1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, môi trường là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của nhân loại. Việc nhận thức về môi trường đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của loài người ngày càng được nâng cao. Khái niệm môi trường theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các yếu tố như không khí, nước, đất, ánh sáng, âm thanh, cảnh quan. và các tài nguyên thiên nhiên cần thiết cho sinh sống và sản xuất của con người. Trong đó, chính con người cũng là yếu tố quan trọng tác động tới quá trình vận động và phát triển của môi trường.
Điều đó có nghĩa là môi trường và phát triển có mối quan hệ rất chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau: bất kỳ một hoạt động kinh tế nào cũng phải dựa vào môi trường và gây ra những tác động đến môi trường. Ngược lại, bất kỳ một sự biến đổi nào của hệ thống môi trường cũng đều gây ra những tác động ngược trở lại đối với việc phát triển kinh tế – xã hội.
Môi trường có ba chức năng cơ bản đối với xã hội loài người: môi trường là không gian sống và cung cấp những điều kiện hỗ trợ cuộc sống cho con người; môi trường cung cấp các tài nguyên thiên nhiên cần thiết cho các hoạt động của con người; đồng thời môi trường cũng chứa đựng và hấp thụ chất thải do con người tạo ra trong các hoạt động của mình.
Rõ ràng, môi trường tự nhiên là một thành tố quan trọng của hệ thống kinh tế và nếu không có môi trường tự nhiên thì hệ thống kinh tế sẽ không thể hoạt động và thực hiện được các chức năng của nó. Do vậy, ta cần quan tâm đến môi trường tự nhiên như là một tài sản, một tài nguyên không thể thiếu.
Từ trước đến nay, con người vẫn luôn coi môi trường là dạng “trời cho” hay “thiên nhiên ban tặng” nên người ta khai thác và sử dụng không tính toán đến những thiệt hại mà hoạt động khai thác gây ra cho môi trường. Một trong những nguyên nhân của điều này là do hàng hoá môi trường không được định giá trên thị trường.
Việt Nam là một nước có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa. Vì vậy, một trong những nguồn tài nguyên quan trọng của Việt nam là rừng nhiệt đới, nó mang lại cho chúng ta tổng giá trị kinh tế cao bao gồm cả giá trị sử dụng và không sử dụng. Đặc biệt, rừng còn cung cấp cho con người những giá trị cảnh quan cực kỳ phong phú và quý giá phục vụ cho phát triển du lịch sinh thái đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí ngày càng tăng của cộng đồng trong và ngoài nước. Du lịch sinh thái đang ngày càng phát triển và được coi là một trong những biện pháp sử dụng rừng mà không cần khai thác nhưng đem lại giá trị kinh tế cao và đầy tiềm năng.
Tuy nhiên, không phải ai cũng nhận thức được điều này bởi giá trị giải trí của rừng tự nhiên thường bị ẩn sau nhiều giá trị trực tiếp khác. Do vậy nghiên cứu đánh giá giá trị cảnh quan du lịch của rừng tự nhiên là điều cần thiết, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, nơi rừng tự nhiên đang bị suy giảm nghiêm trọng do chưa được đánh giá đúng mức. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm rõ hơn giá trị của rừng trên khía cạnh cảnh quan du lịch làm cơ sở cho việc xây dựng các cơ chế quản lý sử dụng rừng hợp lý đúng với giá trị mà nó mang lại.
Vườn quốc gia Bạch Mã là khu vườn quốc gia nổi tiếng ở Việt Nam cũng như trên thế giới với các mẫu động thực vật đặc hữu của Việt Nam có trong sách Đỏ của thế giới. Bạch Mã từ lâu đã nổi tiếng là một khu du lịch nghỉ mát cực kỳ lý tưởng vì tại đây có khí hậu rất mát mẻ của rừng, của núi non và những khu biệt thự, những đường mòn thiên nhiên, những nhà nghỉ đạt tiêu chuẩn quốc tế. Vì vậy, việc xác định giá trị thực của vườn là rất cần thiết để khai thác hợp lý tiềm năng du lịch kết hợp với mục tiêu bảo tồn.
