1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập và phát triển kinh tế, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn góp phần nâng cao vị thế của đất nước trong khu vực cũng như trên trường quốc tế. Góp phần không nhỏ vào việc đưa Việt Nam đạt được những thành tựu đáng kể đó là sự nỗ lực hết mình của các cá nhân, doanh nghiệp trong việc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Trong đó, hệ thống ngân hàng thương mại giữ một vai trò quan trọng, có ý nghĩa chiến lược trong sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam.
Nói đến hoạt động ngân hàng, phải nói đến một hoạt động chủ yếu, mang lại lợi nhuận rất cao là hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, đây cũng chính là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Một trong những nguyên nhân chính làm tăng rủi ro tín dụng chính là việc thực hiện chưa tốt công tác bảo đảm tiền vay. Vấn đề này được đề cập rất nhiều trong các văn bản quy định pháp luật của Việt Nam. Tuy nhiên, ngay trong bản thân những văn bản này vẫn còn tồn tại nhiều quy định chồng chéo, gây lung túng trong việc áp dụng pháp luật cho các chủ thể.
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn kinh doanh cũng như góp phần nghiên cứu phát triển lý luận về vấn đề bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam cùng với những thực tế có được trong quá trình thực tập tại Ngân hàng VPBank – Chi nhánh Đông Đô, tôi đã quyết định chọn đề tài : “Chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay và thực tiễn áp dụng tại ngân hàng VPBank – Chi nhánh Đông Đô” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Chuyên đề tập trung vào việc nghiên cứu chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay và thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng VPBank – Chi nhánh Đông Đô, căn cứ trên số liệu thực tế giai đoạn 2006 – 2010 và xu hướng phát triển của hoạt động này trong những năm tiếp theo.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu: Chuyên đề tập trung nghiên cứu các vấn đề:
- Cơ sở lý luận về chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín dụng.
- Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng VPBank – Chi nhánh Đông Đô.
- Nguyên nhân của những tồn tại trong hoạt động bảo đảm tiền vay và đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng VPBank.
Trên cơ sở những mục tiêu đề ra, chuyên đề xác định các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín dụng.
- Tìm hiểu và đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng VPBank – Chi nhánh Đông Đô.
- Đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong hoạt động bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng VPBank trong giai đoạn hiện nay nhằm tìm ra nguyên ngân và đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay tại ngân hàng trong giai đoạn tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp nghiên cứu tài liệu, khảo sát và điều tra thực tế.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mục lục, danh mục viết tắt, danh mục sơ đồ, bảng biểu, phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề được chia làm ba chương:
Chương 1: Chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín dụng
Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng VPBank – Chi nhánh Đông Đô.
Chương 3. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng VPBank
101 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1983 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay và thực tiễn áp dụng tại ngân hàng VPBank chi nhánh Đông Đô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập và phát triển kinh tế, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn góp phần nâng cao vị thế của đất nước trong khu vực cũng như trên trường quốc tế. Góp phần không nhỏ vào việc đưa Việt Nam đạt được những thành tựu đáng kể đó là sự nỗ lực hết mình của các cá nhân, doanh nghiệp trong việc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Trong đó, hệ thống ngân hàng thương mại giữ một vai trò quan trọng, có ý nghĩa chiến lược trong sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam.
Nói đến hoạt động ngân hàng, phải nói đến một hoạt động chủ yếu, mang lại lợi nhuận rất cao là hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, đây cũng chính là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Một trong những nguyên nhân chính làm tăng rủi ro tín dụng chính là việc thực hiện chưa tốt công tác bảo đảm tiền vay. Vấn đề này được đề cập rất nhiều trong các văn bản quy định pháp luật của Việt Nam. Tuy nhiên, ngay trong bản thân những văn bản này vẫn còn tồn tại nhiều quy định chồng chéo, gây lung túng trong việc áp dụng pháp luật cho các chủ thể.
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn kinh doanh cũng như góp phần nghiên cứu phát triển lý luận về vấn đề bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam cùng với những thực tế có được trong quá trình thực tập tại Ngân hàng VPBank – Chi nhánh Đông Đô, tôi đã quyết định chọn đề tài : “Chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay và thực tiễn áp dụng tại ngân hàng VPBank – Chi nhánh Đông Đô” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Chuyên đề tập trung vào việc nghiên cứu chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay và thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng VPBank – Chi nhánh Đông Đô, căn cứ trên số liệu thực tế giai đoạn 2006 – 2010 và xu hướng phát triển của hoạt động này trong những năm tiếp theo.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu: Chuyên đề tập trung nghiên cứu các vấn đề:
- Cơ sở lý luận về chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín dụng.
- Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng VPBank – Chi nhánh Đông Đô.
- Nguyên nhân của những tồn tại trong hoạt động bảo đảm tiền vay và đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng VPBank.
Trên cơ sở những mục tiêu đề ra, chuyên đề xác định các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín dụng.
- Tìm hiểu và đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng VPBank – Chi nhánh Đông Đô.
- Đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong hoạt động bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng VPBank trong giai đoạn hiện nay nhằm tìm ra nguyên ngân và đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay tại ngân hàng trong giai đoạn tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp nghiên cứu tài liệu, khảo sát và điều tra thực tế...
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mục lục, danh mục viết tắt, danh mục sơ đồ, bảng biểu, phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề được chia làm ba chương:
Chương 1: Chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín dụng
Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng VPBank – Chi nhánh Đông Đô.
Chương 3. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng VPBank
CHƯƠNG I
CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
1. Khái niệm và vai trò của hoạt động tín dụng
1.1. Khái niệm hoạt động tín dụng
Trên thực tế, thuật ngữ “tín dụng” được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau nhưng phổ biến nhất là chỉ quan hệ vay mượn, chuyển giao tài sản giữa bên cho vay và bên đi vay.
Trong đời sống xã hội, tín dụng do nhiều loại chủ thể thực hiện. Tuỳ thuộc vào chủ thể cung ứng tín dụng mà tín dụng có thể chia thành các loại như: tín dụng nhà nước, tín dụng quốc tế,, tín dụng hợp tác, tín dụng ngân hàng…
Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn giữa ngân hàng với tất cả các cá nhân, tổ chức và các doanh nghiệp khác trong xã hội. Nó không phải là quan hệ dịch chuyển vốn trực tiếp từ nơi tạm thời thừa sang nơi tạm thời thiếu mà là quan hệ dịch chuyển vốn gián tiếp thông qua một tổ chức trung gian, đó là ngân hàng. Tín dụng ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng đó là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định theo thỏa thuận, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn và là quan hệ bình đẳng cả hai bên đều có lợi.
Hoạt động tín dụng được quy định trong Luật Các Tổ chức tín dụng (TCTD) 1997 từ Điều 49 đến Điều 64. Mục này quy định những vấn đề chung nhất liên quan đến hoạt động tín dụng như việc thiết lập một quan hệ tín dụng thông qua hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng thuê tài chính, nêu ra các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ tín dụng.
Theo định nghĩa tại khoản 8, khoản 10 Điều 20 Luật Các TCTD thì “Hoạt động tín dụng là việc TCTD sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng”.
“Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”.
Như vậy hoạt động tín dụng là hoạt động mà TCTD sử dụng nguồn vốn tự có hoặc nguồn vốn huy động để thực hiện việc cấp tín dụng với các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
1.2. Vai trò hoạt động tín dụng
Trong hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam hiện nay, hoạt động tín dụng là một nghiệp vụ truyền thống, nền tảng, chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu tài sản và cơ cấu thu nhập. Tuy nhiên, đây cũng là hoạt động phức tạp, tiềm ẩn những rủi ro lớn cho các NHTM. Tín dụng trong điều kiện trong nền kinh tế mở, cạnh tranh và hội nhập vẫn tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong kinh doanh ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là công cụ tích tụ và tập trung vốn rất quan trọng, từ đó giúp cho việc tích tụ và tập trung sản xuất.
Tín dụng ngân hàng tập trung các khoản tín dụng nhỏ lẻ thành các khoản vốn lớn, tạo điều kiện cho các chủ thể đi vay huy động được vốn lớn để thực hiện đầu tư, mở rộng sản xuất, rút ngắn thời gian tích lũy vốn. Như vậy, tín dụng đóng vai trò tích cực thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Thông qua tín dụng ngân hàng, các doanh nghiệp nhận được khối lượng vốn bổ sung rất lớn. Từ đó các doanh nghiệp có thể tăng quy mô sản xuất, đổi mới thiết bị, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao động, tăng khả năng cạnh tranh. Điều này giúp các doanh nghiệp lớn có điều kiện phát triển tốt hơn nhưng cũng có thể khiến một số doanh nghiệp nhỏ phải lâm vào tình trạng phá sản. Muốn tồn tại, các doanh nghiệp nhỏ phải liên kết với nhau để tăng khả năng cạnh tranh. Như vậy, tín dụng đã góp phần thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất.
