Chuyên đề Chuyên sâu Quản lý chi bảo hiểm xã hội

Chi bảo hiểm xã hội (BHXH) là quá trình phân phối, sử dụng quỹ BHXH để chi trả cho các chế độ BHXH nhằm ổn định cuộc sống của người tham gia BHXH và đảm bảo các hoạt động của hệ thống BHXH. Đó là quá trình phân phối lại các nguồn tài chính đã được tập trung vào quỹ BHXH. Quá trình phân phối được thực hiện theo từng mục đích sử dụng nhất định. Chi BHXH được thực hiện bởi hai quá trình: phân phối và sử dụng quỹ BHXH. - Phân phối quỹ BHXH: là quá trình phân bổ các nguồn tài chính từ quỹ BHXH để hình thành các quỹ thành phần: Quỹ ốm đau và thai sản, quỹ TNLĐ và BNN, quỹ hưu trí và tử tuất hoặc phân bổ cho các mục đích sử dụng khác nhau, như: quỹ đầu tư phát triển, quỹ chi trả các chế độ BHXH… - Sử dụng quỹ BHXH: là quá trình chi tiền của quỹ BHXH đến tay đối tượng được thụ hưởng hoặc cho từng mục đích sử dụng cụ thể.

doc48 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 11641 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Chuyên sâu Quản lý chi bảo hiểm xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHUYÊN ĐỀ CHUYÊN SÂU VỀ QUẢN LÝ CHI BHXH CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ CHI BẢO HIỂM XÃ HỘI 1.1. Các khái niệm Khái niệm về chi bảo hiểm xã hội. Chi bảo hiểm xã hội (BHXH) là quá trình phân phối, sử dụng quỹ BHXH để chi trả cho các chế độ BHXH nhằm ổn định cuộc sống của người tham gia BHXH và đảm bảo các hoạt động của hệ thống BHXH. Đó là quá trình phân phối lại các nguồn tài chính đã được tập trung vào quỹ BHXH. Quá trình phân phối được thực hiện theo từng mục đích sử dụng nhất định. Chi BHXH được thực hiện bởi hai quá trình: phân phối và sử dụng quỹ BHXH. - Phân phối quỹ BHXH: là quá trình phân bổ các nguồn tài chính từ quỹ BHXH để hình thành các quỹ thành phần: Quỹ ốm đau và thai sản, quỹ TNLĐ và BNN, quỹ hưu trí và tử tuất hoặc phân bổ cho các mục đích sử dụng khác nhau, như: quỹ đầu tư phát triển, quỹ chi trả các chế độ BHXH… - Sử dụng quỹ BHXH: là quá trình chi tiền của quỹ BHXH đến tay đối tượng được thụ hưởng hoặc cho từng mục đích sử dụng cụ thể. Phân phối và sử dụng quỹ BHXH là hai phạm trù khác nhau, nhưng trong thực tế, hai quá trình này thường đan xen lẫn nhau. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp, từ mục đích sử dụng quỹ đòi hỏi phải tách riêng hai quá trình này theo thứ tự trước sau. Ví dụ: hoạt động bảo tồn và tăng trưởng quỹ đòi hỏi phải kết thúc quá trình phân phối quỹ, quỹ phải phân phối đủ cho mục đích chi trả các chế độ BHXH, số còn lại mới phân phối vào quỹ bảo tồn tăng trưởng. Nghĩa là quỹ phải có số dư mới thực hiện đầu tư tăng trưởng. Như vậy có thể đưa ra khái niệm quản lý chi BHXH như sau: Khái niệm về quản lý chi BHXH: Quản lý chi BHXH là các hoạt động có tổ chức, theo quy định của pháp luật để thực hiện công tác chi trả các chế độ BHXH. Các hoạt động đó được thực hiện bằng hệ thống pháp luật của nhà nước và bằng các biện pháp hành chính, tổ chức, kinh tế của các cơ quan chức năng nhằm đạt được mục tiêu chi đúng đối tượng, chi đủ số lượng và đảm bảo tiến tới đến tận tay đối tượng được thụ hưởng đúng thời gian quy định. 1.2. Các nhân tố tác động tới quản lý chi BHXH - Sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước: Khi nền kinh tế – xã hội của đất nước phát triển, đòi hỏi hệ thống an sinh xã hội của quốc gia đó cũng phải không ngừng phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội đó, trong đó quan trọng nhất là hệ thống chính sách về BHXH. Chính bởi vậy, chính sách này không ngừng được mở rộng cả về phạm vi bao phủ đối tượng tham gia, đối tượng thụ hưởng và cả về quy mô các chế độ thực hiện. Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế sẽ làm cho thu nhập của người lao động tăng, nhờ đó người lao động sắn sàng tham gia BHXH và đóng góp ở mức cao hơn, dẫn tới thu BHXH tăng, đảm bảo tốt nguồn chi BHXH. - Sự điều chỉnh về chính sách, pháp luật BHXH của nhà nước: Khi nhà nước có những sửa đổi về chính sách, pháp luật BHXH thì đều có sự tác động tới hoạt động thu và chi BHXH. - Nhận thức của xã hội về lĩnh vực BHXH: Khi người lao động và người sử dụng lao động cũng như toàn xã hội nhận thức được tầm quan trọng và vai trò của chính sách BHXH thì họ sẽ có ý thức tự giác trong việc tham gia BHXH, vì vậy đối tượng tham gia và thụ hưởng chính sách sẽ tăng lên, theo đó sẽ có tác động tới quản lý chi trả các chế độ BHXH. - Chính sách tiền lương của chính phủ: Việc điều chỉnh chính sách tiền lương của Chính phủ sẽ có tác động tới thu và chi BHXH. - Việc tuân thủ chính sách pháp luật về BHXH của người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan BHXH. Điều này giúp tránh được các hiện tượng tiêu cực trong thụ hưởng chính sách BHXH, góp phần thực hiện tốt công tác quản lý chi trả BHXH, tránh thất thoát cho quỹ BHXH. - Tuổi thọ bình quân của dân số trong tương lai: Khi tuổi thọ của người dân càng cao thì số tiền chi trả cho chế độ hưu trí càng lớn, và đây là số chi chiếm tỷ trọng lớn nhất trong chi BHXH. - Các chính sách khác của chính phủ, như chính sách dân số và KHH gia đình, chính sách việc làm,... - Trình độ của cán bộ quản lý và thực hiện công tác chi BHXH. 1.3. Vai trò của quản lý chi BHXH Chi BHXH là công tác trọng tâm, đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện và đảm bảo tốt chính sách an sinh xã hội của quốc gia nói chung và chính sách BHXH nói riêng, góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước, thể hiện trên các mặt sau: 1.3.1. Đối với đối tượng thụ hưởng chính sách BHXH: Thực hiện tốt công tác quản lý chi BHXH là trực tiếp bảo đảm quyền lợi của người thụ hưởng các chế độ BHXH. Đây là vai trò rõ nét nhất của công tác quản lý chi. Theo quy định hiện hành, chủ sử dụng lao động và người lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc phải đóng BHXH thì người lao động mới được hưởng trợ cấp của các chế độ BHXH. Tiền đóng BHXH được phân phối vào các quỹ thành phần tương ứng với các chế độ BHXH thuộc quỹ đó. Trong đó, quỹ ốm đau và thai sản là 3%, quỹ TNLĐ và BNN là 1%, quỹ hưu trí và tử tuất là 16%-22%. Sau khi đóng BHXH, người lao động đủ các điều kiện theo quy định sẽ được hưởng tiền trợ cấp của các quỹ đó. Nhưng để người lao động nhận được tiền trợ cấp từ quỹ BHXH, các cơ quan chức năng và người lao động phải thực hiện hàng loạt các hoạt động thuộc nghiệp vụ quản lý chi. Tương ứng với các chế độ BHXH có các hoạt động chi khác nhau. Ví dụ như chi trả lương hưu: phải tính toán chính xác mức lương hưu cho từng người, nhận tiền từ ngân hàng về cơ quan BHXH cấp huyện, đem tiền đến địa điểm quy định để cấp phát cho từng người… Đối với các đối tượng có tài khoản cá nhân phải có các động tác chuyển tiền vào tài khoản của từng người và người hưởng hưu trí phải đến những nơi quy định để rút tiền từ tài khoản cá nhân của mình. Không có các hoạt động này thì người tham gia BHXH không nhận được các khoản trợ cấp BHXH và do đó quyền lợi của họ không được đảm bảo. Các hoạt động này chính là những nội dung của công tác quản lý chi BHXH. Vì vậy quản lý