Đó chính là lý do tôi lựa chọn đề tài:
“Áp dụng phương pháp chi phí du lịch để xác định giá trị chất lượng môi trường tại vườn quốc gia Bạch Mã, Thừa Thiên - Huế”.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục tiêu:
Qua phương pháp chi phí du lịch, nhằm xác định lợi ích từ hoạt động du lịch hàng năm VQG Bạch Mã đem lại cho cộng đồng, bên cạnh đó xác định giá trị môi trường của nó để làm căn cứ cho trong việc quy hoạch phát triển, hướng tới phát triển bền vững.
2.2. Nhiệm vụ
Tổng quan cơ sở lí luận về giá trị chất lượng môi trường và định giá môi trường, đặc biệt về phương pháp chi phí du lịch để áp dụng vào địa bàn nghiên cứu.
Khái quát thực trạng môi trường và hoạt động du lịch của vườn quốc gia Bạch Mã.
Ứng dụng phương pháp chi phí du lịch nhằm tính toán ra giá trị cảnh quan cho VQG Bạch Mã.
3. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian lãnh thổ: địa bàn nghiên cứu là VQG Bạch Mã.
Về thời gian nghiên cứu: điều tra, phỏng vấn khách du lịch vào tháng 6/2006, sử dụng số liệu thống kê về lượng khách du lịch đến Bạch Mã từ năm 2000 đến nay.
Về giới hạn khoa học: giá trị chất lượng môi trường tại VQG Bạch Mã bao gồm cả giá trị sử dụng và giá trị phi sử dụng. Tuy nhiên, đề tài chỉ nghiên cứu và tính toán giá trị cảnh quan tại vườn.
4. Các phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin: tổng hợp tài liệu thứ cấp và phỏng vấn trực tiếp.
Phương pháp thực địa
Phương pháp điều tra xã hội học
Phương pháp chuyên gia
Phương pháp xử lí số liệu bằng các phần mềm Excel, Mfit 286
Phương pháp lượng giá giá trị cảnh quan: sử dụng phương pháp chi phí du lịch theo vùng (Zonal travel cost method – ZTCM).
5. Cấu trúc của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, chuyên đề được trình bày trong ba chương:
Chương I: Sử dụng phương pháp chi phí du lịch cho đánh giá chất lượng môi trường.
Chương II: Tổng quan về VQG Bạch Mã.
Chương III: Ứng dụng phương pháp chi phí du lịch để xác định giá trị cảnh quan tại VQG Bạch Mã.
67 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2669 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Áp dụng phương pháp chi phí du lịch để xác định giá trị chất lượng môi trường tại vườn quốc gia Bạch Mã, Thừa Thiên - Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
GIẢI THÍCH CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI 3
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU 4
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ 5
PHẦN MỞ ĐẦU 6
1. Tính cấp thiết của đề tài 6
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài 8
3. Phạm vi nghiên cứu 8
4. Các phương pháp nghiên cứu 8
5. Cấu trúc của chuyên đề 9
PHẦN NỘI DUNG 12
CHƯƠNG I: SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP CHI PHÍ DU LỊCH CHO ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG 12
1.1. Chất lượng môi trường 12
1.1.1. Khái niệm 12
1.1.2. Giá trị kinh tế của chất lượng môi trường: Tổng giá trị kinh tế 12