Tín dụng ngân hàng giúp cho việc điều hòa nguồn vốn góp phần ổn định thị trường tiền tệ, phát triển cân đối các ngành trong nền kinh tế quốc dân, và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thông qua hoạt động tín dụng mà nguồn vốn dịch chuyển từ nơi thừa đến nơi thiếu, làm cho xã hội bớt lãng phí ở những nơi thừa vốn, giảm khó khăn ở những nơi thiếu vốn, làm tăng hiệu quả sử dụng vốn, góp phần làm cho tốc độ luân chuyển hàng hóa và tiền vốn tăng lên, tạo sự phát triển đồng đều trong các ngành.
Việc điều hòa nguồn vốn, đồng thời thông qua điều chỉnh khung lãi suất phù hợp giúp cho chính sách tiền tệ của Chính phủ được thực hiện, điều hòa lưu thông tiền tệ góp phần ổn định tiền tệ và sự phát triển lành mạnh của thị trường tài chính tiền tệ.
Bên cạnh đó, thông qua hoạt động tín dụng, Chính phủ có những chính sách ưu tiên hỗ trợ phát triển các vùng, miền hay các ngành then chốt, trọng điểm nhờ vào việc đưa ra các ưu đãi tín dụng… Do vậy đã kích thích, thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư vào các vùng, ngành trọng điểm trong diện ưu tiên của Chính phủ, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo sự phát triển cân đối trong cả nước.
Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng trưởng kinh tế.
Đặc trưng cơ bản nhất của tín dụng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả và có lợi tức, nhờ đó kích thích việc sử dụng vốn có hiệu quả. Khi sử dụng vốn vay ngân hàng, doanh nghiệp phải trả nợ gốc- lãi vay đúng hạn và tôn trọng các điều kiện khác đã ghi trong hợp đồng tín dụng. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng vòng quay của vốn tạo điều kiện nâng cao lợi nhuận.
Tín dụng tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế với nước ngoài, là phương tiện nối liền kinh tế trong nước với kinh tế nước ngoài.
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế ngày nay, tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện nối liền nền kinh tế các nước với nhau. Đối với các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng, tín dụng đóng vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu hàng hóa, đồng thời nhờ nguồn tín dụng bên ngoài để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế.
2. Hợp đồng tín dụng
2.1. Khái niệm hợp đồng tín dụng
“Hợp đồng tín dụng là sự thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ những điều kiện do luật định (bên vay), theo đó tổ chức tín dụng thoả thuận ứng trước một số tiền cho bên vay sử dụng trong một thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả cả gốc lẫn lãi, dựa trên sự tín nhiệm”
Về bản chất, hợp đồng tín dụng là hợp đồng vay tài sản, theo đó thiết lập quan hệ giữa bên vay và bên cho vay mối quan hệ về vay tài sản và thanh toán tài sản nợ. Điều 471, Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Hợp đồng vay tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định”. Tuy nhiên, Trong hợp đồng tín dụng luôn có sự tồn tại của một TCTD đóng vai trò là một bên trong giao kết. Do vậy, hợp đồng tín dụng không phải là một hợp đồng vay tài sản đơn thuần hợp đồng tín dụng được giao kết theo những nguyên tắc riêng so với hợp đồng vay tài sản thông thường.
Luật các TCTD năm 1997 (được sửa đổi, bổ sung năm 2004) và các quy định trong các văn bản pháp luật ở Việt Nam về tín dụng ngân hàng không đưa ra khái niệm pháp lý về hợp đồng tín dụng (HĐTD). Điều 51 Luật các TCTD 1997 (được sửa đổi, bổ sung năm 2004) quy định: “HĐTD phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng tiền vay, hình thức vay, số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thoả thuận”.
So với các loại hợp đồng khác, HĐTD có các dấu hiệu đặc trưng sau:
Thứ nhất, trong HĐTD, TCTD với tư cách là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ đóng vai trò là bên cho vay. Khi tham gia quan hệ HĐTD, TCTD được tổ chức theo hình thức luật định, thực hiện hành vi cho vay mang tính chuyên nghiệp. Đây cũng là dấu hiệu để phân biệt HĐTD với hợp đồng vay tài sản trong các giao dịch dân sự thông thường. Đó là, một bên tham gia HĐTD bao giờ cũng là TCTD có đủ các điều kiện do luật định, với tư cách là bên cho vay còn bên kia có thể là tổ chức, cá nhân thỏa mãn những điều kiện vay vốn do pháp luật quy định.