chi có vai trò rất rõ trong việc bảo đảm quyền lợi của người tham gia BHXH. Hơn thế nữa các hoạt động chi trả phải bảo đảm chi đúng đối tượng được hưởng, chi đủ số tiền họ được hưởng và bảo đảm thời gian theo quy định. Đây chính là các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của công tác quản lý chi. Đạt được các chỉ tiêu này công tác quản lý chi mới bảo đảm quyền lợi người tham gia BHXH. 1.3.2. Đối với hệ thống BHXH: Thực hiện tốt công tác quản lý chi sẽ góp phần quan trọng trong việc: Thứ nhất, quản lý quỹ BHXH được an toàn, không bị thất thoát, đặc biệt là quỹ tiền mặt. Các nguồn tài chính được tập trung vào quỹ BHXH phải được quản lý chặt chẽ, an toàn, không bị thất thoát. Đây vừa là vai trò, nhiệm vụ, vừa là mục tiêu của công tác quản lý chi. Trên thực tế đã xảy ra các hiện tượng tiêu cực ảnh hưởng đến việc an toàn quỹ. Đã có những hồ sơ giả để hưởng lương hưu và các chứng từ giả để hưởng các loại trợ cấp ốm đau, thai sản… Để đạt được mục tiêu an toàn, không bị thất thoát quỹ cần phải có các điều kiện sau đây: + Quy định rõ danh mục các loại hồ sơ và kiểm tra chặt chẽ các loại hồ sơ khi xét hưởng các chế độ BHXH. Mỗi loại chế độ BHXH có các yêu cầu về hồ sơ khác nhau, nhưng yêu cầu chung đều phải được kiểm tra kỹ lưỡng khi xét hưởng các chế độ để đảm bảo chi trả đúng người, đúng chế độ. Đồng thời BHXH VN phải quy định thời gian xét duyệt hồ sơ, phải luôn luôn đổi mới quy trình xét duyệt hồ sơ, cải cách hành chính, giảm phiền hà cho đối tượng. Khâu xét duyệt hồ sơ làm tốt sẽ có tác dụng hạn chế những thất thoát của quỹ BHXH. + Trang bị đầy đủ các phương tiện vận chuyển tiền mặt, kho tàng thiết bị bảo toàn quỹ… + Có hệ thống sổ sách, biểu mẫu báo cáo thống kê đầy đủ, thuận tiện cho công tác kế toán, báo cáo thống kê. + Tăng cường kiểm tra từ khâu xét duyệt hồ sơ, khâu chi trả đến khâu hạch toán kế toán và báo cáo thống kê; áp dụng đa dạng các biện pháp kiểm tra: thường xuyên, định kỳ, đột xuất… + Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm nguyên tắc quản lý tài chính. Thứ hai, tiết kiệm chi phí quản lý hành chính, chi phí đầu tư xây dựng cơ bản, góp phần cân đối quỹ HXH. Chi phí quản lý hành chính là các khoản chi phí để duy trì hoạt động của bộ máy qản lý thuộc hệ thống BHXH VN, bao gồm: tiền lương của cán bộ công chức toàn ngành BHXH VN, tiền công tác phí, văn phòng phẩm.. Chi phí đầu tư xây dựng cơ bản của BHXH VN chủ yếu là các chi phí xây dựng trụ sở làm việc của toàn hệ thống BHXH VN từ cấp huyện đến cấp trung ương. Tiết kiệm chi phí quản lý hành chính và chi phí đầu tư xây dựng cơ bản là nâng cao hiệu quả sử dụng quỹ BHXH. 1.3.3. Đối với hệ thống an sinh xã hội: Thực hiện tốt công tác quản lý chi BHXH là góp phần thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội cơ bản nhất của quốc gia hướng vào phát triển con người, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững đất nước, thể hiện trên các mặt sau: + BHXH là chính sách rất cơ bản trong hệ thống chính sách xã hội nói chung và hệ thống chính sách an sinh xã hội nói riêng. Chính bởi vậy thực hiện tốt công tác chi BHXH là góp phần thực hiện tốt đảm bảo hệ số an toàn cao về đời sống cho người lao động tham gia BHXH trong kinh tế thị trường, trong và sau khi ra khỏi quá trình lao động, trong các trường hợp gặp phải những biến cố xã hội làm mất hoặc suy giảm nghiêm trọng nguồn thu nhập do ốm đau, thai sản, TNLĐ và BNN, MSLĐ, nghỉ hưu và chết. Và như vậy nó liên quan trực tiếp đến con người, người lao động, tạo ra cái nền cơ bản tối thiểu nhất để phát triển con người. + Góp phần thực hiện tốt mục tiêu phát triển của đất nước là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng và Nhà nước ta đã xác định quan điểm nhất quán và xuyên suốt là phải gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Việc thực hiện tốt công tác quản lý chi BHXH là thực hiện tốt chính sách BHXH - chính sách trực tiếp tham gia vào thực hiện công bằng xã hội. Điều này thể hiện rất rõ trách nhiệm xã hội và quyền hạn của các bên tham gia BHXH (người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước, cơ quan BHXH...) theo nguyên tắc công bằng, đoàn kết, chia sẻ (lấy số đông bù số ít, lấy không rủi ro bù cho rủi ro...) và bình đẳng trước pháp luật. + Thực hiện tốt công tác quản lý chi BHXH là đảm bảo cho quỹ BHXH được an toàn và phát triển bền vững, điều đó sẽ tạo động lực và là yếu tố góp phần tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững đất nước. 1.3.4. Đối với xã hội: Quản lý chi BHXH tốt góp phần đảm bảo an ninh chính trị, an toàn và phát triển xã hội, thể hiện trên các khía cạnh sau:. Thứ nhất, thực hiện tốt công tác chi BHXH góp phần trực tiếp vào việc đáp ứng nhu cầu thiết thân nhất của người lao động. Trong đời sống xã hội, con người luôn phải đối mặt với những biến cố và những rủi ro xã hội. Để phòng ngừa và khắc phục các biến cố và rủi ro xã hội, con người có nhu cầu đáp ứng về an sinh xã hội. Xã hội càng phát triển, đời sống con người càng phong phú, nhu cầu về an sinh xã hội càng tăng và đa dạng. Các nhu cầu về an sinh xã hội có thể được phân loại theo các nhóm sau: + Nhu cầu về BHXH + Nhu cầu có việc làm với tiền lương đủ sống và trợ giúp để người lao động có khả năng lao động sớm trở lại thị trường lao động trong các trường hợp mất việc làm, thất nghiệp (nhu cầu an toàn việc làm và tiền lương đủ sống). + Nhu cầu tiếp cận và thoả mãn các dịch vụ cơ bản (y tế, giáo dục, kế hoạch hoá gia đình, nước sạch...). + Nhu cầu trợ giúp xã hội thường xuyên đối với các đối tượng yếu thế. + Nhu cầu cứu trợ đột xuất. Đây chính là những nhu cầu xã hội cơ bản, thiết yếu mà nhà nước và cộng đồng phải có trách nhiệm chia sẻ, cung cấp các dịch vụ không vì mục tiêu lợi nhuận, trong hệ thống dịch vụ công trên cơ sở các chính sách an sinh xã hội của nhà nước. Trong đó, BHXH là nhu cầu đời sống thiết thân nhất và quan trọng nhất của người lao động. Thứ hai, thực hiện tốt công tác quản lý chi BHXH là góp phần quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ công (dịch vụ xã hội cơ bản) cho con người, cho người lao động trong một xã hội phát triển. Xã hội càng phát triển đòi hỏi hệ thống an sinh xã hội, trong đó quan trọng nhất là hệ thống BHXH phải phát triển theo để đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội, bảo vệ con người chống chọi với các biến cố của xã hội và được đảm bảo an toàn. Chính bởi vậy công tác quản lý chi BHXH tốt sẽ có vai trò rất quan trong trong chức năng đảm bảo an toàn cho người lao động ở mức cơ bản nhất về thu nhập, dịch vụ y tế, xã hội và chức năng duy trì thu nhập để duy trì mức sống hiện tại trong các trường hợp gặp phải các biến cố làm giảm hoặc mất thu nhập (ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động và chết). Thứ ba, quản lý chi BHXH tốt còn góp phần vào tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Thực hiện tốt công tác quản lý chi BHXH sẽ bảo đảm được sự an toàn của quỹ BHXH, theo đó quỹ BHXH nhàn rỗi sẽ có điều kiện để góp phần đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế – xã hội của đất nước. 1.4. Nội dung quản lý chi BHXH Quản lý chi BHXH bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây: Quản lý đối tượng được hưởng các chế độ BHXH Đối tượng được hưởng các chế độ BHXH bao gồm: - Đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng: Đối tượng này lại bao gồm hai loại: + Những người về hưu trước 1/1/1995 do NSNN đảm bảo. Hàng năm, NSNN chuyển kinh phí của đối tượng này sang quỹ BHXH, BHXH VN có trách nhiệm chi trả đến tay đối tượng được hưởng. + Đối tượng về hưu từ ngày 1/1/1995 trở đi: đối tượng này do quỹ BHXH đảm bảo. - Đối tượng hưởng chế độ tử tuất: Đối tượng này có các loại trợ cấp chính: trợ cấp tiền mai táng phí, trợ cấp tiền tuất một lần và trợ cấp tiền tuất hàng tháng cho thân nhân người bị chết theo quy định. - Đối tượng hưởng trợ cấp ốm đau và thai sản. - Đối tượng hưởng trợ cấp TNLĐ và BNN. - Từ năm 2009 trở đi có thêm đối tượng hưởng trợ cấp thất nghiệp. 1.4.2. Quản lý điều kiện hưởng và mức hưởng BHXH hàng tháng của các đối tượng được hưởng BHXH. Điều kiện và mức hưởng các chế độ BHXH được Nhà nước quy định cụ thể trong luật BHXH. Vì vậy, khi tính toán mức hưởng của từng đối tượng, cán bộ BHXH phải căn cứ vào những quy định cụ thể của luật BHXH và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật BHXH để tính toán mức hưởng cụ thể cho từng người. Điều kiện hưởng chế độ BHXH sẽ quyết định tới việc bảo toàn giá trị của quỹ BHXH từ đó quyết định tới việc cân đối quỹ. Bởi vì khi điều kiện hưởng chế độ BHXH tương đối rộng cũng có nghĩa là sẽ có nhiều đối tượng, nhiều trường hợp được thụ hưởng các chế độ BHXH. Như vậy số tiền chi từ quỹ BHXH sẽ nhiều. Ngược lại khi điều kiện hưởng BHXH chặt chẽ thì số đối tượng được thụ hưởng từ quỹ BHXH chắc chắn sẽ ít hơn. Mức hưởng cao hay thấp cũng ảnh hưởng khá nhiều đến việc cân đối quỹ BHXH. Để đánh giá mức hưởng cao hay thấp cần phải căn cứ vào mức tiền lương tiền công hoặc thu nhập làm căn cứ đóng BHXH. 1.4.3. Quản lý việc chi trả cho từng loại đối tượng hưởng các chế độ BHXH. Hiện nay theo Luật Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam tổ chức chi trả cho 5 chế độ chính thức riêng biệt bao gồm: - Chế độ hưu trí - Chế độ tử tuất - Chế độ ốm đau - Chế độ thai sản. - Chế độ TNLĐ và BNN. BHXH VN phải có trách nhiệm chi trả trợ cấp đến tay tất cả các đối tượng đủ số lượng, đảm bảo thời gian quy định. 1.4.4. Lập báo cáo quyết toán, báo cáo thống kê tình hình chi trả chế độ BHXH theo quy định của Luật Kế toán và Luật Thống kê. Thực hiện tốt việc lập các báo cáo quyết toán, báo cáo thống kê tình hình chi trả trợ cấp BHXH, đặc biệt là các chỉ tiêu thống kê... sẽ giúp cho công tác quản lý chi trả BHXH được tốt hơn. 1.5. Phân loại các đối tượng quản lý chi BHXH Đối tượng quản lý chi BHXH có thể được phân làm 3 loại như sau: - Đối tượng chi hàng tháng - Đối tượng chi một lần - Đối tượng chi ốm đau, thai sản, dưỡng sức Ngoài ra, có thể phân loại theo: - Đối tượng chi ngắn hạn: Đối tượng chi ngắn hạn là các đối tượng - Đối tượng chi dài hạn: Đối tượng chi dài hạn là các đối tượng 1.6. Điều kiện chi bảo hiểm xã hội Điều kiện chi BHXH nói lên khi nào thì quỹ BHXH phải chi trả các khoản trợ cấp BHXH cho người lao động. Đây cũng chính là các điều kiện để người lao động được hưởng các chế độ BHXH. Vậy người lao động phải có các điều kiện sau: - Thứ nhất, có tham gia đóng góp vào quỹ BHXH: ở điều kiện này tùy theo mỗi nước có những quy định khác nhau về thời gian tối thiểu tham gia đóng góp vào quỹ BHXH và tuỳ theo