Bước sang thế kỷ XXI, khi xu thế toàn cầu hóa kinh tế, hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng tiến triển sâu rộng, Đại hội IX của
Đảng cộng sản Việt Nam đã quyết định “Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội thời kỳ 2001 – 2010 là chiến lược đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, theo định hướng XHCN, xây dựng nền tảng để
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”.
Trong đó, đã xác định một trong những mục tiêu phát triển cụ thể là:
Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000, đẩy mạnh xuất
khẩu, nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu gấp trên 2 lần nhịp độ tăng
GDP.
Để cụ thể hóa những định hướng nêu trong Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2001 – 2010 của Đảng, Bộ thương mại
(nây là Bộ Công Thương) đã xây dựng “Chiến lược phát triển xuất
nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010”, đề ra những định hướng và biện
pháp cụ thể để phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Trong đó, đã đề ra mục tiêu phấn đầu đạt tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu hàng hóa bình quân trong thời kỳ 2001 – 2010 tăng
15%/năm, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu hàng hóa tăng bình quân
14%/năm, đến năm 2008 cân bằng xuất nhập khẩu hàng hóa và phấn
đầu đạt xuất siêu 1 tỉ USD vào năm 2010.
Trong 5 năm đầu thực hiện Chiến lược phát triển xuất nhập
khẩu thời kỳ 2001- 2010, một số chỉ tiêu phát triển đã đề ra trong
Chiến lược không phù hợp với thực tiễn phát triển xuất nhập khẩu
biến đổi nhanh trong quá trình hội nhập . Để phù hợp với bối cảnh
mới của quốc tế và trong nước và đón bắt cơ hội phát triển nhanh khi
Việt Nam gia nhập WTO, tham gia các khu vực thương mại tự do
(FTA), ngày 30 tháng 06 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã ký
Quyết định số 156/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án phát triển
xuất khẩu giai đoạn 2006 – 2010. Trong đó, đã đề ra mục tiêu phấn
đấu đạt tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân
17,5%/năm trong giai đoạn 2006 – 2010, đến năm 2010 đạt kim
ngạch 72,5 tỉ USD, đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu dịch vụ bình
quân 16,3%/năm, đến năm 20210 đạt giá trị xuất khẩu khoảng 12 tỉ
USD. Tiến tới cân bằng xuất – nhập khẩu vào những năm đầu sau
năm 2010. Đến năm 2010, xuất khẩu các mặt hàng nông lâm thủy
2
sản chiếm khoảng 13,7, nhóm hàng nhiên liệu – khoáng sản chiếm
khoảng 9,6%, nhóm hàng công nghiệp và công nghệ cao chiếm
khoảng 54% và nhóm hàng hóa khác chiếm 22% trong tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng hóa. Về cơ cấu thị trường xuất khẩu, đến năm
20210 xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Châu Âu chiếm 23%, thị
trường Châu Á chiếm khoảng 45%, thị trường Châu Mỹ chiếm
khoảng 24%, thị trường Châu Đại Dương chiếm 5% và các thị
trường khác chiếm 3%.
40 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2362 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đánh giá tình hình thực hiện chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam thời kỳ 2011 – 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ CÔNG THƯƠNG
Dự án Hỗ trợ thương mại đa biên EU – Việt Nam
Hoạt động CB - 2A “Hỗ trợ Bộ Công Thương xây dựng
chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2011 - 2020
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
Báo cáo chuyên đề
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC
PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU
HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ 2011 – 2020
Thực hiện chuyên đề: Đinh Thị Bích Liên
Viện Nghiên cứu thương mại – Bộ Công Thương
Hà Nội, 11 - 2010
1
Lời mở đầu
Bước sang thế kỷ XXI, khi xu thế toàn cầu hóa kinh tế, hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng tiến triển sâu rộng, Đại hội IX của
Đảng cộng sản Việt Nam đã quyết định “Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội thời kỳ 2001 – 2010 là chiến lược đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, theo định hướng XHCN, xây dựng nền tảng để
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”.