1.2. Vấn đề định giá môi trường 16
1.2.1. Sự cần thiết phải định giá môi trường 16
1.2.2. Phương pháp định giá môi trường 17
1.3. Phương pháp chi phí du lịch (Travel Cost Method – TCM) 20
1.3.1. Khái niệm 20
1.3.2. Các cách tiếp cận của phương pháp chi phí du lịch 21
1.3.3. Các bước thực hiện phương pháp chi phí du lịch 23
1.3.4. Ưu điểm 26
1.3.5. Hạn chế 26
CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ VƯỜN QUỐC GIA BẠCH MÃ, 28
THỪA THIÊN - HUẾ 28
2.1. Đặc điểm chung của VQG Bạch Mã, Thừa Thiên - Huế 28
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên 29
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội 34
2.2. Thực trạng về hoạt động du lịch 35
2.2.1. Tiềm năng du lịch 35
2.2.2. Thực trạng du lịch 36
2.2.3. Cơ sở vật chất phục vụ du lịch 39
2.3. Những hoạt động bảo tồn thiên nhiên và giáo dục môi trường 40
2.3.1. Nghiên cứu khoa học 40
2.3.2. Công tác quản lý và bảo vệ rừng 41
2.3.3. Công tác phát triển kinh tế vùng đệm 42
2.3.4. Công tác giáo dục môi trường 43
2.4. Tiểu kết 44
CHƯƠNG III: ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP CHI PHÍ DU LỊCH ĐỂ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ CẢNH QUAN TẠI VQG BẠCH MÃ 45
3.1. Sử dụng ZTCM để xác định giá trị chất lượng môi trường cho VQG Bạch Mã 45
3.2. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin 45
3.2.1. Đối với thông tin thứ cấp 45
3.2.2. Đối với thông tin sơ cấp 46
3.3. Tổng quan về các đặc điểm mẫu nghiên cứu 49
3.3.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội của du khách tham gia phỏng vấn 49
3.3.2. Các hoạt động tại VQG Bạch Mã của du khách tham gia phỏng vấn 52
3.3.3. Các chi phí du lịch của du khách tham gia phỏng vấn 55
3.4. Xác định mô hình hàm cầu du lịch cho VQG Bạch Mã 56
3.4.1. Phân vùng xuất phát 56
3.4.2. Tỷ lệ tham quan của vùng xuất phát (VR) 56
3.4.3. Ước lượng chi phí du lịch cho một chuyến đi đến Bạch Mã 57
3.4.4. Xây dựng hàm cầu du lịch cho VQG Bạch Mã 62
3.5. Những kết quả thu được 64
3.6. Những khó khăn trong quá trình thực hiện ZTCM tại VQG Bạch Mã 65
3.7. Kiến nghị 65
KẾT LUẬN 67
Tài liệu tham khảo 69
PHỤ LỤC
GIẢI THÍCH CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI
- BV: Bequest Value – giá trị tuỳ thuộc hay giá trị để lại
- DUV: Direct Use Value – giá trị sử dụng trực tiếp
- EXV: Existence Value – giá trị tồn tại
- ITCM: Individual Travel Cost Method – cách tiếp cận phương pháp chi phí du lịch theo cá nhân.
- IUV: Indirect Use Value – giá trị sử dụng gián tiếp
- NUV: Non Use Value – giá trị không sử dụng
- OV: Option Value – giá trị tuỳ chọn
- TEV: Total Economic Value - tổng giá trị kinh tế.
- TCM: Travel Cost Method – phương pháp chi phí du lịch.
- Trung tâm DLST và GDMT: trung tâm du lịch sinh thái và giáo dục môi trường.
- UV: Use Value – giá trị sử dụng.
- VQG: Vườn quốc gia.
- WTP: Willingness to pay - mức sẵn lòng chi trả.
- ZTCM: Zonal Travel Cost Method – cách tiếp cận phương pháp chi phí du lịch theo vùng.
