt Nam, chính nhờ Quốc tế Cộng sản mà chủ nghĩa Mác – Lênin đã được truyền bá một cách rộng rãi. Điều này đã gây dựng được lòng tin trong quần chúng nhân dân về một chính đảng có khả năng lãnh đạo đất nước giành độc lập. Vì thế, Quốc tế Cộng sản đóng một vai trò quan trong dẫn tới sự thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam. 2. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của quá trình vận động hợp quy luật. Học thuyết Mác - Lênin khẳng định rằng, Đảng Cộng Sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Quy luật chung này được Nguyễn Ái Quốc vận dụng sáng tạo vào điều kiện nước ta, nơi giai cấp công nhân còn ít về số lượng, nhưng người vô sản bị áp bức, bóc lột thì đồng. Và sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nông và phong trào yêu nước dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm thời dập tắt được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp đã từng bước thiết lập bộ máy cai trị ở Việt Nam. Có áp bức ắt có chiến tranh. Xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống và ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất đã tồn tại suốt chiều dài lịch sử, nhân dân ta không cam chịu ách nô lệ và đã đứng lên chống giặc ngoại xâm. Vì thế, vào thời điểm lúc bấy giờ, rất nhiều phong trào đấu tranh đã nổ ra, tuy nhiên đều không hoàn thành nhiệm vụ. Các phong trào này đều thất bại và không giải quyết được vấn đề của đất nước: đánh đuổi thực dân, giành độc lập dân tộc. Từ đó, vấn đề đặt ra cho cách mạng Việt Nam là tìm ra một lực lượng lãnh đạo đưa cách mạng đi đến thắng lợi. Suốt từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ở nước ta diễn ra hai phong trào đấu tranh hết sức mạnh mẽ, đó là phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đặt trong bối cảnh xã hội Việt Nam bấy giờ, giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất, có ý thức kỷ luật cao, sớm tiếp thu những tinh hoa văn hóa tiên tiến, trào lưu tư tưởng của thời đại cách mạng vô sản để bồi dưỡng bản chất cách mạng của mình. Đây lại là giai cấp xuất thân từ nông dân có sự gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân. Chính những thế mạnh đó khiến càng ngày phong trào công nhân càng phát triển và có những bước tiến rõ rệt. Từ 1920 – 1925 đã nổ ra 25 cuộc bãi công. Tiêu biểu nhất là cuộc bãi công của 1000 công nhân xưởng Ba Son (Sài Gòn) tháng 8/1925. Sau đó, hầu hết các phong trào công nhân đều bị đàn áp bởi lực lượng còn quá mỏng lại thiếu kinh nghiệm đầu tranh. Tuy thất bại song giai cấp công nhân đã ngày một trưởng thành về nhận thức, về con đường đấu tranh cũng như phát triển thêm cả về lực lượng. Bên cạnh đó, lúc bấy giờ ở nước ta còn tồn tại phong trào yêu nước tồn tại hai khuynh hướng cơ bản: phong kiến và tư sản. Những phong trào này rất lớn mạnh, lôi cuốn được mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Nổi bật của khuynh hướng phong kiến là Chúng đã thể hiện được tinh thần yêu nước lớn lao, ý thức dân tộc và cổ vũ mạnh mẽ cho các phong trào khác trên mọi miền đất nước. Nổi bật của phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến là phong trào Cần Vương (1885 – 1896) kéo theo đó là các cuộc khởi nghĩa Ba Đình, Bãi Sậy, Hương Khê, Yên Thế. Tuy nhiên, cuối cùng chúng đều bị đàn áp đẫm máu. Sự thất bại của phong trào này chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc mà lịch sử đặt ra. Khuynh hướng tư sản tiêu biểu là Phan Bội Châu với phong trào Đông Du và Quang Phục Hội, phong trào yêu nước của Phan Châu Trinh,... Tất cả là do hạn chế về mặt lịch sử, giai cấp, các sỹ phu yêu nước đã không tìm ra