Trong đó, đã xác định một trong những mục tiêu phát triển cụ thể là:
Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000, đẩy mạnh xuất
khẩu, nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu gấp trên 2 lần nhịp độ tăng
GDP.
Để cụ thể hóa những định hướng nêu trong Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2001 – 2010 của Đảng, Bộ thương mại
(nây là Bộ Công Thương) đã xây dựng “Chiến lược phát triển xuất
nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010”, đề ra những định hướng và biện
pháp cụ thể để phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Trong đó, đã đề ra mục tiêu phấn đầu đạt tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu hàng hóa bình quân trong thời kỳ 2001 – 2010 tăng
15%/năm, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu hàng hóa tăng bình quân
14%/năm, đến năm 2008 cân bằng xuất nhập khẩu hàng hóa và phấn
đầu đạt xuất siêu 1 tỉ USD vào năm 2010.
Trong 5 năm đầu thực hiện Chiến lược phát triển xuất nhập
khẩu thời kỳ 2001- 2010, một số chỉ tiêu phát triển đã đề ra trong
Chiến lược không phù hợp với thực tiễn phát triển xuất nhập khẩu
biến đổi nhanh trong quá trình hội nhập . Để phù hợp với bối cảnh
mới của quốc tế và trong nước và đón bắt cơ hội phát triển nhanh khi
Việt Nam gia nhập WTO, tham gia các khu vực thương mại tự do
(FTA), ngày 30 tháng 06 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã ký
Quyết định số 156/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án phát triển
xuất khẩu giai đoạn 2006 – 2010. Trong đó, đã đề ra mục tiêu phấn
đấu đạt tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân
17,5%/năm trong giai đoạn 2006 – 2010, đến năm 2010 đạt kim
ngạch 72,5 tỉ USD, đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu dịch vụ bình
quân 16,3%/năm, đến năm 20210 đạt giá trị xuất khẩu khoảng 12 tỉ
USD. Tiến tới cân bằng xuất – nhập khẩu vào những năm đầu sau
năm 2010. Đến năm 2010, xuất khẩu các mặt hàng nông lâm thủy
2
sản chiếm khoảng 13,7, nhóm hàng nhiên liệu – khoáng sản chiếm
khoảng 9,6%, nhóm hàng công nghiệp và công nghệ cao chiếm
khoảng 54% và nhóm hàng hóa khác chiếm 22% trong tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng hóa. Về cơ cấu thị trường xuất khẩu, đến năm
20210 xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Châu Âu chiếm 23%, thị
trường Châu Á chiếm khoảng 45%, thị trường Châu Mỹ chiếm
khoảng 24%, thị trường Châu Đại Dương chiếm 5% và các thị
trường khác chiếm 3%.
Trong 10 năm thực hiện “Chiến lược phát triển xuất nhập
khẩu thời kỳ 2001 – 2010” và “Đề án phát triển xuất khẩu giai
đoạn 2006 – 2010”, tình hình đất nước và quốc tế có nhiều biến đổi,
nước ta có nhiều thuận lợi cũng nhưng cũng gặp phải nhiều khó
khăn, thách thức. Để cụ thể hóa những định hướng phát triển trong
dự thảo Chiến lược phát triển – kinh tế xã hội 2011 – 2020, Thủ
tướng Chính phủ đã có công văn số 316/TTg-KTTH ngày 2/3/2009
về việc giao cho Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ,
ngành địa phương tiến hành tổng kết toàn diện Chiến lược xuất nhập
khẩu thời kỳ 2001 – 2010 để xây dựng Chiến lược xuất nhập khẩu
thời kỳ 2011 – 2020.
Để góp phần thực hiện nhiệm vụ quan trọng nêu trên, chuyên
đề nghiên cứu này được thực hiện nhằm cung cấp luân cứ khoa học
cho việc xây dựng Đề án Chiến lược phát triển XNK thời kỳ 2011 –
2020.
Nội dung chuyên đề gồm 2 phần:
I. Khái quát tình hình thực hiện Chiến lược phát triển
XNK thời kỳ 2001 – 2010.