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
TÊN BẢNG
TRANG
Bảng 2.1: Lượng khách du lịch đến VQG Bạch Mã qua các năm
36
Bảng 3.1: Phân loại khách du lịch
49
Bảng 3.2: Các đặc điểm kinh tế xã hội của du khách quốc tế
50
Bảng 3.3: Các đặc điểm kinh tế xã hội của khách du lịch nội địa
51
Bảng 3.4: Số du khách trong mỗi nhóm VQG Bạch Mã
52
Bảng 3.5: Mục đích du khách tới VQG Bạch Mã
52
Bảng 3.6: Các hoạt động du lịch được ưa thích tại VQG Bạch Mã
53
Bảng 3.7: Những điểm làm du khách chưa hài lòng
54
Bảng 3.8: Đánh giá của du khách về chất lượng môi trường VQG Bạch Mã
55
Bảng 3.9: Phân vùng xuất phát
56
Bảng 3.10: Số lượt thăm quan của mỗi vùng trong 1 năm
57
Bảng 3.11: Tỷ lệ thăm quan/1000 dân/năm (VR) của mỗi vùng
57
Bảng 3.12: Chi phí ăn uống (f)
59
Bảng 3.13: Chi phí nghỉ ngơi (ac)
60
Bảng 3.14: Chi phí đi lại (ct)
60
Bảng 3.15: Chi phí thời gian (OC)
61
Bảng 3.16: Tổng hợp các chi phí
62
Bảng 3.17: Giá trị VRi và TCi ở các vùng
63
Bảng 3.18: Lợi ích giải trí của du khách từ các vùng đến Bạch Mã
64
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
TÊN HÌNH
TRANG
Hình 1.1: Sơ đồ TEV
13
Hình 1.2: Đồ thị hàm cầu giá trị môi trường
18
Hình 1.3: Đồ thị hàm cầu giải trí trong TCM
25
Hình 2.1: Vị trí địa lý VQG Bạch Mã
28
Hình 2.2: Bản đồ VQG Bạch Mã
30
Hình 2.3: Biểu đồ lượng khách du lịch
37
Hình 3.1: Đồ thị hàm cầu giải trí của VQG Bạch Mã
63
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, môi trường là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của nhân loại. Việc nhận thức về môi trường đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của loài người ngày càng được nâng cao. Khái niệm môi trường theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các yếu tố như không khí, nước, đất, ánh sáng, âm thanh, cảnh quan... và các tài nguyên thiên nhiên cần thiết cho sinh sống và sản xuất của con người. Trong đó, chính con người cũng là yếu tố quan trọng tác động tới quá trình vận động và phát triển của môi trường.
Điều đó có nghĩa là môi trường và phát triển có mối quan hệ rất chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau: bất kỳ một hoạt động kinh tế nào cũng phải dựa vào môi trường và gây ra những tác động đến môi trường. Ngược lại, bất kỳ một sự biến đổi nào của hệ thống môi trường cũng đều gây ra những tác động ngược trở lại đối với việc phát triển kinh tế – xã hội.
Môi trường có ba chức năng cơ bản đối với xã hội loài người: môi trường là không gian sống và cung cấp những điều kiện hỗ trợ cuộc sống cho con người; môi trường cung cấp các tài nguyên thiên nhiên cần thiết cho các hoạt động của con người; đồng thời môi trường cũng chứa đựng và hấp thụ chất thải do con người tạo ra trong các hoạt động của mình.
Rõ ràng, môi trường tự nhiên là một thành tố quan trọng của hệ thống kinh tế và nếu không có môi trường tự nhiên thì hệ thống kinh tế sẽ không thể hoạt động và thực hiện được các chức năng của nó. Do vậy, ta cần quan tâm đến môi trường tự nhiên như là một tài sản, một tài nguyên không thể thiếu.
Từ trước đến nay, con người vẫn luôn coi môi trường là dạng “trời cho” hay “thiên nhiên ban tặng” nên người ta khai thác và sử dụng không tính toán đến những thiệt hại mà hoạt động khai thác gây ra cho môi trường. Một trong những nguyên nhân của điều này là do hàng hoá môi trường không được định giá trên thị trường.
Việt Nam là một nước có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa. Vì vậy, một trong những nguồn tài nguyên quan trọng của Việt nam là rừng nhiệt đới, nó mang lại cho chúng ta tổng giá trị kinh tế cao bao gồm cả giá trị sử dụng và không sử dụng. Đặc biệt, rừng còn cung cấp cho con người những giá trị cảnh quan cực kỳ phong phú và quý giá phục vụ cho phát triển du lịch sinh thái đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí ngày càng tăng của cộng đồng trong và ngoài nước. Du lịch sinh thái đang ngày càng phát triển và được coi là một trong những biện pháp sử dụng rừng mà không cần khai thác nhưng đem lại giá trị kinh tế cao và đầy tiềm năng.