Thứ hai, quan hệ HĐTD là loại quan hệ kéo dài về mặt thời gian, bên cho vay chỉ có thể đòi tiền bên vay sau một thời hạn nhất định theo thỏa thuận. Chính tính kéo dài về mặt thời gian của quan hệ HĐTD tạo ra sự tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao trong việc thu hồi vốn cho vay của TCTD. Nếu thời gian càng dài thì nguy cơ càng lớn. Vì lý do đó mà tranh chấp phát sinh từ HĐTD thường xảy ra với tỷ lệ lớn hơn so với các loại hợp đồng dân sự hay kinh doanh thương mại khác. Do vậy, trong HĐTD thường phải đi kèm các biện pháp bảo đảm để giảm nguy cơ rủi ro cho bên cho vay.
Thứ ba, hoạt động của TCTD là nhằm mục đích thu lợi nhuận nên HĐTD luôn có điều khoản quy định về lãi suất. Lãi suất này không được cao hơn mức lãi suất trần do Ngân hàng nhà nước quy định đối với từng loại vay tương ứng. Trong khi đó, hợp đồng vay tài sản không đòi hỏi phải có lãi suất (các bên thỏa thuận - Điều 471 Bộ Luật dân sự (BLDS) 2005). Việc hướng tới lợi nhuận khi xác lập quan hệ HĐTD xuất phát từ lợi ích của TCTD, từ người gửi tiền và từ lợi ích của xã hội.
2.2. Giao kết hợp đồng tín dụng
2.2.1. Chủ thể của hợp đồng tín dụng
Chủ thể của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng gốm một bên là các TCTD, có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật với tư cách là bên cho vay và một bên là bên vay, có thể là cá nhân, tổ chức thỏa mãn điều kiện vay vốn. Như vậy, trong hợp đồng tín dụng ngân hàng một bên chủ thể phải là ngân hàng (thường đóng vai trò bên cho vay), còn chủ thể kia là các pháp nhân, thể nhân ( thường đóng vai trò bên đi vay) có đủ các điều kiện vay vốn.
a. Bên cho vay
Theo Điều 12 Luật các TCTD 1997, sửa đổi bổ sung năm 2004, quy định về các loại hình TCTD:
“1. TCTD được thành lập theo pháp luật Việt Nam bao gồm TCTD nhà nước, TCTD cổ phần, TCTD hợp tác, TCTD liên doanh, TCTD 100% vốn nước ngoài.
2. TCTD nước ngoài được mở chi nhành ngân hàng nước ngoài và văn phòng đại diện tại Việt Nam.
3. TCTD nước ngoài góp vốn, mua cổ phần của TCTD hoạt động tại Việt Nam theo quy định của Chính phủ.”
Trong hoạt động tín dụng ngân hàng, các loại ngân hàng sau đây có thể là người cho vay trong các quan hệ tín dụng Ngân hàng:
- Ngân hàng Nhà nước: Là người cho vay trong quan hệ với các tổ chức tín dụng và kho bạc nhà nước.
- Ngân hàng Thương mại: Là người cho vay trong quan hệ với các pháp nhân kinh tế và thể nhân kinh doanh.
b. Bên đi vay
Như đã nói ở trên, chủ thể đi vay cần phải đáp ứng đủ các điều kiện vay vốn theo quy định của pháp luật. Theo khoản 2 Điều 2 Quyết định số 284/2000/QĐ-NHNN ban hành ngày 25/08/2000 về quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng thì chủ thể đi vay bao gồm:
- Các pháp nhân: Bao gồm doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nưứoc ngoàivà các tổ chức khác có đủ các điều kiện quy định tại Điều 94 của Bộ luật Dân sự ;
- Cá nhân;
- Hộ gia đình;
- Tổ hợp tác
- Doanh nghiệp tư nhân
- Công ty hợp danh
Ngoài ra, tại Khoản 2 Điều 2 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 quy định chủ thể đi vay vốn, ngoài quy định giống như Khoản 2 Điều 2 Quyết định 284/2000/QĐ-NHNN1 còn bao gồm cả cá nhân và pháp nhân nước ngoài
Theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng nhà nước ngày 31/12/2001 ban hành quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng (đã được sửa đổi bởi các quyết định số 127/2005 và quyết định số 783/2005 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước):
“TCTD xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện sau:
1. Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật:
a) Đối với khách hàng vay là tổ chức và cá nhân Việt Nam:
- Tổ chức phải có năng lực pháp luật dân sự;
- Cá nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
- Đại diện của hộ gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
- Đại diện của tổ hợp tác phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
- Thành viên hợp danh của công ty hợp danh phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
b) Đối với khách hàng vay là tổ chức và cá nhân nước ngoài phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật của nước mà tổ chức đó có quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân, nếu pháp luật nước ngoài đó được Bộ Luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
3. Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
4. Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả.
5. Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.”