II. Đánh giá thực trạng phát triển XNK thời kỳ 2001 –
2010 của Việt Nam
3
I. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT
NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2001 – 2010
1. Tình hình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
thời kỳ 2001 – 2010 tác động đến xuất nhập khẩu
Đại hội lần thứ IX của Đảng đã quyết định chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội cho 10 năm đầu của thế kỷ thứ XXI – chiến
lược đầy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp. Trong đó, đã xác định các mục tiêu
chiến lược chủ yếu: Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao, đưa
GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000, trong đó tỉ trọng của
công nghiệp chiếm 40 – 41%, nhịp độ tăng trưởng giá trị gia tăng
công nghiệp bình quân đạt 10 – 10,5%/năm, nâng cao rõ rệt hiệu quả
và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế, cán
cân thanh toán quốc tế lành mạnh và tăng dự trữ ngoại tệ; tích lũy
nội bộ nền kinh tế đạt trên 30%, bội chi ngân sách, lạm phát, nợ
nước ngoài được kiểm soát trong giới hạn an toàn. Đối với xuất nhập
khẩu hàng hóa, Chiến lược cũng đề ra mục tiêu: nhịp độ tăng xuất
khẩu gấp 2 lần nhịp độ tăng GDP; kim ngạch xuất khẩu nông, lâm,
thủy sản đạt 9 - 10 tỉ USD, trong đó thủy sản khoảng 3,5 tỉ USD, giá
trị xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chiếm 70 – 75% tổng kim ngạch
xuất khẩu, chế biến hầu hết nông sản xuất khẩu…
1.1 Những thành tựu chủ yếu
Trong 10 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2001 – 2010, chúng ta đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều
khó khăn, thách thức, nhất là những tác động bất lợi của hai cuộc
khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực, toàn cầu, đạt được những
thành tựu to lớn và rất quan trọng. Nhiều mục tiêu của chiến lược
2001 – 2010 đã được thực hiện:
(1) Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức khá cao, kinh tế vĩ mô tương
đối ổn định, đã tạo cơ sở quan trọng cho phát triển xuất nhập khẩu.
Thời kỳ 2001 – 2010, GDP tăng bình quân 7,2%/năm, riêng năm
2007 (ngay sau khi gia nhập WTO) tăng 8,5%. Các năm 2008 –
2010 là giai đoạn rất khó khăn do biến động mạnh của kinh tế thế
giới bước vào chu kỳ suy thoái và tác động mạnh của khủng hoảng
4
tài chính toàn cầu, nhưng tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam vẫn
ở mức khá cao, năm 2008 đạt 6,23%, năm 2009 đạt 5,3% và năm
2010 dự ước đạt khoảng 6,7% (năm 2009 kinh tế thế giới tăng
trưởng -5,4%). Như vậy, nền kinh tế đã tạo lập và duy trì được mức
tăng trưởng cao, tạo cơ sở cho phát triển xuất nhập khẩu, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Cơ cấu kinh tế đã bước đầu chuyển dịch theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Tỉ trọng của công nghiệp và xây dựng trong GDP
đã tăng từ 36,7% năm 2000 lên 41 – 42% trong các năm 2007 –
2010, tỉ trọng của nông nghiệp giảm từ 24,5% xuống còn khoảng
20% trong thời gian tương ứng, tỉ trọng của khu vực dịch vụ dao
động ở mức 38 – 39%. Các vùng kinh tế trọng điểm và sản xuất
hàng hóa tập trung bước đầu hình thành, tỉ suất hàng hóa được nâng
cao, chất lượng được cải thiện. Thị trường đồng bộ bước đầu được
hình thành, góp phần hỗ trợ về vốn, lao dộng và các yếu tố đầu vào
cho quá trình sản xuất kinh doanh… Nguồn lực quốc tế trong dân và
quốc tế được huy động tốt làm cho hoạt động đầu tư sôi động, góp
phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế. Vốn đầu tư toàn xã hội
tăng cao, bằng khoảng 41% GDP, trong đó vốn trong nước chiếm
khoảng 65%. Chính trị và an ninh xã hội được giữ ổn định, tạo điều
kiện thuận lợi cho thu hút đầu tư và phát triển kinh tế .
