Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại 
thế giới WTO. Đối với các ngân hàng trong nước, đặc biệt là các ngân hàng 
thương mại cổ phần, hội nhập mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng có không ít 
gian nan, thách thức. Làm thế nào để để tận dụng tốt các cơ hội cũng như 
vượt qua các thách thức để phát triển là một bài toán khó đặt ra cho các ngân 
hàng.
So với các ngân hàng nước ngoài đã và sắp có mặt trên thị trường Việt 
Nam, không thể phủ nhận các ngân hàng trong nước đang có những lợi thế 
riêng, đó là mạng lưới rộng khắp và cơ sở khách hàng truyền thống hùng 
hậu. Các ngân hàng nước ngoài nếu đầu tư vào Việt Nam, chắc chắn phải 
mất một thời gian tương đối dài để thông hiểu được tâm tư nguyện vọng của 
khách hàng cũng như những tập tính kinh doanh tại Việt Nam.
Bên cạnh lợi thế trên, các ngân hàng trong nước đang đứng trước 
thách thức là phần tài sản sinh lời từ họat động cho vay chiếm đến 60-70%. 
Do vậy khi gia nhập vào môi trường kinh doanh mới các ngân hàng phải đẩy 
mạnh hơn các sản phẩm về dịch vụ. Nhưng cũng không thể không quan tâm 
đến sản phẩm truyền thống là cho vay.
Ngân Hàng Thương mại cổ phần Á Châu là một trong những ngân 
hàng thương mại cổ phần lớn ở Việt Nam. Có Mạng lưới kênh phân phối
Gồm 321 chi nhánh và phòng giao dịch tại những vùng kinh tế phát tr iển 
trên toàn quốc (tính đến 31/12/2010). 
Trong những năm qua, với vai trò là ngân hàng chủ lực phục vụ đầu 
tư phát triển và đội ngũ cán bộ tín dụng, thẩm định có uy tín, trình độ chuyên 
môn nghiệp vụ cao, ACB luôn được đánh giá là Ngân hàng có thế mạnh 
trong hoạt động tín dụng trong số các ngân hàng thương mại cổ phần Việt
Nam. ACB có khả năng đáp ứng mọi nhu cầu vay vốn của Quý khách hàng 
với sự đa dạng về phương thức, phù hợp về thời gian và đơn giản về thủ tục.
Với mục tiêu phục vụ tốt nhất mọi đối tượng khách hàng, hiện nay 
ACB đã và đang triển khai nhiều loại sản phẩm tín dụng, áp dụng rộng rãi 
cho cả khách hàng là cá nhân lẫn doanh nghiệp. Nhằm đáp ứng các nhu cầu 
cụ thể về vốn của Quý khách hàng, ACB luôn nghiên cứu, không ngừng đổi 
mới và đa dạng hoá các phương thức cho vay.
Từ đó nhóm chúng em đi vào tìm hiểu cho vay thời lạm phát tại ngân 
hàng Thương Mại cổ phần Á Châu ( ACB)
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 13 trang
13 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1925 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Cho vay thời lạm phát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÌNH DƯƠNG 
 KHOA SAU ĐẠI HỌC 
    
 NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI & 
 CỔ PHẦN Á CHÂU - ACB 
Chuyên đề: 
 CHO VAY THỜI 
 LẠM PHÁT 
 GVHD : TS HỒ NGỌC PHƯƠNG 
 Học viên : Nhóm 9 
 Lớp : MBA – 2 – Khoá 4 
 Khóa : K17 cao học 
 LỜI MỞ ĐẦU 
 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại 
thế giới WTO. Đối với các ngân hàng trong nước, đặc biệt là các ngân hàng 
thương mại cổ phần, hội nhập mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng có không ít 
gian nan, thách thức. Làm thế nào để để tận dụng tốt các cơ hội cũng như 
vượt qua các thách thức để phát triển là một bài toán khó đặt ra cho các ngân 
hàng. 
