Sau hơn 20 năm đổi mới nền kinh tế đất nước, cùng với sự phát triển nhanh chóng của các ngành kinh tế, lĩnh vực Tài chính- Ngân hàng cũng được điều chỉnh và tập trung phát triển cho phù hợp với yêu cầu thời kỳ mới.Bên cạnh đó, hệ thống các Ngân hàng Thương Mại (NHTM) Việt Nam không ngừng lớn mạnh về mọi mặt, kể cả số lượng, qui mô, nội dung và chất lượng; đã có những đóng góp xứng đáng vào công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế nói chung và quá trình đổi mới, phát triển của các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp và dân doanh nói riêng; thực sự là ngành tiên phong trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế. Đặc biệt trong những năm qua, hoạt động ngân hàng nước ta đã góp phần tích cực huy động vốn, mở rộng vốn đầu tư cho lĩnh vực sản xuất phát triển, tạo điều kiện thu hút vốn nước ngoài để tăng trưởng kinh tế trong nước. Ngành ngân hàng đã xứng đáng là công cụ đắc lực hỗ trợ cho nhà nước trong việc kiềm chế, đẩy lùi lạm phát, ổn định giá cả, bình ổn thị trường và phát triển sản xuất, kích thích tiêu dùng.
Trong hoạt động của ngân hàng thì hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động tạo ra giá trị lớn cho ngân hàng. Hoạt động tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu của hệ thống NHTM ở nước ta hiện nay, chiếm tỷ trọng lớn nhất (trên 60%) trong danh mục tài sản nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất. Do đó, song song với việc tăng trưởng tín dụng, nhiệm vụ đặt ra đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam là phải chú trọng hơn nữa đến việc áp dụng và hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm kiểm soát rủi ro hạn chế các tiêu cực mà các rủi ro này gây ra.
Trước tình hình đó, cộng với những kiến thức có được trong quá trình nghiên cứu thực tập tại chi nhánh Ngânh hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ, tôi quyết định chọn tên đề tài “Chế độ pháp lý nhằm quản lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ” để từ đó có nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của quản lý rủi ro tín dụng đối với sự an toàn và vững mạnh của NHTM nói chung và chi nhánh Ngânh hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ nói riêng
Kết cấu của chuyên đề ngoài lời mở đầu và kết luận gồm 3 phần:
Chương 1: Vấn đề pháp lý chung nhằm quản lý rủi ro tín dụng
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật nhằm quản lý rủi ro tại chi nhánh Ngânh hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngânh hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ nói riêng
63 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1682 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Chế độ pháp lý nhằm quản lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Sau hơn 20 năm đổi mới nền kinh tế đất nước, cùng với sự phát triển nhanh chóng của các ngành kinh tế, lĩnh vực Tài chính- Ngân hàng cũng được điều chỉnh và tập trung phát triển cho phù hợp với yêu cầu thời kỳ mới.Bên cạnh đó, hệ thống các Ngân hàng Thương Mại (NHTM) Việt Nam không ngừng lớn mạnh về mọi mặt, kể cả số lượng, qui mô, nội dung và chất lượng; đã có những đóng góp xứng đáng vào công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế nói chung và quá trình đổi mới, phát triển của các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp và dân doanh nói riêng; thực sự là ngành tiên phong trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế. Đặc biệt trong những năm qua, hoạt động ngân hàng nước ta đã góp phần tích cực huy động vốn, mở rộng vốn đầu tư cho lĩnh vực sản xuất phát triển, tạo điều kiện thu hút vốn nước ngoài để tăng trưởng kinh tế trong nước. Ngành ngân hàng đã xứng đáng là công cụ đắc lực hỗ trợ cho nhà nước trong việc kiềm chế, đẩy lùi lạm phát, ổn định giá cả, bình ổn thị trường và phát triển sản xuất, kích thích tiêu dùng.
Trong hoạt động của ngân hàng thì hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động tạo ra giá trị lớn cho ngân hàng. Hoạt động tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu của hệ thống NHTM ở nước ta hiện nay, chiếm tỷ trọng lớn nhất (trên 60%) trong danh mục tài sản nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất. Do đó, song song với việc tăng trưởng tín dụng, nhiệm vụ đặt ra đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam là phải chú trọng hơn nữa đến việc áp dụng và hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm kiểm soát rủi ro hạn chế các tiêu cực mà các rủi ro này gây ra.