Kết quả tổng hợp của tăng trưởng và phát triển kinh tế là đã sớm
đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước và nhóm
nước đang phát triển có thu nhập trung bình từ năm 2008 (sớm 2
năm so với mục tiêu chiến lược), với mức GDP theo đầu người đạt
975 USD1. Năm 2010 qui mô GDP ước đạt 108 tỉ USD, gấp 3,53 lần
năm 2000 (30,57 tỉ USD), mức GDP bình quân đầu người đạt 1200
USD (vượt mục tiêu đã đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2001 – 2010).
Hệ số co dãn giảm nghèo có xu hướng giảm liên tục từ mức
0,28% trong các năm 2000 – 2004 xuống 0,16 trong 2 năm 2007 –
2008 và khoảng 0,12% vào năm 2010.
(2) Vị thế của nền kinh tế và thương mại Việt Nam trong kinh tế
toàn cầu đã ngày càng được nâng cao
1 Theo tiêu chuẩn của Liên Hợp Quốc, mức GDP bình quân đầu người đạt hơn 900 USD là đạt mục tiêu nước
đang phát triển có thu nhập trung bình
5
Tỉ lệ đóng góp của Việt Nam vào tổng GDP toàn cầu đã tăng từ
0,09% năm 2000 lên 0,17% năm 2009 và khoảng 0,18% năm 2010.
Thứ hạng về tăng trưởng GDP của Việt Nam trong Bảng xếp hạng
tăng trưởng GDP toàn cầu có xu hướng ngày càng cao2.
Việt Nam có vai trò đóng góp ngày càng lớn đối với chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa của khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương. Tỉ trọng giá trị gia tăng toàn ngành công nghiệp
(MVA) của Việt Nam trong tổng MVA toàn khu vực đã tăng từ
0,4% năm 1995 lên 0,7% năm 2005 và ước khoảng 0,9% năm 2010.
Tỉ trọng thương mại quốc tế của Việt Nam trong tổng giá trị
thương mại toàn câu ngày càng tăng. Đến năm 2009, thương mại
hàng hóa của Việt Nam đã chiếm 0,49% tổng giá trị thương mại
hàng hóa toàn cầu, riêng xuất khẩu hàng hóa chiếm 0,45%, nhập
khẩu hàng hóa chiếm 0,54%; thương mại dịch vụ chiếm 0,28% tổng
giá trị thương mại toàn cầu.
Nước ta cũng có vị thế ngày càng cao trong việc cung cấp các sản
phẩm thiết yếu cho thị trường thế giới, đóng góp ngày càng lớn vào
bảo đảm an ninh lương thực và an ninh năng lượng toàn cầu. Đến
năm 2007, nhóm hàng chế biến xuất khẩu của ta đã chiếm trên
0,28% thị phần toàn cầu, các nhóm hàng thô và sơ chế chiếm trên
0,72% (riêng điều nhân chiếm khoảng 50%, hồ tiêu chiếm 45%, cà
phê chiếm 16 – 18%, cao su thiên nhiên chiếm 8 – 10%, chè chiếm
5-6%, thủy sản chiếm 4 – 5%, đồ gỗ chiếm 2 – 3%). Cùng với việc
bảo đảm vững chắc an ninh lương thực, thị phần của ta trong tổng
khối lượng xuất khẩu gạo toàn cầu có xu hướng ngày càng lớn, thời
kỳ 2001 – 2010 chiếm khoảng 16 – 18%, phản ánh sự đóng góp của
Việt Nam vào bảo đảm an ninh lượng thực toàn cầu rất lớn. An ninh
năng lượng được đảm bảo, tỉ trọng giá trị sản lượng điện của Việt
Nam trong giá trị tổng sản lượng điện toàn cầu đã tăng từ 0,19%
trong thời kỳ 1996 – 2006 lên 0,30% trong giai đoạn 2006 – 2010.