 So với các ngân hàng nước ngoài đã và sắp có mặt trên thị trường Việt 
Nam, không thể phủ nhận các ngân hàng trong nước đang có những lợi thế 
riêng, đó là mạng lưới rộng khắp và cơ sở khách hàng truyền thống hùng 
hậu. Các ngân hàng nước ngoài nếu đầu tư vào Việt Nam, chắc chắn phải 
mất một thời gian tương đối dài để thông hiểu được tâm tư nguyện vọng của 
khách hàng cũng như những tập tính kinh doanh tại Việt Nam. 
 Bên cạnh lợi thế trên, các ngân hàng trong nước đang đứng trước 
thách thức là phần tài sản sinh lời từ họat động cho vay chiếm đến 60-70%. 
Do vậy khi gia nhập vào môi trường kinh doanh mới các ngân hàng phải đẩy 
mạnh hơn các sản phẩm về dịch vụ. Nhưng cũng không thể không quan tâm 
đến sản phẩm truyền thống là cho vay. 
 Ngân Hàng Thương mại cổ phần Á Châu là một trong những ngân 
hàng thương mại cổ phần lớn ở Việt Nam. Có Mạng lưới kênh phân phối 
Gồm 321 chi nhánh và phòng giao dịch tại những vùng kinh tế phát triển 
trên toàn quốc (tính đến 31/12/2010). 
 Trong những năm qua, với vai trò là ngân hàng chủ lực phục vụ đầu 
tư phát triển và đội ngũ cán bộ tín dụng, thẩm định có uy tín, trình độ chuyên 
môn nghiệp vụ cao, ACB luôn được đánh giá là Ngân hàng có thế mạnh 
trong hoạt động tín dụng trong số các ngân hàng thương mại cổ phần Việt 
Nam. ACB có khả năng đáp ứng mọi nhu cầu vay vốn của Quý khách hàng 
với sự đa dạng về phương thức, phù hợp về thời gian và đơn giản về thủ tục. 
 Với mục tiêu phục vụ tốt nhất mọi đối tượng khách hàng, hiện nay 
ACB đã và đang triển khai nhiều loại sản phẩm tín dụng, áp dụng rộng rãi 
cho cả khách hàng là cá nhân lẫn doanh nghiệp. Nhằm đáp ứng các nhu cầu 
cụ thể về vốn của Quý khách hàng, ACB luôn nghiên cứu, không ngừng đổi 
mới và đa dạng hoá các phương thức cho vay. 
 Từ đó nhóm chúng em đi vào tìm hiểu cho vay thời lạm phát tại ngân 
hàng Thương Mại cổ phần Á Châu ( ACB) 
A. KINH TẾ VI ỆT NAM THỜI LẠM PHÁT (12/2007 - hết năm 2008) 
 Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia (tăng 
trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư). Tình hình 
lạm phát hiện nay ở Việt Nam lên tới mức báo động là 2 con số, vượt qua ngưỡng 
lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc gia. Điều này sẽ dẫn đến nhiều tiêu 
cực trong đời sống kinh tế của chính phủ: làm suy vong nền kinh tế quốc gia. Bên 
cạnh đó là sự tác động mạnh tới đời sống của người dân, nhất là dân nghèo khi vật 
giá ngày càng leo thang. 
 Năm 2007, với việc tung một khối lượng lớn tiền đông để mua ngoại tệ từ các 
nguồn đổ vào nước ta đã làm tăng lượng tiền trong lưu thông với mức tăng trên 
30%, hạn mức tín dụng cũng tăng cao, mức tăng 38%. Ấy là chưa kể sự tăng tín 
dụng trong các năm trước đã tạo nên hiện tượng tích phát tác động đến năm 2007 
và có thể cả những năm sau. Cung tiền (tổng phương tiện thanh toán) tăng nhanh 
năm 2005 là 23.4%, năm 2006 là 33.6%, năm 2007 là 53.8%, tổng cộng 3 năm 
cung tiền M2 tăng 134.2%, trong khi 3 năm GDP chỉ tăng 25.09%. Chênh lệch 
giữa cung tiền tăng trong 3 năm qua (134.5%) với tăng trưởng kinh tế GDP 
(25.09%) là rất lớn, chắc chắn sẽ đè nặng lên giá cả trong nước, và cuối năm 2007, 
đầu năm 2008 nó bộc phát mạnh là do có sự cộng hưởng bởi lạm phát quốc tế 
(USD yếu) và thiên tai. 