Tuy nhiên, không phải ai cũng nhận thức được điều này bởi giá trị giải trí của rừng tự nhiên thường bị ẩn sau nhiều giá trị trực tiếp khác. Do vậy nghiên cứu đánh giá giá trị cảnh quan du lịch của rừng tự nhiên là điều cần thiết, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, nơi rừng tự nhiên đang bị suy giảm nghiêm trọng do chưa được đánh giá đúng mức. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm rõ hơn giá trị của rừng trên khía cạnh cảnh quan du lịch làm cơ sở cho việc xây dựng các cơ chế quản lý sử dụng rừng hợp lý đúng với giá trị mà nó mang lại.
Vườn quốc gia Bạch Mã là khu vườn quốc gia nổi tiếng ở Việt Nam cũng như trên thế giới với các mẫu động thực vật đặc hữu của Việt Nam có trong sách Đỏ của thế giới. Bạch Mã từ lâu đã nổi tiếng là một khu du lịch nghỉ mát cực kỳ lý tưởng vì tại đây có khí hậu rất mát mẻ của rừng, của núi non và những khu biệt thự, những đường mòn thiên nhiên, những nhà nghỉ đạt tiêu chuẩn quốc tế. Vì vậy, việc xác định giá trị thực của vườn là rất cần thiết để khai thác hợp lý tiềm năng du lịch kết hợp với mục tiêu bảo tồn.
Đó chính là lý do tôi lựa chọn đề tài:
“Áp dụng phương pháp chi phí du lịch để xác định giá trị chất lượng môi trường tại vườn quốc gia Bạch Mã, Thừa Thiên - Huế”.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục tiêu:
Qua phương pháp chi phí du lịch, nhằm xác định lợi ích từ hoạt động du lịch hàng năm VQG Bạch Mã đem lại cho cộng đồng, bên cạnh đó xác định giá trị môi trường của nó để làm căn cứ cho trong việc quy hoạch phát triển, hướng tới phát triển bền vững.
2.2. Nhiệm vụ
Tổng quan cơ sở lí luận về giá trị chất lượng môi trường và định giá môi trường, đặc biệt về phương pháp chi phí du lịch để áp dụng vào địa bàn nghiên cứu.
Khái quát thực trạng môi trường và hoạt động du lịch của vườn quốc gia Bạch Mã.
Ứng dụng phương pháp chi phí du lịch nhằm tính toán ra giá trị cảnh quan cho VQG Bạch Mã.
3. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian lãnh thổ: địa bàn nghiên cứu là VQG Bạch Mã.
Về thời gian nghiên cứu: điều tra, phỏng vấn khách du lịch vào tháng 6/2006, sử dụng số liệu thống kê về lượng khách du lịch đến Bạch Mã từ năm 2000 đến nay.
Về giới hạn khoa học: giá trị chất lượng môi trường tại VQG Bạch Mã bao gồm cả giá trị sử dụng và giá trị phi sử dụng. Tuy nhiên, đề tài chỉ nghiên cứu và tính toán giá trị cảnh quan tại vườn.
4. Các phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin: tổng hợp tài liệu thứ cấp và phỏng vấn trực tiếp.
Phương pháp thực địa
Phương pháp điều tra xã hội học
Phương pháp chuyên gia
Phương pháp xử lí số liệu bằng các phần mềm Excel, Mfit 286
Phương pháp lượng giá giá trị cảnh quan: sử dụng phương pháp chi phí du lịch theo vùng (Zonal travel cost method – ZTCM).
5. Cấu trúc của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, chuyên đề được trình bày trong ba chương:
Chương I: Sử dụng phương pháp chi phí du lịch cho đánh giá chất lượng môi trường.
Chương II: Tổng quan về VQG Bạch Mã.