một phương hướng giải quyết hợp lý cho các cuộc đấu tranh và sau một thời gian đã thất bại. Có thể thấy, hai phong trào đấu tranh ở Việt Nam lúc bấy giờ đều thất bại bởi chúng nổ ra rời rạc, không có một đường lối, chủ trương đấu tranh thống nhất. Và tất nhiên, thất bại còn ở chỗ không có một lực lượng lãnh đạo, tiên phong đi đầu. Mãi tới khi Nguyễn Ái Quốc được tiếp cận với học thuyết Mác – Lênin, Người đã nhận ra rằng giai cấp có đủ khả năng đứng lên tập trung sức mạnh của dân tộc thành một khối và lãnh đạo cách mạng đi tới thắng lợi chính là giai cấp công nhân mà đội tiền phong chính là một chính đảng duy nhất: Đảng cộng sản. Thật vậy, vào ngày 3/2/1930, khi Đảng Cộng Sản Đông Dương ra đời đã đánh đấu bước ngoặt của cách mạng nước nhà. Đảng ra đời đã chấm dứt thời kì khủng hoảng sâu sắc về giai cấp lãnh đạo và đường lối cứu nước ở nước ta từ cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Sự kiện đó chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Từ đây, giai cấp công nhân Việt Nam đã có một bộ tham mưu của giai cấp và dân tộc lãnh đạo, đánh dấu sự chiến thắng của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với các trào lưu tư tưởng phi vô sản. Hơn thế, chính việc Đảng Cộng Sản ra đời đã tập hợp được hai phong trào đấu tranh sôi nổi của nhân dân lại, gây dựng được lực lượng đông đảo và có những đường lối đấu tranh đúng đắn đã tạo nên thắng lợi rực rỡ của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Vì những lẽ trên, hoàn toàn có thể khẳng định rằng Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời chính là kết quả tất yếu của quá trình vận động hợp quy luật, của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ba yếu tố: chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước. 3. Sự ra đời của Đảng là kết quả tất yếu từ sự chuẩn bị kỹ lưỡng của Nguyễn Ái Quốc. Thứ nhất, như đã phân tích ở mục 1, phải khẳng định rằng Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự lựa chọn con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Người nhận thấy một thực tiễn rằng các phong trào đấu tranh lúc bấy giờ ở nước ta đều đi đến ngõ cụt chứng minh rằng dân tộc ta không có một con đường cách mạng đúng đắn. Và khi tiếp cận với chủ nghĩa Mác – Lênin thì Nguyễn Ái Quốc mới vỡ ra rằng chỉ có đi theo con đường cách mạng vô sản thì mới mong có được độc lập dân tộc. Và sau đó, việc Đảng Cộng Sản ra đời cũng chính là hệ quả từ việc lựa chọn con đường cách mạng đúng đắn đó của Người. Nếu không có cách mạng vô sản thì sẽ không có Đảng ra đời. Thứ hai, xuất phát từ những điều kiện lịch sử và các tiền đề về lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước, chuẩn bị tiến tới việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Người đã dốc sức chuẩn bị chu đáo về mặt chủ quan, cũng như thúc đẩy các điều kiện khách quan đi đến chín muồi. Về mặt tư tưởng, Người tiếp tục đi sâu tìm hiểu về chủ nghĩa Mác – Lênin, về chế độ Xô Viết mới ra đời, không phải gián tiếp mà trực tiếp trên đất nước đã làm cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới. Người mở rộng sự liên kết với những người Việt Nam yêu nước, với những người cách mạng các nước thuộc địa, đồng thời tham gia vào nhiều hoạt động của Quốc tế Cộng sản. Sự kiện tháng 7/1920, khi được đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trên hành trình đi tìm đường đường cứu nước của Người, chính điều này cũng đã tạo ra sự gặp gỡ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng của Mác, Ăng ghen, Lênin. Bản Luận cương đã giải đáp tất cả những điều Người trăn trở trong suốt mười năm đi tìm đường cứu