 Nguồn: WB và Vietstock dự báo 
 1. Giai đoạn 1: cuối năm 2007 đến tháng 2 năm 2008 
 Chỉ số tăng trưởng GDP giảm xuống rất thấp và lạm phát ở mức rất cao (trên 
20%). 
 Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay rất thấp, chỉ còn 6,7% mặc dù tốc độ tăng 
trưởng của Việt Nam năm 2007 cao nhất trong 10 năm qua. Mục tiêu tăng trưởng 
GDP năm 2008 do Quốc hội đề ra từ kỳ họp cuối năm trước là 8,5- 9%, Thủ tướng 
Chính phủ chỉ đạo phấn đấu đạt trên 9%. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế quý 
1/2008 đã chậm lại so với tốc độ của quý 1/2007. 
 Lạm phát vượt qua mức tối đa cho phép 9% và lạm phát năm 2008 là 22,3%. 
Lạm phát năm 2007 đã ở mức hai chữ số (12,63%), 3 tháng 2008 tiếp tục lồng lên 
đến mức 9,19%, cao gấp ba lần cùng kỳ và bằng gần ba phần tư mức cả năm 2007, 
đã vượt qua mức theo mục tiêu đã đề ra cho cả năm 2008; nhập siêu gia tăng cả về 
kim ngạch tuyệt đối (3.366 triệu USD so với 1.933 triệu USD), cả về tỷ lệ nhập 
siêu so với xuất khẩu (56,5% so với 18,2%)... Đời sống nhân dân được tăng lên, 
thu nhập GDP bình quân đầu người từ 402 USD năm 2000 tăng lên 836 USD năm 
2007, số hộ nghèo giảm dần, đời sống nông dân cải thiện rõ rệt, nhiều công trình 
kinh tế xã hội được hoàn thành, hội nhập sâu rộng với các nước trên thế giới (tổng 
kim ngạch xuất nhập khẩu VN năm 2007 chiếm 156% GDP), gia nhập Tổ chức 
thương mại thế giới WTO,.. VN được các nước trên thế giới đánh giá tốt và khen 
ngợi,. 
 Giá tiêu dùng tháng 02/2008 tăng 3,56% so với tháng trước, cao hơn mức tăng 
giá tiêu dùng 2,38% của tháng 01/2008 so với tháng 12/2007. So với tháng 
12/2007, giá tiêu dùng tháng 02/2008 tăng 6.02% và bình quân hai tháng đầu năm 
giá tiêu dùng đã tăng 14.89% so với cùng kỳ năm trước, trong đó tăng cao nhất 
vẫn là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (hàng thực phẩm tăng 26.82 %; ăn uống 
ngoài gia đình tăng 22,03%; hàng lương thực tăng 17,43%). 
 2. Giai đoạn từ tháng 3 năm 2008 đến tháng 8 năm 2008 
 Với những nỗ lực thắt chặt chính sách tiền tệ, đặc biệt cao độ trong 2 quý 
đầu, tốc độ lạm phát đã chậm lại, giá tiêu dùng trong tháng 6 chỉ tăng 2,14% - thấp 
nhất kể từ đầu năm. Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán giảm dần, tăng 
4,48% so với cuối năm 2007. Tính đến cuối tháng 6, dư nợ tín dụng chỉ tăng 20%, 
lượng tiền mặt trong lưu thông cũng giảm 7,13% so với cuối năm 2007, và chỉ số 
giá tiêu dùng quý 2 tăng 8,47%. 