Trước tình hình đó, cộng với những kiến thức có được trong quá trình nghiên cứu thực tập tại chi nhánh Ngânh hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ, tôi quyết định chọn tên đề tài “Chế độ pháp lý nhằm quản lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ” để từ đó có nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của quản lý rủi ro tín dụng đối với sự an toàn và vững mạnh của NHTM nói chung và chi nhánh Ngânh hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ nói riêng
Kết cấu của chuyên đề ngoài lời mở đầu và kết luận gồm 3 phần:
Chương 1: Vấn đề pháp lý chung nhằm quản lý rủi ro tín dụng
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật nhằm quản lý rủi ro tại chi nhánh Ngânh hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngânh hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ nói riêng
CHƯƠNG 1. VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CHUNG NHẰM
QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG
1.1.1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng
1.1.1.1. Khái niệm về hoạt động Tín dụng Ngân hàng
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động Ngân hàng đã có bước phát triển rất nhanh chóng, các dịch vụ Ngân hàng cung cấp ngày càng phong phú, đa dạng và đã mang lại nguồn thu rất lớn cho hệ thống các Ngân hàng, trong các hoạt động đã thì hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chủ yếu tạo ra nguồn lợi nhuận lớn cho Ngân hàng.
Vì vậy theo điều 20.8 Luật các tổ chức Tín dụng 2004 thì hoạt động tín dụng được hiểu là việc các Ngân hàng sử dụng nguồn vốn tự có của mình, để cấp Tín dụng. Việc cấp Tín dụng là công việc chủ yếu của hầu hết các Ngân hàng Thương Mại, là việc các Ngân hàng Thương Mại thoã thuận để các khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh và các dịch vụ khác… Hầu hết các thoã thuận giữa Ngân hàng và các chủ thể khác trong nền kinh tế được thể hiện thông qua các hợp đồng Tín dụng. Các hợp đồng này phải bao gồm các nội dung sau:
Điều kiện vay
Mục đích sử dụng tiền vay
Hình thức vay
Số tiền vay
Lãi suất vay
Thời hạn vay
Hình thức bảo đảm
Giá trị tài sản bảo đảm
Phương thức trả nợ
Các cam kết khác
1.1.1.2. Khái niệm và phân loại tín dụng
Rất nhiều các khái niệm khác nhau về tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên, chung quy lại tín dụng được hiểu là quan hệ vay mượn có hoàn trả vốn và lãi sau một thời gian nhất định giữa ngân hàng với các chủ thể khác trong nền kinh tế (các cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức…). Tín dụng được phân loại theo nhiều tiêu thức:
* Theo thời gian, Tín dụng được phân chia thành
- Tín dụng ngắn hạn: là những khoản vay có thời gian dưới 01 năm để tài trợ cho tài sản lưu động
- Tín dụng trung hạn: là những khoản vay thông thường từ 01 đến 05 năm tài trợ cho các tài sản cố định như máy móc thiết bị
- Tín dụng dài hạn: là những khoản vay từ 5 năm trở lên để tài trợ cho các tài sản cố định có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài.
Nhìn chung, tỷ trọng tín dụng ngắn hạn thường cao hơn tín dụng trung và dài hạn. Vì tín dụng ngắn hạn chủ yếu tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động của khách hàng, hơn nữa Tín dụng ngắn hạn có rủi ro thấp hơn tín dụng trung và dài hạn, độ an toàn cao, Trong khi đó tín dụng trung và dài hạn thì thời gian thu hồi vốn rất dài, thời gian sử dụng vốn lâu…
* Theo hình thức tài trợ:
- Cho vay: Là việc Ngân hàng cho khách hàng vay tiền với cam kết khách hàng phải hoàn trả gốc và lãi trong thời gian xác định. Hầu hết các Ngân hàng Thương Mại thì hình thức cho vay chiếm một tỷ trọng rất lớn trong hoạt động Tín dụng
- Bảo lãnh: Theo điều 20.12 Luật các tổ chức Tín dụng 2004 đã là các cam kết bằng văn bản của Ngân hàng (hay tổ chức Tín dụng khác) với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho Ngân hàng số tiền đã được trả thay.