Thị phần của hãng hàng không quốc gia Việt Nam trên thị trường
vận tải hành khách bằng đường hàng không toàn cầu cũng ngày càng
tăng, từ 0,37% năm 2001 lên 0,67% năm 2007 và ước khoảng 0,85%
trong năm 2010 (nếu tính riêng các nước Đang phát triển thì thị phần
của ta đã chiếm 3,6%). Tỉ trọng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ du lịch
2 Theo WB và UNIDO, trong Bgảng xếp hạng các nền kinh tế thế giới, trong thời kỳ 1986 – 2006, Việt Nam
đã thay đỏi được 17 bậc, từ vị trí thứ 95 lên vị trí thứ 78.
6
của ta trong tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ du lịch toàn cầu tăng
dần từ 0,21% năm 2006 lên khoảng 0,27% năm 2010.
Qui mô thị trường bán lẻ Việt Nam đã lớn gấp gần 3 lần sau 10
năm, từ khoảng 20 tỉ USD năm 2000 và dự ước sẽ đạt khoảng 55 –
56 tỉ USD trong năm 2010. Tốc độ tăng trưởng thị trường bán lẻ
Việt Nam vào loại cao nhất thế giới và mức độ hấp dẫn đầu tư về
phát triển hệ thống bán lẻ hiện đại ở Việt Nam đang đưmgs đầu thế
giới.
(3) Xuất nhập khẩu hàng hóa phát triển nhanh, đóng vai trò là
một động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế
Nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu thời kỳ 2001 – 2010 đạt bình quân
17,3%/năm, gấp 2,4 lần nhịp độ tăng trưởng GDP trong cùng thời kỳ
(7,21%/năm). Trong đó, giai đoạn 2001 – 2005 nhịp độ tăng trưởng
xuất khẩu đạt bình quân 19,15%/năm, gấp 2,55 lần nhịp độ tăng
trưởng GDP (7,5%/năm); giai đoạn 2006 – 2010, nhịp độ tăng
trưởng xuất khẩu đạt bình quân 17% (dự ước năm 2010 tăng 24%,
kim ngạch đạt 71 tỉ USD), gấp 2,46 lần nhịp độ tăng trưởng GDP
(6,92%/năm).
Trong điều kiện mô hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào
tăng trưởng đầu tư, thì xuất nhập khẩu là một kênh dẫn xuất đầu tư
chủ yếu và có vai trò ngày càng lớn đối với tăng trưởng kinh tế. Tỉ lệ
giữa kim ngạch XNK so với GDP đã tăng từ 90% năm 2001 lên
155% năm 2008 và khoảng 140% năm 2010. Phần chủ yếu trong
tổng giá trị nhập khẩu hàng năm các nguyên nhiên vật liệu, máy
móc, thiết bị và công nghệ được đầu tư cho phát triển sản xuất, trong
đó, có sản xuất hàng xuất khẩu để đóng góp vào tăng trưởng kinh tế.
Trong giai đoạn 2001 – 2005, tỉ trọng của nhóm hàng này chiếm
khoảng 50% tổng kim ngạch nhập khẩu và bằng khoảng 40% GDP;
nhưng trong giai đoạn 2006 – 2010 đã tăng mạnh, chiếm khoảng
70% tổng kim ngạch nhập khẩu và bằng 60% GDP (riêng năm 2006
các chỉ số này là 56,4% KNNK và bằng 48,8% GDP, năm 2008 tăng
lên 74,7% KNNK và bằng 65,1% GDP).
Trong thời kỳ 2001 – 2010, xuất khẩu tiếp tục là một động lực
tăng trưởng của khu vực kinh tế nông nghiệp nông thôn, góp phần
tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo
hướng công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. Năm 2005, kim ngạch
7
xuất khẩu hàng nông, lâm, thủy sản đã đạt 8,5 tỉ USD, gấp 2,1 lần
năm 2001 (4,0 tỉ USD); đến năm 2010 dự ước đạt trên 16 tỉ USD,
vượt mục tiêu Chiến lược khoảng 6 tỉ USD; riêng xuất khẩu thủy sản
dự ước năm 2010 đạt trên 4 tỉ USD (6 tháng đầu năm đạt 2,01 tỉ
USD). Xuất khẩu cũng là động lực tăng trưởng chính của khu vực
công nghiệp, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành công
nghiệp hướng về xuất khẩu. Trong một thời gian dài, công nghiệp
Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao, bình quân thời kỳ 2001 – 2010
đạt trên 15%/năm. Giá trị gia tăng công nghiệp luôn tăng cao hơn
tốc độ tăng GDP khoảng 1,4 lần, đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân
11,0%/năm )vượt mục tiêu 10 – 10,5%/năm). Tỉ trọng hàng công
nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng từ 71% năm 2000
lên 76,3% năm 2007 và dự ước chiếm khoảng 77,5% trong năm
2010.
Xem xét mối quan hệ giữa xuất nhập khẩu với tăng trưởng kinh tế
về phía cầu của nền kinh tế thời kỳ 2001 – 2010, cho thấy, đã có sự
dịch chuyển mạnh các cấu thành tổng cầu về đòng góp cho tăng
trưởng GDP (thực) trong giai đoạn 2005 – 2010, nhất là trong hai
năm 2007 – 2008. Năm 2005, tiêu dùng đóng góp 62,64%, tích lũy
tài sản đóng góp 46,98% và xuất khẩu ròng đóng góp 18,58% vào
tăng trưởng GDP (trong đó xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp
-65,7%, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp 84,28%); các chỉ
số tương ứng của năm 2007 là 88,54%; 124,1% và -156,86%, của
năm 2008 là 92,52%, 73,52% và -68,87%. Trong giai đoạn 2005 –
2009, đã có sự đảo chiều vai trò của xuất và nhập khẩu đối với tăng
trưởng kinh tế. Nếu như năm 2005, mức đóng góp xuất khẩu hàng
hóa và dịch vụ vào tăng trưởng kinh tế là một số âm (-65,7%) còn
đóng góp của nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ là một số dương
(84,28%) thì từ năm 2006 đóng góp của xuất khẩu luôn là số dương
(năm 2006: 112,74%, năm 2007: 77,79%, năm 2008: 62,49% và
năm 2009 là 34) còn đóng góp của nhập khẩu luôn là một số âm
(năm 2006: -131,64%, năm 2007: -234,65%, năm 2008: -131,3%).
(4) Sự chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã có tác động tích cực,
nhiều mặt đến tăng trưởng kinh tế và xuất nhập khẩu hàng hóa
Nhờ hội nhập KTQT sâu rộng hơn, các rào cản thương mại giảm
đáng kể nên Việt Nam đã mở rộng được thị phần sang các thị trường
lớn, tăng kim ngạch xuất khẩu. Đặc biệt từ sau năm 2007, dưới hiệu
8
ứng của việc gia nhập WTO, lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam được cải thiện, dòng chảy đầu tư trực tiếp và gián tiếp
của nước ngoài vào Việt Nam đã tăng đáng kể. Nhờ đó, sản lượng
các ngành kinh tế theo định hướng xuất khẩu tăng, góp phần quan
trọng vào tăng trưởng GDP. Đóng góp của khu vực FDI đối với nền
kinh tế quốc dân có xu hướng ngày càng lớn. Đến năm 2008, khu
vực FDI đã chiếm 41% vốn đầu tư xã hội, gần 20% GDP, 45%
GTSXCN, 57% kim ngạch xuất khẩu, 31% kim ngạch nhập khẩu .
Dự ước năm 2010, khu vực FDI chiếm khoảng 47% kim ngạch xuất
khẩu và 44% kim ngạch nhập khẩu.
Đánh giá tổng quát, phần lớn các mục tiêu chủ yếu đề ra trong
chiến lược kinh tế - xã hội 2001 – 2010 đã được thực hiện, một số
chỉ tiêu đạt sớm và vượt mức đề ra. Nền kinh tế có bước phát triển
mới, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, hội nhập KTQT ngày càng
sâu rộng và hiệu quả hơn, diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, thế
và lực của ta vững mạnh thêm nhiều, vị thể của nền kinh tế nước ta
trong kinh tế toàn cầu được nâng lên, tạo tiền đề quan trọng để đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.2 Những hạn chế, yếu kém
Trình độ phát triển kinh tế của nước ta vẫn còn thấp xa so với
mức trung bình của thế giới và kém nhiều nước xung quanh. Kinh tế
phát triển chưa bền vững, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu
quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, các cân đối kinh tế vĩ
mô chưa thật vững chắc… ảnh hưởng lớn đến qui mô và chất lượng
tăng trưởng xuất nhập khẩu.