 Bước sang quý III, sau một độ trễ nhất định, tác dụng từ chính sách tiền tệ thắt 
chặt thể hiện rõ nét hơn. Nỗi lo lạm phát tạm thời lắng xuống, chỉ số giá tiêu dùng 
CPI so với cùng kỳ đã tăng lên mức cao nhất trong tháng 8 (1,56%) và có dấu hiệu 
giảm mạnh. 
 3. Từ tháng 9 năm 2008 đến tháng 12 năm 2008 
 Bước sang tháng 9 năm 2008 chỉ số giá tiêu dùng hầu như không tăng, CPI 
tháng 9 tăng 0,18% và giảm trong suốt cả quý 4 năm 2008 (tháng 10 giảm 0,19%, 
tháng 11 giảm 1,76%, tháng 12 giảm 0,68%). 
 Giữa sóng to gió cả của cơn bão khủng hoảng tài chính toàn cầu, có thể nói con 
tàu kinh tế Việt Nam đã được neo giữ an toàn. Cuối năm 2008, lạm phát được 
kiềm chế và tăng trưởng kinh tế đạt ngưỡng trung bình. Dù rằng thuốc đắng không 
tránh khỏi tác dụng phụ nhưng những tín hiệu tích cực từ nền kinh tế cho thấy 
chính sách tiền tệ thắt chặt linh hoạt mà NHNN đeo đuổi trong năm 2008 đã cán 
đích khi dung hoà được cả hai mục tiêu. Tuy nhiên, cơn bão khủng hoảng toàn cầu 
chưa tan và sẽ còn diễn biến phức tạp, bất thường với nguy cơ suy thoái sâu trong 
năm 2009. Bởi vậy bài toán tăng trưởng kinh tế cùng với kiềm chế lạm phát vẫn là 
thách thức lớn đặt ra cho ngành Ngân hàng, đòi hỏi một chính sách tiền tệ quyết 
liệt và linh hoạt hơn trước những biến động mới. 
B. ĐẶC ĐIỂM LÃI SUẤT TIỀN GỬI, CHO VAY VÀ NHU CẦU VAY 
Ở VIỆT NAM 
 Nhận thấy dấu hiệu lạm phát, Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã đưa ra một loạt 
biện pháp nhằm hỗ trợ tích cực tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát như: ổ 
định lãi suất và tỷ giá, giảm tốc độ tăng trưởng của tín dụng, kiểm soát tổng 
phương tiện thanh toán. 
 Trước hết NHNN đã có những động thái mạnh mẽ để hút bớt tiền từ lưu thông, 
giảm sức tăng của giá cả. Ngày 16/1/2008, NHNN thông báo điều chỉnh tăng tỷ lệ 
dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng lên 11% (tăng thêm 1%). Để đảm bảo 
thanh khoản, các ngân hàng thương mại bị cuốn vào cuộc đua lãi suất huy động 
vốn khốc liệt, đẩy lãi suất trên thị trường liên ngân hàng lên cao tới mức 30%, 
gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của một số ngân hàng khác. Chính vì vậy, 
để ổn định thanh khoản, hạ cơn sốt lãi suất, trong tháng 2, NHNN buộc phải bơm 
ra thị trường một lượng tiền lớn trong ngắn hạn. Đồng thời xác lập trần lãi suất 
huy động không vượt quá 12%/năm và mức lãi suất thoả thuận giữa các ngân hàng 
trong Hiệp hội không quá 11%/năm dù việc này đi ngược với quá trình tự do hoá 
lãi suất. 
 Việc tăng lãi suất đã thúc đẩy người dân tiếp tục giữ tiền gửi tiết kiệm bằng 
VNĐ đồng thời kiềm chế tăng trưởng tín dụng, nhu cầu nhập khẩu và tỷ lệ lạm 
phát. Tuy nhiên, nhìn từ những tổn thương của khu vực doanh nghiệp thì đây thực 
sự là sự đánh đổi giữa kiềm chế lạm phát và đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế. 