nước. Từ đó, Người ra sức tìm hiểu và tìm cách truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về nước, đồng thời tích cực chuẩn bị những yếu tố về mặt tổ chức và chính trị để tiến tới việc thành lập chính Đảng vô sản ở Việt Nam. Năm 1921, “Hội Liên Hiệp thuộc địa” được thành lập ở Pari; năm 1925, “Hội Liên Hiệp các dân tộc bị áp bức” được tổ chức ở Quảng Châu. Đây là những tổ chức quốc tế đầu tiên của phong trào giải phóng dân tộc mà Nguyễn Ái Quốc là một trong những người khởi xướng, vừa tổ chức vừa lãnh đạo chủ yếu nhất. Bên cạnh đó, Người còn viết bài đăng trên các báo Người cùng khổ (Le Paria), Nhân đạo (L’Humanite) của Đảng Cộng sản Pháp, Đời sống công nhân (La Vie ouriere) của Tổng Liên đoàn Lao động Pháp. Người viết tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp để tố cáo tội ác của bọn thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện chính trị để đào tạo một số thanh niên Việt Nam trở thành những cán bộ cách mạng, từ năm 1924 đến năm 1927 đã đào tạo được 75 hội viên. Một số được chọn đi học trường Đại học Phương Đông Liên Xô, một số được cử đi học quân sự ở Liên Xô hay Trung quốc, còn phần lớn lên đường về nước hoạt động. Ngay sau khi Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ra đời, tuần báo Thanh niên được xuất bản làm cơ quan tuyên truyền của Hội. Các bài giảng trong các lớp đào tạo cán bộ ở Quảng Châu cũng được tập hợp lại in thành sách Đường cách mệnh (đầu năm 1927). Trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc vạch ra những phương hướng cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Từ tác phẩm toát ra một yêu cầu cấp thiết hành động. Ba tư tưởng cơ bản được nêu lên: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng đông đảo nên phải được động viên, tổ chức và lãnh đạo quần chúng vùng dạy đánh đổ các giai cấp áp bức, bóc lột; cách mạng phải có đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin lãnh đạo; cách mạng trong nước cần phải đoàn kết với giai cấp vô sản thế giới và là một bộ phận của cách mạng thế giới. Mục đích của cuốn sách là để nói cho đồng bào ta biết rõ: "Vì sao chúng ta muốn sống thì phải cách mệnh - Vì sao cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người - Đem lịch sử cách mệnh các nước làm gương cho chúng ta soi - Đem phong trào thế giới nói cho đồng bào ta rõ - Ai là bạn ta? Ai là thù ta? - Cách mệnh thì phải làm thế nào?” Như vậy, trong thời kì chuẩn bị để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã tập hợp những người yêu nước tiêu biểu nhất vào tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, mà như Người đã nói, tổ chức này giống như “quả trứng, mà từ đó nở ra con chim non cộng sản”, một tổ chức lúc đầu còn nhỏ bé nhưng sẽ là “cơ sở cho một đảng lớn hơn”. Trong tổ chức đó, Người đã giác ngộ họ về chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối cách mạng mới, để từ đó truyền bá vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Chủ nghĩa Mác – Lênin được Nguyễn Ái Quốc truyền bá vào Việt Nam không phải bằng con đường kinh viện, sách vở, mà bằng sự kết hợp chặt chẽ với thực tiễn cách mạng Việt Nam, với tất cả những gì cần thiết và phù hợp với cách mạng Việt Nam. 4. Đảng ra đời xuất phát từ yêu cầu tất yếu phải hợp nhất ba tổ chức đảng lúc bấy giờ. Từ cuối năm 1928 đến đầu năm 1929, phong trào dân tộc và dân chủ ở nước ta, đặc biệt là phong trào công nông theo con đường cách mạng vô sản, đã phát triển mạnh mẽ. Trước tình hình đó, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên không còn đủ sức để lãnh đạo nữa. Cần phải thành lập một Đảng Cộng sản để tổ chức và