Chương III: Ứng dụng phương pháp chi phí du lịch để xác định giá trị cảnh quan tại VQG Bạch Mã.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP CHI PHÍ DU LỊCH CHO ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG
1.1. Chất lượng môi trường
1.1.1. Khái niệm
Chất lượng môi trường là sự cân bằng của tự nhiên, bao gồm động vật, thực vật, tài nguyên thiên nhiên và các vật thể do con người làm ra, phục vụ cho sự tồn tại của nhân loại, sự sống còn của loài người và tự nhiên.
Chất lượng môi trường là khả năng tương đối của một môi trường có thể thoả mãn nhu cầu và mong muốn của một cá nhân hay toàn xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường mọi quan hệ đều được tiền tệ hoá, đều được coi như là hàng hoá. Và người ta cho rằng chất lượng môi trường cũng là một loại hàng hoá, được gọi là hàng hoá chất lượng môi trường. Trong thực tế, loại hàng hoá này đã từng được sử dụng trong việc mua bán, trao đổi trên thị trường dưới hình thức này hoặc hình thức khác. Tuy nhiên, hầu hết các hàng hoá môi trường vẫn không được tính giá hoặc chúng được định giá không hợp lý. Chất lượng của không khí chúng ta thở, của nước chúng ta uống, của sông hồ mà chúng ta đến giải trí... đều ảnh hưởng đến tình trạng sức khoẻ và tinh thần của chúng ta, nhưng chúng lại không có giá trên thị trường. Vậy thì giá trị kinh tế của chất lượng môi trường là gì và được tính như thế nào?
1.1.2. Giá trị kinh tế của chất lượng môi trường: Tổng giá trị kinh tế
Khái niệm tổng giá trị kinh tế (Total Economic Value – TEV) ra đời vào những năm 1980, được xây dựng trên cơ sở nhìn nhận một cách toàn diện về giá trị hàng hoá môi trường mà sự nhìn nhận đó không chỉ bao gồm những giá trị trực tiếp có thể lượng hoá được mà còn cả những giá trị gián tiếp - những giá trị ẩn khó nhìn thấy nhưng lại rất có ý nghĩa về mặt kinh tế xã hội.
Một khu rừng có thể đồng thời cung cấp gỗ cho những người tiều phu, các dịch vụ sinh thái cho cộng đồng địa phương, lọc nước cho các nhà máy thuỷ điện, các nguồn gen cho các công ty dược phẩm đa quốc gia và là nơi hấp thụ carbon cho phát thải CO2 toàn cầu. Như vậy, tổng của tất cả các loại giá trị liên quan đến một tài nguyên thì được gọi là tổng giá trị kinh tế (TEV).
Các nhà khoa học đã phân tích TEV theo nhiều cách khác nhau. Callan (2000) cho rằng:
Tổng giá trị = Giá trị sử dụng + Giá trị tồn tại
(trực tiếp và gián tiếp) (tiêu dùng của người khác và
giữ gìn cho thế hệ tương lai)
Theo Tom Tietenberg: TEV = UV + OV + NUV
Trong đó: UV là giá trị sử dụng
OV là giá trị tuỳ chọn
NUV là giá trị không sử dụng
Như vậy, các nhà kinh tế học môi trường đã làm được rất nhiều khi phân loại giá trị kinh tế trong mối quan hệ của chúng với môi trường thiên nhiên. Tuy vấn đề thuật ngữ vẫn chưa được thống nhất hoàn toàn, nhưng nhìn chung họ đều dựa trên cơ sở sự tương tác giữa con người (người định ra giá trị) và môi trường (vật được đánh giá). Theo nguyên tắc, để đo lường TEV các nhà kinh tế học bắt đầu bằng việc phân biệt giữa giá trị sử dụng và giá trị không sử dụng, và TEV đã được khái quát hoá bằng công thức sau:
TEV = UV + NUV = (DUV + IUV + OV) + (BV + EXV)
Hình 1.1: Sơ đồ TEV
Trong đó: - TEV (Total economic values) là tổng giá trị kinh tế.
- UV (Use values) là giá trị sử dụng.
- DUV (Direct use values) là giá trị sử dụng trực tiếp.
- IUV (Indirect use values) là giá trị sử dụng gián tiếp.