Bởi thực tế không ít doanh nghiệp đã gặp khó khăn do tác động lãi suất, chi phí 
tăng, vốn ít. Nhưng nhìn từ phía khác, t ại thời điểm đó áp lực mà lạm phát đè 
nặng lên đời sống của nhân dân và nền kinh tế trong dài hạn lớn hơn rất 
nhiều. Đây cũng còn là cơ hội để chúng ta sàng lọc, tái cơ cấu lại sản xuất, kinh 
doanh theo hướng hiệu quả hơn. 
 Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, chỉ trong 3 tuần đầu tháng 2/2008, 
các Ngân hàng thương mại (NHTM) phải thực hiện đồng thời 4 quyết định thắt 
chặt điều hành chính sách tiền tệ của NHNN. 
 + Quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11% , mở rộng thêm phạm 
vi tiền gửi dự trữ bắt buộc và NH Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn cũng phải 
thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc mới. 
 + Từ tháng 2/2008, các loại lãi suất chủ đạo của NHNN tăng cao hơn trước. 
Theo đó, lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm; lãi suất tái cấp vốn 
tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm và lãi suất chiết khấu tăng từ 4,5%/năm lên 
6,0%/năm. 
 + NHNN ban hành Quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN, ngày 1/2/2008 về sửa 
đổi Chỉ thị 03 về cho vay chứng khoán. Trái với mong đợi của các NHTM, Quyết 
định 03 còn thắt chặt cho vay chứng khoán hơn so với Chỉ thị 03 trước đây. 
 + Ngày 15/2/2008 NHNN công bố quyết định phát hành 20.300 tỷ đồng tín 
phiếu NHNN bắt buộc. 
 Lãi suất ngân hàng đã ở mức "cực kỳ nguy hiểm" 
 Trước chuyển biến trên, bài toán chống giảm đà tăng trưởng đã được tính 
đến nhằm giảm bớt khó khăn cho khu vực sản xuất. Trong tháng 9, NHNN đã đưa 
ra những quyết định quan trọng, duy trì lãi suất cơ bản ở mức 14%/năm, t ăng lãi 
suất tiền gửi dự trữ bắt buộc từ 1,2%/năm lên 3,6%/năm (con số được điều chỉnh 
lên 5% vào cuối tháng 9 và tăng gấp đôi lên 10% gần 1 tháng sau). Bên cạnh đó, 
NHNN cũng mở cơ chế cho phép các tổ chức tín dụng sử dụng tín phiếu bắt buộc 
làm công cụ tham gia nghiệp vụ thị trường mở, giải phóng trước hạn 20.300 tỷ 
đồng. Tiếp đó vào tháng 11, NHNN hai lần điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 
VNĐ, giảm 1% vào ngày mùng 3/11 và giảm tiếp 2% vào ngày 20/11. Đây là lần 
đầu tiên sau 5 năm tỷ lệ này giảm, giải phóng một nguồn tiền mới cho các ngân 
hàng. 
 Chỉ trong vòng 1 tháng, lãi suất cơ bản 4 lần được điều chỉnh giảm, tính đến 
ngày 20/11 chỉ còn 11% do những dấu hiệu lạc quan từ cuộc chiến chống lạm phát 
và thanh khoản trên hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng thương mại trên cả nước 
cũng đồng loạt có những đợt giảm lãi suất tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho 
doanh nghiệp. Hiện nay mức lãi suất cho vay của một số ngân hàng lớn giảm từ 
7% - 9%/năm so với lãi suất cao đỉnh điểm hồi giữa năm. Đáng chú ý từ ngày 
8/12, lãi suất cho vay VNĐ thấp nhất của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt 
Nam đã bằng với lãi suất cơ bản của NHNN (10%/năm). 