Như vậy, các chủ thể cho vay và đi vay cần phải đáp ứng những điều kiện do pháp luật quy định. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo lợi ích chính đáng của các bên tham gia quan hệ HĐTD.
2.2.2. Nội dung của hợp đồng tín dụng
Nội dung của hợp đồng tín dụng là tổng thể những điều khoản do các bên có đủ tư cách chủ thể tham gia cam kết với nhau một cách tự nguyện, bình đẳng phù hợp với pháp luật. Theo quy định tại điều 51 Luật Các TCTD 1997 sửa đổi bổ sung năm 2004: “Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng tiền vay, hình thức vay, số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thỏa thuận”
Như vậy, nội dung của HĐTD phải bao gồm các điều khoản cụ thể như sau:
- Điều khoản về đối tượng trong hợp đồng: Trong điều khoản này, các bên phải thoả thuận về số tiền vay, lãi suất cho vay, tổng số tiền phải trả khi HĐTD đáo hạn. Trong hợp đồng tín dụng luôn có một tỷ lệ phần trăm (%) tiền lãi nhất định. Số tiền lãi này bao gồm: lãi suất vay trong hạn (đúng kỳ hạn mà hai bên thoả thuận, tỷ lệ % tiền lãi vay trong hạn thường thấp hơn tỷ lệ % tiền lãi vay quá hạn) và lãi suất vay quá hạn. Tỷ lệ % tiền lãi được tính theo mức lãi suất tương đương mức lãi suất trần do Ngân hàng nhà nước quy định đối với từng loại vay tương ứng.
- Điều khoản về điều kiện vay vốn: Khi thoả thuận điều khoản này, các bên cần ghi rõ trong HĐTD những điều kiện cụ thể mà bên vay phải thoả mãn thì HĐTD mới có hiệu lực. Chẳng hạn, bên vay phải có năng lực chủ thể; có khả năng tài chính bảo đảm hoàn trả nợ vay đúng thời hạn; có phương án sử dụng vốn vay khả thi và hiệu quả, các biện pháp bảo đảm tín dụng được áp dụng…
- Điều khoản về phương thức thanh toán tiền vay: Đây là một điều khoản rất quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến việc thu hồi vốn và lãi cho vay. Vì thế, các bên phải thoả thuận rõ số tiền vay sẽ được hoàn trả dần hàng tháng hay là trả toàn bộ một lần khi hợp đồng vay đáo hạn.
- Điều khoản về thời hạn sử dụng vốn vay: Các bên phải ghi rõ trong HĐTD về ngày tháng, năm trả tiền, hoặc phải trả tiền sau bao lâu kể từ ngày ký hợp đồng. Nếu có thể gia hạn hợp đồng thì các bên cũng dự liệu trước về khả năng này trong HĐTD, còn thời gian gia hạn sẽ tiến hành thoả thuận sau trong quá trình thực hiện HĐTD.
- Điều khoản về mục đích sử dụng tiền vay: Trong điều khoản này, các bên cần ghi rõ vốn vay sẽ được sử dụng vào mục đích gì (ví dụ, mua vật tư hàng hoá để kinh doanh hay mua hàng hoá để tiêu dùng, mua nhà để ở…).
- Điều khoản về giải quyết tranh chấp của HĐTD: Hợp đồng tín dụng vốn chứa đựng nguy cơ rủi ro rất lớn cho quyền lợi của bên cho vay. Đó là do theo cam kết trong hợp đồng tín dụng, bên cho vay chỉ có thể đòi tiền của bên vay sau một thời hạn nhất định. Nếu thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro càng lớn.Vì thế mà các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng cũng thường xảy ra với số lượng và tỷ lệ lớn hơn so với đa số các loại hợp đồng. Bởi vậy, các điều khoản về giải quyết tranh chấp cần được hai bên thoả thuận cụ thể và ghi rõ trong hợp đồng.
2.2.3 Thực hiện hợp đồng tín dụng
Giao kết HĐTD là một quá trình mang tính chất nghiệp vụ - pháp lý do các bên thực hiện theo một trình tự luật định. Việc giao kết hợp đồng bao gồm các giai đoạn chủ yếu sau:
Bước 1: Đề nghị giao kết HĐTD
Khi có nhu cầu vay vốn, các tổ chức, cá nhân phải gửi cho TCTD giấy đề nghị vay vốn (đơn xin vay vốn) và các tài liệu chứng minh có đủ điều kiện vay vốn, báo cáo tài chính, mục đích vay vốn, phương án kinh doanh khả thi… Theo Điều 7 QĐ 1627/2001/QĐ-NHNN quy định về điều kiện vay vốn:
“Tổ chức tín dụng xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện sau:
1. Có năng lực pháp luật dân sự