- OV (Option values) là giá trị tuỳ chọn.
- NUV (Nonuse values) là giá trị không sử dụng.
- BV (Bequest values) là giá trị tuỳ thuộc hay giá trị để lại.
- EXV (Existence values) là giá trị tồn tại.
Sự phân biệt đầu tiên và quan trọng nhất đó là giữa giá trị sử dụng và giá trị không sử dụng.
Giá trị sử dụng là những giá trị bắt nguồn từ lợi ích của xã hội do sử dụng hoặc có tiềm năng sử dụng một tài nguyên môi trường nhất định hay các dịch vụ của nó. Nói cách khác, giá trị sử dụng được hình thành từ việc thực sự sử dụng môi trường. Trên thực tế, nó bao gồm:
Giá trị sử dụng trực tiếp là các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ trực tiếp cung cấp mà chúng ta có thể tính được về giá cả và khối lượng trên thị trường. Một cá nhân có thể trực tiếp thưởng thức nguồn tài nguyên bằng cách tiêu dùng nó (ví dụ: chặt gỗ để đốt hay câu cá để tồn tại...) hoặc bằng cách tăng lợi ích từ bản thân thị trường tài nguyên (ví dụ: giá trị cảnh quan của một công viên).
Giá trị sử dụng gián tiếp là những giá trị chủ yếu dựa trên chức năng của hệ sinh thái, có ý nghĩa về mặt sinh thái và môi trường, hay nói cách khác đây là các chức năng môi trường cơ bản gián tiếp hỗ trợ cho hoạt động kinh tế và và lợi ích của mọi người. Ví dụ: một khu rừng bảo vệ lưu vực sông hay tầng ôzone bảo vệ Trái đất khỏi tia cực tím. Tuy nhiên, sự khác nhau giữa giá trị sử dụng trực tiếp và gián tiếp không phải lúc nào cũng rõ ràng.
Giá trị tuỳ chọn là lượng mà mỗi cá nhân sẵn sàng chi trả để bảo tồn nguồn lực hoặc một phần sử dụng nguồn lực đó, để sử dụng cho tương lai. Đây là giá trị do nhận thức, lựa chọn của con người đặt ra trong hệ sinh thái. Giá trị này không có tính thống nhất chung và cũng phải được tính về mặt tiền tệ theo tính chất lựa chọn của nó. Ví dụ, bảo tồn một khu vực tự nhiên là một lựa chọn, cho chúng ta khả năng biến đổi khu vực đó trong tương lai hoặc giữ lại nó, dựa vào những thông tin được thu thập về giá trị tương đối của khu vực tự nhiên.
Giá trị không sử dụng thể hiện các giá trị phi phương tiện nằm trong bản chất của sự vật, không liên quan đến việc sử dụng thực tế hoặc thậm chí việc lựa chọn sự vật này. Tuy nhiên, thay vào đó, những giá trị này thường liên quan nhiều về lợi ích của con người. Giá trị không sử dụng bao gồm:
Giá trị tuỳ thuộc (giá trị để lại) phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong một hàm nhiều biến và có thể có sự thay đổi trên cơ sở phát hiện của khoa học cũng như nhận thức của con người. Một số người biệt hoá giá trị tuỳ thuộc là giá trị của việc để lại các giá trị sử dụng và phi sử dụng cho con cháu. Những người khác đưa cả giá trị tuỳ chọn và giá trị tồn tại vào trong dạng giá trị này.
Giá trị tồn tại xuất phát từ nhận thức của con người về tài nguyên và môi trường mà người ta cho rằng sự tồn tại của một cá thể hay một giống loài nào đó có ý nghĩa về mặt kinh tế không chỉ trước mắt mà kể cả lâu dài buộc người ta phải duy trì giống loài đó bằng mọi giá. Trong việc tính toán giá trị này thì việc xác lập tiền tệ là khó khăn nhưng sự xác lập nhận thức về mặt giá trị rất dễ dàng.