 Năm 2008, giữa bối cảnh lạm phát nhảy vọt, thâm hụt cán cân thương mại lớn, 
dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào nhiều, NHNN đã phải giải một bài toán hóc 
búa về cơ chế điều hành tỷ giá. Bởi theo lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”, với dòng 
vốn ra vào tự do, một quốc gia không thể đạt được cùng một lúc hai mục tiêu ổn 
định lạm phát và ổn định tỷ giá mục tiêu. Xác định kiềm chế lạm phát là ưu tiên số 
một, NHNN đã thực hiện chính sách tỷ giá vừa linh hoạt vừa có kiểm soát, nói 
cách khác là “thả nổi có điều tiết” nhằm ổn định thị trường tiền tệ trước mắt nhưng 
vẫn đảm bảo mục tiêu kiềm chế lạm phát trong trung hạn. Theo đó, tính đến tháng 
11, NHNN đã bốn lần can thiệp vào thị trường ngoại hối qua việc từng bước nới 
rộng biên độ tỷ giá từ +/- 0,75% vào đầu năm 2008 lên +/- 3% vào ngày 7/11. Căn 
cứ vào biên độ đó, các tổ chức tín dụng tự n định tỷ giá nhưng trong phạm vi 
kiểm soát, tránh gây xáo trộn thị trường. Thêm vào đó, việc thông tin minh bạch 
về dự trữ ngoại hối mà Thống đốc NHNN công bố kịp thời cũng giúp củng cố 
niềm tin cho các nhà đầu tư, giúp ổn định tỷ giá. Xét toàn diện thì lời giải trên của 
NHNN đã lập được cú hat-trick, vừa đưa tỷ giá sát với diễn biến thị trường, góp 
phần hạn chế nhập siêu và thúc đẩy xuất khẩu đồng thời đảm bảo tăng trưởng kinh 
tế hợp lý, bền vững. 
C. NGÂN HÀNG TM & CP Á CHÂU - ACB 
 1. Giới thiệu ngân hàng TMCP Á Châu 
 1.1 Giới thiệu chung: 
 - 24/4/1993: Thành lập NHTM CP Á Châu (ACB) 
 - 04/6/1933: Bắt đầu hoạt động kinh doanh 
 - 31/12/2010: Vốn điều lệ 9.376.965.060.000 đồng 
 - Mạng lưới kênh phân phối: 321 chi nhánh và phòng giao dịch. 
 - Nhân sự: đến ngày 28/02/2010 tổng số nhân viên là 6.749 người. 
 - Quy trình nghiệp vụ: được chuẩn hóa theo tiêu chuẩn ISO 9001: 
 2000 
 Sản phẩm dịch vụ chính: 
 + Huy động vốn. 
 + Sử dụng vốn: cung cấp tín dụng, đầu tư, hùn vốn liên doanh 
 + Dịch vụ trung gian: thanh toán trong và ngoài nước, ngân quỹ, 
 chuyển tiền, bảo hiểm nhân thọ qua ngân hàng. 
 + Kinh doanh ngoại tệ và vàng 
 + Phát hành và thanh toán thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ 
 - Công ty trực thuộc: 
 - Cty chứng khoán ACB (ACBS) 
 - Cty Quản lý và khai thác tài sản NH Á Châu (ACBA) 
 - Cty cho thuê tài chính NH Á Châu (ACBL) 
 - Cty Quản lý Quỹ ACB (ACBC) 
 - Công ty liên kết: 
 - Cty CP Dịch vụ bảo vệ NH Á Châu (ACBD) 
 - Cty CP Địa ốc ACB (ACBR) 
 - Công ty liên doanh: 
 - Cty CP Sài Gòn kim hoàn ACB-SJC 
 1.2 Hoạt động của ACB: 
 ACB tư định vị là một định chế tài chính, tập trung vào thị trường NH 
bán lẻ, doanh nghiệp vừa và nhỏ. 