Các yếu kém, bất cập chủ yếu của nền kinh tế tác động mạnh
đến xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010 là:
(1) Nền kinh tế phát triển theo chiều rộng, tăng trưởng dựa vào
đầu tư và xuất khẩu, nhưng đầu tư và xuất khẩu lại phụ thuộc vào
nhập khẩu vốn và hàng hóa của nước ngoài
Mô hình phát triển nền kinh tế đang chủ yếu dựa vào khai thác
tài nguyên là chủ yếu, mới khai thác lợi thế so sánh mà ít dựa vào lợi
thế cạnh tranh, chưa chuyển mạnh lên khai thác kỹ thuật để phát
triển theo chiều sâu, tăng năng suất lao động, tăng sức cạnh tranh
của sản phẩm. Tỉ lệ khai thác năng lượng trong tổng thu nhập quốc
gia (GNP) có xu hướng tăng nhanh từ 10% - 16% trong giai đoạn
9
2001 – 2005 lên 17 – 20% trong giai đoạn 2006 – 2010 (chỉ số này
của Ấn Độ trong thời kỳ tương ứng chỉ dao động ở mức 3 – 4 %).
Mức tiết kiệm năng lượng của toàn ngành công nghiệp rất thấp: -
3,4% (của Trung Quốc trong cùng thời kỳ là +3,5%). Trong các
động năng tăng trưởng của nền kinh tế của cả thời kỳ, yếu tố tăng
năng suất lao động chỉ đóng góp gần 30% còn yếu tố vốn đóng góp
khoảng 50% và yếu tố lao động đóng góp 20% (các chỉ số tương ứng
của Ấn Độ trong cùng thời kỳ là 36%, 40% và 24%). Chỉ số tăng
năng suất lao động tổng hợp (TFP) có xu hướng giảm mạnh từ
4,31%/năm trong giai đoạn 1991 – 1995 xuống 2,56% trong giai
đoạn 1996 – 2000 và tiếp tục giảm xuống 1,7 – 1,8% trong thời kỳ
2001 – 2010 (riêng năm 2000 là 0,28% và năm 2006 là 2,7%)3. Vì
thế, nội năng tăng trưởng của nền kinh tế chậm được nâng lên,
nguồn tài nguyên nhanh bị cạn kiệt, ảnh hưởng đến tính bền vững
của nền kinh tế.
(2) Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và toàn nền
kinh tế trong cạnh tranh toàn cầu còn yếu, chậm được nâng lên.
Máy móc, thiết bị và công nghệ là yếu tố chính tạo ra năng suất lao
động và hình thành sức cạnh tranh của sản phẩm, nhưng trong điều
kiện 90% nhóm sản phẩm này cho nhu cầu trong nước phải nhập
khẩu thì tỉ trọng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này trong tổng
KNNK hàng hóa lại có xu hướng giảm mạnh, từ 31,5% năm 2000
xuống 14,7% năm 2006, nhích lên 17% năm 2008 và ước đạt 18%
năm 2010. Tốc độ đối với máy móc, thiết bị chưa đạt yêu cầu phát
triển, ước đạt dưới 10%/năm. Tỉ lệ đầu tư cho R&D trong tổng
doanh thu của các doanh nghiệp chỉ đạt bình quân 0,1 – 0,2%, các
ngành công nghiệp công nghệ cao và công nghệ mũi nhọn, tỉ lệ này
cũng chỉ đạt 0,2 – 0,25% (tỉ lệ này của Ấn Độ năm 2002 đã đạt 5%,
của Hàn Quốc năm 2000 là 10%). Cũng trong thời kỳ 2001 – 2010,
tỉ trọng của một số ngành công nghiệp chế biến sử dụng nhiều kỹ
thuật trong tổng giá trị tăng thêm của toàn ngành công nghiệp vẫn
rất nhỏ và chậm đư