- Cho thuê: Là việc Ngân hàng bỏ tiền mua các tài sản để cho khách hàng thuê theo sự thoã thuận của hai bên. Có hai hình thức cho thuê đó là cho thuê tài chính và cho thuê nghiệp vụ. Trong đó hình thức cho thuê tài chính là hoạt động chủ yếu trong các hoạt động cho thuê, đây là hoạt động tín dụng trung, dài hạn trên cơ sở các hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là Ngân hàng với các khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê khách hàng có thể mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện thoã thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn cho thuê không được đơn phương huỷ hợp đồng (theo điều 20.1, Luật các tổ chức Tín dụng năm 2004).
* Theo tài sản đảm bảo:
- Tín dụng có tài sản đảm bảo: là việc ngân hàng cho khách hàng vay vốn dựa trên cam kết người nhân tín dụng sẽ dùng tài sản đảm bảo để trả nợ trong một số trường hợp.
- Tín dụng không có tài sản đảm bảo: có thể được cấp cho khách hàng có uy tín, thường là làm ăn thường xuyên có lãi hoặc các khoản vay của các tổ chức lớn hay theo chỉ định của Chính phủ. Ngoài ra, tín dụng ngân hàng còn có nhiều cách phân loại khác nữa. Việc phân loại tín dụng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho ngân hàng trong việc theo dõi rủi ro, lợi nhuận…
1.1.2. Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng
1.1.2.1. Khái niệm, phân loại rủi ro tín dụng
Hoạt động tín dụng là một lĩnh vực hoạt động nhạy cảm và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đặc biệt trước xu thế hội nhập các ngân hàng sẽ phải đối phó với cạnh tranh cũng như nhiều loại hình rủi ro khác. Hơn nữa do nước ta có xuất phát điểm của các ngân hàng khác thấp so với các nước trong khu vực nên việc phải tập trung phát triển và quan tâm đến lợi nhuận được xem là ưu tiên số 1, chúng ta đã bỏ qua các loại hình rủi ro trong hoạt động tín dụng. Những rủi ro này có thể mang những tổn thất nghiêm trọng, đó là lý do tại sao tỉ lệ nợ xấu rất cao, khả năng kiểm soát thì rất thấp. Để hạn chế bớt rủi ro cho hoạt động tín dụng trước hết chúng ta phải hiểu thế nào là rủi ro tín dụng. Có rất nhiều khái niệm về rủi ro tín dụng:
- Theo điều 2.1 quyết định số: 493/2005/QĐ-NHNN, ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thì “rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức Tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức Tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”
- Theo điều 2.1 quyết định số: 165/QĐ-HĐQT, ngày 06/6/2005 của Hội đồng Quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam thì “rủi ro trong hoạt động của các Chi nhánh là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động kinh doanh, do khách hàng không thực hiện, hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết ”
Theo các quyết định này thì rủi ro tín dụng có nghĩa là Ngân hàng cho khách hàng vay, khi đến hạn thanh toán bao gồm cả phần gốc và lãi thi khách hàng không thể trả được hoặc có thể bị trì hoãn. Rủi ro tín dụng được tiến hành phân loại theo các tiêu thức sau:
- Theo cơ cấu các loại hình rủi ro, rủi ro tín dụng đựơc chia thành rủi ro theo khoản vay ngắn, trung và dài hạn
- Theo nguồn gốc hình thành, rủi ro tín dụng được chia thành 3 loại:
+ Rủi ro từ phía người cho vay: là những rủi ro do chính sách của Ngân hàng, việc nghiên cứu, dự báo, theo dõi, xử lý rủi ro tín dụng, cán bộ tín dụng, công tác kiểm tra, kiểm soát kém.
+ Rủi ro từ phía người vay: Đây là loại rủi ro chủ yếu trong các loại rủi ro tín dụng
Ví dụ: Rủi ro vì khả năng Tài chính yếu kém, rủi ro trong hoạt động kinh doanh…
+ Rủi ro từ các nguyên nhân khác: Đó là các rủi ro liên quan tới các khâu quản lý của Ngân hàng Nhà nước; chế độ chính sách; môi trường; các biến động bất thường trong nền kinh tế…
1.1.2.2. Tác động của rủi ro tín dụng:
Rủi ro trong hoạt động tín dụng có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của ngân hàng cũng như nó tác động rất mạnh mẽ tới các hoạt động của nền kinh tế. Đó là các tác động rất xấu, thể hiện ở các khía cạnh sau:
* Rủi ro làm suy giảm uy tín của ngân hàng:
Một ngân hàng có rủi ro lớn là một ngân hàng hoạt động không có hiệu quả, tình hình đó sẽ được báo chí nêu làm cho dân chúng thiếu lòng tin và như vậy khó lòng có thể huy động được nguồn vốn dồi dào. Các ngân hàng vì thế mà lánh xa, không cấp các hạn mức tín dụng, không mở quan hệ đại lý…
* Rủi ro làm cho khả năng thanh toán của ngân hàng giảm sút:
Các khoản tín dụng có rủi ro khiến cho việc hoàn trả gặp khó khăn, trong lúc đó các khoản tiền gửi, tiền tiết kiệm của của dân cư vẫn phải thanh toán đúng kỳ hạn, trong lúc không huy động được nguồn vốn dồi dào do mất uy tín, cũng vì thế người rút tiền thấy tình trạng của Ngân hàng như thế lại rút tiền càng tăng lên, kết quả là Ngân hàng gặp khó khăn trong khâu thanh toán.