 ACB xem mình là một NH bảo thủ, áp dụng các tiêu chuẩn khắc khe 
trong tín dụng và thế chấp 
 Nợ xấu của NH chưa đạt mức 1% 
 Năm 2000, ACB mở rộng kinh doanh ra ngoài phạm vi ngân hàng 
thương mại: mua bán chứng khoán (ACBS); quản lý và khai thác tài sản 
(ACBA); cho vay tài chính (ACBL); quản lý quỹ (ACBC) 
 ACB luôn khẳng định chính sách cho vay an toàn: 
 + Nợ quá hạn duy trì dưới mức 0,4% so với mục tiêu là 1%. 
 + Tích cực tham gia vào thị trường cho vay liên NH. 
 + Mua trái phiếu của Chính phủ. 
 Về cơ bản thu nhập ít hơn nhưng an toàn, mặt khác tích cực đa dạng 
hóa cơ cấu sản phẩm. 
 + ACB tăng cường đầu tư vào hoạt động quản lý quỹ, thị trường vốn 
và quỹ huy trí để đa dạng hóa sản phẩm và giảm bớt rủi ro. 
 Chiến lược sản phẩm của ACB: 
 - Cuối năm 2006, tổng số cho vay của NH chiếm 40% tổng tài sản, 
thấp hơn mức trung bình của toàn ngành công nghiệp trong khi thu tiền gửi 
tăng gấp đôi so với năm trước. 
 - Năm 2006: cho vay đóng góp 50% lợi nhuận gộp cho ACB, có lợi 
nhuận cao hơn trái phiếu và cho vay liên ngân hàng. 
 - Tỉ lệ hoàn vốn trên tài sản trung bình khá cao 35-40%, NH chú trọng 
các tài nguyên nhằm tăng hiệu quả hoạt động hơn là tìm cách thu nhiều tiền 
gửi 
 2. HỌAT ĐỘNG CHO VAY CỦA ACB 
 - Chiến lược: Chuyển đổi từ chiến lược các quy tắc đơn giản (simple rule 
strategy) sang chiến lược cạnh tranh bằng sự khác biệt hóa (a compettive 
strategy of differentiation. Định hướng ngân hàng bán lẻ. 
 - ACB dành 10% số cho vay của mình cho các doanh nghiệp quốc doanh 
và phần lớn là cho nhu cầu vốn lưu động của họ, 46,5% cho cá nhân và 
43,4% cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 
 - Không có sự khác biệt về lĩnh vực cho vay. Tuy nhiên các khoản vay 
phải đáp ứng được những yêu cầu khắc khe. 
 - Việc cho vay thực hiện theo tiêu chuẩn lợi nhuận và thế chấp. ACB 
tiên phong trong cho vay tiêu dùng, cho vay mua nhà và trong bảo hiểm thẻ 
ghi có (debit card issuance) 
 - Hiện tại ACB có hơn 1.800 đại lý chấp nhân thanh toán thẻ của 
Trung tâm thẻ ACB đang hoạt động 
 - 1003 đại lý chi trả của Trung tâm chuyển tiền nhanh ACB-Western 
Union 
 - ACB tích cực trong việc thiết lập hệ thống mạng lưới ATM. Những 
hoạt động này cho thấy quyết tâm của ACB đối với dịch vụ NH bán lẻ. 
 3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO ACB 
 1- Lợi nhuận cao hơn hay cho vay ít rủi ro hơn?. 
 Trung thành với chính sách cho vay an toàn của mình. ACB cần bảo 
đảm rằng các khoản cho vay phải được cấp cho người vay có thành tích tín 
dụng tốt. Trong nhiều năm ACB đặc biệt chú ý đến hoạt động cho vay liên 
ngân hàng bên cạnh các đối tượng vay lành mạnh khác của mình. Chiến lược 
này dẫn đến kết quả là ACB phải duy trì lãi suất cho vay thấp cho các khách 
hàng trung thành và được chọn lọc kỹ của mình bao gồm cả ngân hàng và 
định chế tài chính. Mặt khác, ngân hàng chụi áp lực phải đưa ra lãi suất hấp 
dẫn đối với người gửi. Lợi nhuận cho vay vì vậy bị thu hẹp đáng kể. Để duy 
trì lợi nhuận, đẩy mạnh cho vay tiêu dùng dường như là giải pháp then chốt. 