lãnh đạo giai cấp công nhân, giai cấp nông dân cùng các lực lượng yêu nước và cách mạng khác đấu tranh chống đế quốc và phong kiến tay sai, giành lấy độc lập và tự do. Ngày 17/6/1929, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở miền Bắc họp đại hội quyết định thành lập Đông Dương cộng sản đảng, thông qua tuyên ngôn, điều lệ của đảng, ra báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận. Đông dương cộng sản Đảng ra đời đáp ứng đúng yêu cầu bức thiết của quần chúng nên được nhiệt liệt hưởng ứng, uy tín và tổ chức của đảng phát triển rất nhanh, nhất là Bắc kì và Bắc Trung kì. Tiếp đó, các hội viên tiên tiến trong bộ phận Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Trung Quốc và ở Nam kì cũng quyết định lập An Nam cộng sản Đảng (7/1929). Sự ra đời của Đông Dương cộng sản đảng (6/1929) và An Nam cộng sản đảng (8/1929) đã tác động mạnh mẽ đến sự phân hóa của Tân Việt cách mạng đảng. Các đảng viên tiên tiến của đảng Tân Việt từ lâu đã chịu ảnh hưởng của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên cũng tách ra đề thàh lập Đông Dương cộng sản liên đoàn (9/1929). Chỉ trong vòng không đầy 4 tháng (từ tháng 6 đến tháng 9/1929) đã có 3 tổ chức Đảng Cộng sản ở Việt Nam lần lượt tuyên bố thành lập. Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản lúc bấy giờ là một xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Các tổ chức cộng sản trên đã nhanh chóng xây dựng cơ sở đảng trong nhiều địa phương, và trực tiếp tổ chức, lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân. Phong trào công nhân kết hợp chặt chẽ với phong trào với phong trào đấu tranh của nông dân chống sưu cao thuế nặng, chống cướp ruộng đất, phong trào bãi khóa của học sinh, bãi thị của tiểu thương, tạo thành một làn sóng đấu tranh cách mạng dân tộc dân chủ khắp cả nước. Nhưng trong một nước có ba tổ chức cộng sản hoạt động riêng rẽ, công kích lẫn nhau, tranh giành ảnh hưởng của nhau, gây nên một trở ngại lớn cho phong trào cách mạng. Tình hình đó nếu để kéo dài sẽ có nguy cơ dẫn đến sự chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam lúc này là phải có một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước. Trước tình hình đó, với tư cách là phái viên của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc có đủ quyền quyết định mọi vấn đề của phong trào cách mạng ở Đông Dương đã thống nhất các lực lượng cộng sản ở Việt Nam để thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất. Từ ngày 3 đến 7-2-1930, hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã họp ở Cửu Long (Hương Cảng). Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế cộng sản chủ trì hội nghị. Tham gia hội nghị có 2 đại biểu Đông Dương Cộng sản đảng, 2 đại biểu An Nam cộng sản đảng. Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, hội nghị đã hoàn toàn nhất trí tán thành thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập một đảng duy nhất lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam; thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc dự thảo. Nhân dịp thành lập Đảng, Người cũng đã ra Lời kêu gọi Hội nghị tháng 2/1930 của đại biểu các tổ chức cộng sản ở Đông Dương để hợp nhất Đảng có ý nghĩa như một Đại hội thành lập Đảng. Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt được hội nghị thông qua là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Tóm lại, việc Đảng Cộng Sản ra đời chính là tất yếu từ yêu cầu phải hợp nhất ba tổ chức đảng đang hoạt động lúc bấy giờ nhằm thống nhất đường lối đấu tranh, đưa cách mạng Việt Nam tiến tới những thắng lợi sau này.
Luận văn liên quan