* Rủi ro đưa đến kết quả là lợi nhuận suy giảm:
Do rủi ro đưa đến nhiều mất mát thiệt hại về tài chính, thêm vào đó là quá trình mở rộng hoạt động gặp khó khăn bế tắc, thu nhập kết quả là giảm sút lợi nhuận.
* Rủi ro có thể dẫn tới phá sản:
Nếu những tác động của rủi ro trên 3 phương diện nêu trên không được ngăn chặn và cứ phát triển đến một mức độ nào đó sẽ đẩy ngân hàng đến chỗ phá sản
1.1.2.3. Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
Các chuyến thăm khách hàng thường xuyên là cách tốt nhất để phát hiện nhanh chóng những dấu hiệu này. Những chuyến thăm luôn phải có việc kiểm tra tình hình thực tế và sổ sách của khách hàng. Sau đây là một số dấu hiệu thường thấy từ phía khách hàng cần được kiểm tra:
* Từ báo cáo tài chính:
- Ngân hàng không nhận được cáo báo cáo tài chính từ người vay một cách kịp thời.
- Tiền mặt của khách hàng giảm
- Khả năng thanh khoản/vốn lưu động giảm
- Những thay đổi nhanh chóng của tài sản cố định
- Xuất hiện những khoản nợ mà công ty vay hoặc cho vay cán bộ hoặc cổ đông của công ty.
- Doanh số bán hàng giảm hoặc gia tăng một cách nhanh chóng
- Mức độ chênh lệch lớn giữa tổng doanh thu và doanh thu ròng
- Doanh thu tăng nhưng lợi nhuận giảm
- Xuất hiện các khoản lỗ từ hoạt động kinh doanh
* Từ hoạt động kinh doanh:
- Thay đổi về phạm vi kinh doanh
- Mất những dây chuyền sản xuất chính, quyền phân phối sản phẩm hoặc nguồn cung cấp.
- Mất một hay nhiều khách hàng có năng lực tài chính tốt hoặc nhà cung ứng chính
- Sự thay đổi đáng kể về giá trị của đơn đặt hàng hoặc hợp đồng mà có thể làm mất năng lực sản xuất hiện hành
* Những dấu hiệu liên quan đến giao dịch ngân hàng:
- Số dư tài khoản tại ngân hàng giảm
- Xuất hiện khoản nợ quá hạn
- Đặt niềm tin nhiều vào các khoản nợ ngắn hạn
- Xin gia hạn nhiều lần hoặc đảo nợ nhiều lần
- Xuất hiện các khoản vay có nhiều nguồn trả nợ (như theo đề nghị vay vốn) nhưng không dễ dàng nhận thấy chúng.
- Công tác kế hoạch hoá tài chính cho các nhu cầu về tài sản cố định hoặc về vốn lưu động thể hiện sự đơn giản và kém cỏi.
* Những dấu hiệu liên quan đến quản trị công ty:
- Báo cáo và quản lý tài chính kém cỏi
- Các chức năng điều hành và phân công xử lý công việc thể hiện một sự chắp vá
- Mong muốn hoặc khăng khăng đòi “đánh bạc” với kinh doanh có những rủi ro quá mức.
- Đặt giá bán hàng hoá và dịch vụ một cách không thực tế
- Những thay đổi trong quản lý, quyền sở hữu hoặc những nhân vật chủ chốt
- Chậm trễ trong việc phản ứng lại với sự đi xuống của thị trường hoặc các điều kiện kinh tế
Tuy nhiên, khi khách hàng có một trong những dấu hiệu trên thì không đáng kể. Nhưng khi một số dấu hiệu xảy ra đồng thời thì cán bộ cần xem xét, đánh giá kỹ để có thể hạn chế và giảm thiểu tác động của rủi ro tín dụng
1.1.2.4. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng:
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng. Thông thường, người ta phân rủi ro tín dụng thành ba nhóm: nguyên nhân thuộc về ngân hàng, nguyên nhân thuộc về người vay, nguyên nhân khác.