Nếu ngân hàng chấp nhận chiến lược này, lợi nhuận cao hơn từ cho vay tiêu 
dùng có thể bù đáp lợi nhuận mong manh của hình thức cho vay trước đây. 
 Một sự điều chỉnh nhỏ của chính sách cho vay có thể thu hút thêm 
người vay. Nếu từ bỏ chính sách cho vay an toàn ngân hàng có thể dành lấy 
hàng loạt khách hàng từ cạnh tranh nhờ vào danh tiếng thương hiệu của 
mình. Nhiều khách hàng mới cũng có thể suất hiện. Một nghiên cứu cho 
thấy có thể tăng số lượng người vay với cách thức này. Ước lượng này nếu 
gia tăng tỷ lệ trong thuế chấp lên 60% giá trị tài sản từ mức 50% hiện nay, 
ngân hàng có thể tăng khối lượng cho vay lên 10-15% từ cùng một đối 
tượng người vay. Tổng số cho vay có thể tương đương 130% số cho vay 
hiện tại nếu tính luôn khả năng có thêm khách hàng mới nhờ vào sự thay đổi 
nay. 
 Giảm bớt khắt khe trong chính sách cho vay đồng nghĩa với việc đưa 
ngân hàng đến rủi ro cho vay đến nợ xấu. Cho vay đến nợ xấu có thể làm tổn 
hại danh tiếng của ngân hàng. Nếu chấp nhận BQL ACB phải xác định mức 
độ, thời gian và với chính sách này sẽ áp dụng. Hiện không rõ các khoản cho 
vay nhờ vào sự dễ dãi của chính sách sẽ nâng cao thương hiệu và sự tin cậy 
của khách hàng vào ngân hàng đến bao nhiêu. 
 Không thể nới lỏng mà không có sự hy sinh, chính sách cho vay an 
toàn đòi hỏi phải lựa chọn khách hàng một cách khắt khe. Tiêu chuẩn lựa 
chọn khắt khe có thể ngăn ngân hàng thu hút đủ khách để đạt được sự cân 
bằng vừa kể trên. Ngân hàng không muốn giảm nhẹ tiêu chuẩn của mình, 
đặc biệt là khi ban quản trị của họ quyết tâm biến ngân hàng thành định chế 
tài chính hàng đầu trên thị trường. 
 2- Khuyến khích khách hàng vay thêm bằng các ưu đãi hấp dẫn 
 Cách này rất đơn giản, có nghĩa là, đưa ra ưu đãi để khuyến khích 
khách hàng hiện có vay thêm. Với lượng khách hàng lớn ACB có thể thấy 
hình thức này là cách dễ nhất mà không cần nỗ lực gì thêm thật lớn lao. 
Những gì mà ACB có thể cần là xem lại hồ sơ khách hàng và tự hỏi xem 
nhưng khách hàng vay có tình trạng tín dụng lành mạnh có muốn vay thêm 
không. Mặc dù tính ưu đãi có thể làm tăng tốn phí trên mỗi đơn vị cho vay, 
nó có thể bù đắp bằng lợi nhuận tăng thêm từ các khoản cho vay mới. 
 Tuy nhiên một giải pháp cho vấn đề này là chú ý đưa ra thời hạn thanh 
toán và dựa vào độ điều chỉnh lãi suất để trang trải các chi phí cho các ưu đãi 
làm phát sinh. Chẳng hạn, thay vì cố định mức lãi suất ở 9.3% hàng năm đối 
với các hợp đồng cho vay một năm. ACB có thể chào lãi suất ở 9.6% cho 
cùng thời hạn hợp đồng mà khôn