Dưới đây là một ví dụ về tổng giá trị kinh tế của một khu rừng nhiệt đới, từ đó giúp chúng ta hình dung rõ hơn về các hợp phần của TEV.
Rừng nhiệt đới: + Giá trị sử dụng trực tiếp là gỗ, củi, hoa quả và du lịch sinh thái.
+ Giá trị sử dụng gián tiếp là các dịch vụ của hệ sinh thái, ngắm chim, bảo vệ đất, hấp thụ carbon.
+ Giá trị tuỳ chọn là các dược phẩm.
+ Giá trị tồn tại là thưởng thức mà không cần quan tâm đến các chức năng của rừng.
+ Giá trị tuỳ thuộc lợi ích từ gỗ và giải trí để lại cho thế hệ sau.
Như vậy, trong giá trị của một hệ sinh thái ngoài những giá trị trực tiếp và giá trị gián tiếp có thể nhìn thấy thì đối với giá trị tuỳ chọn, giá trị tuỳ thuộc và giá trị tồn tại đòi hỏi chúng ta phải có những cách nhìn nhận hết sức nhạy cảm và linh hoạt, phụ thuộc vào ý nghĩa của những giá trị này đối với con người, đối với hoạt động kinh tế. Đó là lý do các nhà kinh tế học môi trường không ngừng hoàn thiện về phương pháp luận và phương pháp tiếp cận để nhìn một cách toàn diện TEV của một khu rừng, một hệ sinh thái. Từ đó tư vấn chính xác cho các nhà hoạch định chính sách phương án sử dụng hợp lý.
1.2. Vấn đề định giá môi trường
1.2.1. Sự cần thiết phải định giá môi trường
Định giá môi trường là việc sử dụng các công cụ kỹ thuật nhằm lượng hoá giá trị bằng tiền của các hàng hoá chất lượng môi trường để làm cơ sở cho việc hoạch định các chính sách về khai thác, sử dụng và quản lý các hàng hoá môi trường.
Chúng ta nên định giá môi trường vì:
Thứ nhất, chất lượng môi trường thoả mãn vô số nhu cầu của con người như: cung cấp không gian sống và các điều kiện sống, cung cấp tài nguyên thiên nhiên cho các quá trình sản xuất, chứa đựng và hấp thụ chất thải từ quá trình sản xuất và tiêu dùng của con người. Đồng thời, việc phục hồi chất lượng môi trường là do lao động sản xuất của con người (hay hao phí lao động xã hội). Điều đó có nghĩa là chất lượng môi trường thoả mãn hai thuộc tính của hàng hoá là giá trị và giá trị sử dụng. Vì chất lượng môi trường là hàng hoá nên chúng ta cần định giá nó, tránh gây thất bại thị trường.
Thứ hai, trong quá khứ người ta cho rằng tài nguyên và môi trường là dạng “trời cho” hay “thiên nhiên ban tặng” nên người ta khai thác và sử dụng không tính toán và cũng không tính đến những thiệt hại mà hoạt động khai thác gây ra cho môi trường. Việc định giá môi trường là một cách nhắc nhở con người quan tâm và bảo vệ môi trường. Đồng thời, qua định giá cũng đo được tốc độ sử dụng hết các nguồn tài nguyên môi trường và báo hiệu cho con người rằng mức độ khan hiếm ngày càng tăng lên.
Thứ ba, khi định giá được môi trường cũng như những thiệt hại một hoạt động kinh tế gây ra cho môi trường sẽ góp phần tạo công bằng trong việc ra quyết định. Định giá góp phần thực hiện được nguyên tắc “người gây ô nhiễm trả tiền” tức là qua định giá môi trường chúng ta sẽ xác định được đối tượng gây ô nhiễm “phải trả bao nhiêu”.
Thứ tư, khi môi trường đã được định giá tức là các giá trị của nó bao gồm cả giá trị sử dụng và giá trị không sử dụng sẽ được lượng hoá, từ đó sẽ có tính thuyết phục cao hơn trong việc giáo dục nâng cao nhận thức của người dân cũng như có thể chỉ dẫn quá trình thực hiện về