1.1.2.4.1. Nguyên nhân thuộc về ngân hàng:
Thứ nhất: Sự yếu kém của đội ngũ cán bộ. Sự yếu kém ở đây bao gồm cả về năng lực và phẩm chất đạo đức. Nếu một cán bộ tín dụng non kém về trình độ, thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm thì sẽ không có khả năng thẩm định và xử lý thông tin, đánh giá khách hàng thiếu chính xác, mức vay,lãi suất vay và kỳ hạn không phù hợp; dẫn đến chất lượng tín dụng thấp, rủi ro cao. Ngoài ra, nếu cán bộ tín dụng không tuân thủ theo đúng quy trình tín dụng như giải ngân trước khi hoàn thành chứng từ hay không kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn của người vay, thì việc mất vốn rất dễ xảy ra. Hơn nữa, cán bộ tín dụng mà phẩm chất đạo đức kém, không có tinh thần trách nhiệm, dễ bị cám dỗ thì sẽ gây thiệt hại rất lớn cho ngân hàng bằng cách cho vay chỉ dựa trên mối quan hệ với khách hàng, dựa trên lợi ích cá nhân mà bỏ qua những điều kiện và thủ tục cần thiết.
Thứ hai: Sự giám sát của các cấp quản lý trong ngân hàng là thiếu sát sao. Cán bộ tín dụng cần có sự phê duyệt của lãnh đạo trước khi giải ngân. Vậy nên nếu cấp trên không có sự kiểm tra, đánh giá xem quyết định của cán bộ đã thực sự chính xác chưa thì nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ là rất cao. Hơn nữa, sau khi giải ngân rồi, cán bộ tín dụng vẫn phải tiếp tục theo dõi khách hàng để sớm phát hiện ra dấu hiệu của những khoản nợ có vấn đề. Tuy nhiên, việc theo dõi này đối với nhiều cán bộ chỉ mang tính hình thức. Do vậy, nếu các cấp quản lý không có sự giám sát đối với cán bộ tín dụng, hoạt động của các cán bộ tín dụng sẽ không hiệu quả, thậm chí dẫn đến những sai phạm đạo đức trong cho vay và thu nợ. Ngoài ra, các cơ quan cấp trên không quan tâm đến thực trạng tín dụng của ngân hàng thì sẽ không có những chỉ đạo kịp thời để ngăn ngừa và xử lý rủi ro xảy ra.
Thứ ba: Ngân hàng chưa đa dạng hoá các danh môc đầu tư. Một công cụ luôn được nhắc đến trong quản trị tín dụng ở tất cả các ngân hàng trên thế giới là quản trị danh môc đầu tư. Quản trị danh môc làm cân đối và kiềm chế rủi ro bằng cách nhận dạng, dự báo và kiểm soát mức độ rủi ro với từng thị trường, khách hàng, loại sản phẩm tín dụng và điều kiện hoạt động khác nhau. Nhiều chuyên gia ngân hàng tin rằng đa dạng hoá là giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng hữu hiệu nhất. Mặc dù hiểu rõ tầm quan trọng của việc đa dạng hoá danh môc đầu tư, song rất nhiều ngân hàng chỉ cho vay một hoặc hai ngành hoặc chỉ cho vay một vài doanh nghiệp lớn, nhóm kinh doanh đơn lẻ. Một danh môc đầu tư phụ thuộc chủ yếu vào một ngành hay một loại mặt hàng là rất nguy hiểm vì không ngành nào là không có rủi ro.