từng chế độ. Chẳng hạn như ở Đức để được hưởng chế độ hưu trí thì người lao động phải có thời gian đóng BHXH tối thiểu là 15 năm, Hungari là 20 năm, Trung quốc là 10 năm liên tục...; hoặc để được hưởng chế độ ốm đau thì ở Philippin người lao động phải có thời gian đóng BHXH tối thiểu là 3 tháng trong 12 tháng gần nhất, ở Thái Lan là ít nhất 90 ngày đóng BHXH trong vòng 15 tháng trước khi bị ốm... Ở Việt Nam, quy định thời gian tối thiểu tham gia BHXH để được hưởng các chế độ BHXH cụ thể như sau: + Để được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng: người lao động phải tham gia BHXH tối thiểu là 15 năm. + Khi lao động nữ sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi dưới 4 tháng tuổi, để hưởng chế độ thai sản, người lao động phải tham gia BHXH tối thiều đủ 6 tháng trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi. + Để hưởng chế độ thất nghiệp, người lao động phải tham gia BHXH tối thiều đủ 12 tháng trong thời gian 24 tháng trước khi thất nghiệp. - Thứ hai, có các biến cố xảy ra làm giảm hoặc mất thu nhập (ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, hết tuổi lao động, chết, thất nghiệp). Trên đây là hai điều kiện cơ bản nhất để người lao động được hưởng các chế độ BHXH và quỹ BHXH thực hiện chi BHXH cho người lao động. - Ngoài ra, khi đã hội đủ hai điều kiện nêu trên, người lao động cần phải có hồ sơ để hưởng các chế độ BHXH theo quy định của pháp luật. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHI TRẢ CÁC CHẾ ĐỘ BHXH 2.1. Các quy phạm pháp luật điều chỉnh - Nghị định 100/2002/NĐ-CP ngày 6/12/2002 của Chính Phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH VN; - Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 và Nghị định số 45/CP này 15/7/1995 của Chính phủ; - Nghị định số 94/1999/NĐ-CP ngày 8/9/1999 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ BHXH ban hành đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và Công an nhân dân ban hành kèm theo Nghị định 45/CP ngày 15/7/1995 của Chính phủ; - Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 9/1/2003 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995; - Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn; - Nghị định số 41/NĐ-CP ngày 11/4/2002 của Chính phủ về chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước; - Quyết định số 02/2003/QĐ-TTg ngày 2/1/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý tài chính đối với BHXH VN. - Các Nghị định của Chính phủ quy định về mức tiền lương tối thiểu chung: + Nghị định số 27/CP ngày 23/5/1993 quy định mức lương tối thiểu là 120.000đồng, được thực hiện từ 1/6/1993. + Nghị định số 06/CP ngày 21/1/1997 quy định mức lương tối thiểu là 144.000đồng, được thực hiện từ 1/1/1997. + Nghị định số 175/CP ngày 15/12/1999 quy định mức lương tối thiểu là 180.000đồng, được thực hiện từ 1/1/2000. + Nghị định số 77/CP ngày 15/12/2000 quy định mức lương tối thiểu là 210.000đồng, được thực hiện từ 1/1/2001. + Nghị định số 03/CP ngày 15/1/2003 quy định mức lương tối thiểu là 290.000đồng, được thực hiện từ 1/1/2003. + Nghị định số /CP ngày quy định mức lương tối thiểu là 450.000đồng, được thực hiện từ . + Nghị định số /CP ngày quy định mức lương tối thiểu là 540.000đồng, được thực hiện từ 1/1/2008. - Nghị định số 31/2004/NĐ-CP ngày 19/1/2004 của Chính phủ về việc điều chỉnh mức lương hưu của người nghỉ hưu trước tháng 4/1993; - Nghị định số 208/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chỉnh phủ về việc điều chỉnh mức lương h
Luận văn liên quan