Thứ tư: Định giá khoản vay không theo mức độ rủi ro của khách hàng. Về cơ cấu, lãi suất cho một khoản vay phải được xác định ở mức đảm bảo bù đắp được chi phí vốn đầu vào, chi phí quản lý, phần lợi nhuận mong muốn và phần bù đắp rủi ro của khoản vay. Khách hàng được đánh giá có mức độ rủi ro càng cao, phần bù rủi ro càng lớn. Nhưng vì cạnh tranh nên một số ngân hàng có thể chấp nhận mức giá cho vay thấp, thậm chí chỉ đủ chi phí vốn đầu vào và chi phí quản lý, không tính đến phần bù rủi ro. Việc làm đó trong dài hạn không những làm giảm lợi nhuận mà còn làm tăng tính rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
1.1.2.4.2. Nguyên nhân thuộc về người vay:
Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro tín dụng, có thể chia nhóm này thành hai loại chính:
Thứ nhất: Do khách hàng kinh doanh thua lỗ nên mất khả năng trả nợ. Trường hợp này rất phổ biến do khách hàng có trình độ yếu kém trong dự đoán các vấn đề kinh tế, yếu kém trong năng lực quản lý, sử dụng vốn sai môc đích, sản phẩm chất lượng thấp không bán được... Hơn nữa có rất nhiều người vay sẵn sàng lao vào những cơ hội kinh doanh mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, mà không tính toán kỹ hoặc không có khả năng tính toán những bất trắc có thể xảy ra nên khả năng xảy ra tổn thất với ngân hàng là rất lớn.
Thứ hai: Do khách hàng cố tình chiếm dụng vốn của ngân hàng. Để đạt được môc đích thu được lợi nhuận, nhiều khách hàng sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn để ứng phó với ngân hàng như mua chuộc hoặc cung cấp các báo cáo tài chính sai lệch. Trong trường hợp này, nếu không phát hiện ra, ngân hàng sẽ đánh giá sai về khả năng tài chính của khách và cho vay vốn với khối lượng và thời hạn không hợp lý, dẫn đến rủi ro tiềm ẩn là rất cao. Ngoài ra, cũng có những trường hợp người kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn mà cố tình kéo dài với ý định không trả nợ hoặc tiếp tục sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
1.1.2.4.3. Nguyên nhân khác:
Những nguyên nhân này phần lớn xuất hiện từ môi trường xung quanh như chất lượng thông tin, biến động kinh tế, chính sách pháp luật…
Thứ nhất: Chất lượng thông tin chưa cao. Các thông tin mà ngân hàng thu thập thường liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính của khách hàng, tình hình kinh tế xã hội, cạnh tranh trên thị trường; sau đó dựa vào các thông tin thu thập được để ra quyết định cho vay. Tuy nhiên, trên thực tế thì không phải lúc nào các thông tin ngân hàng thu thập được đều có tính chính xác, đầy đủ và kịp thời. Do vậy, nếu hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng không hoạt động có hiệu quả, cập nhật được những thông tin đáng tin cậy thì tất yếu dẫn đến việc ngân hàng thất thoát vốn khi cho vay.
Thứ hai: Những biến động kinh tế không dự báo được. Khi nền kinh tế ổn định, tăng trưởng lành mạnh thì nhu cầu đầu tư trong xã hội có xu hướng gia tăng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, khi xuất hiện những biến động kinh tế như lạm phát, giá tăng ở một số mặt hàng nào đó ảnh hưởng đến một nhóm ngành thì rủi ro tín dụng với ngân hàng là rất lớn. Nhiều người vay có thể thích ứng và vượt qua khó khăn đó, nhưng cũng có rất nhiều người bị đình trệ hoạt động sản xuất, kinh doanh thua lỗ nên khả năng trả nợ vốn vay ngân hàng không được đảm bảo.
Thứ ba: Sự thay đổi trong các chính sách kinh tế, pháp luật. Sự thiếu nhất quán trong các chính sách kinh tế pháp luật cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới ngân hàng cũng như như các doanh nghiệp có sử dụng vốn vay ngân hàng. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ không ổn định khi có những thay đổi trong quy định về thuế, vốn..,cũng như hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng bị tác động nhiều bởi những văn bản luật về tài sản đảm bảo, dự trữ, trích lập… Như vậy, các chính sách kinh tế, pháp luật không hoàn chỉnh cũng gây khó khăn có doanh nghiệp về khả năng trả nợ, cũng như đe doạ đến sự an toàn của ngân hàng trong cho vay
1.1.2.5. Nhân tố ảnh hưởng tới hạn chế rủi ro tín dụng
Như đã phân tích ở trên, rủi ro tín dụng luôn đi đôi với hoạt động kinh doanh ngân hàng. Do vậy, ngân hàng chỉ có thể đưa ra các biện pháp ngăn ngừa để giảm khả năng xảy ra hoặc giảm tổn thất do rủi ro tín dụng gây nên mà không thể loại trừ. Tuy nhiên, việ