Chuyên đề Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trong lĩnh vực thăm dò khai thác dầu khí tại tập đoàn dầu khí Việt Nam

Đất nước ta đang trong giai đoạn quá độ tiến lên XHCN, xây dựng cơ sở vật chất cho XHCN, trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta đã có những sự thay đổi rất cơ bản. Đại hội Đảng lần thứ VIII đã khẳng định: Để tiến lên XHCN, chúng ta phải thực hiện CNH-HĐH đất nước. Để có một cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức mạnh và hoạt động có hiệu quả thì các nhân tố nội tại trong cơ cấu đó (các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp) phải phát huy và hoạt động hết khả năng của mình. Dầu khí là một ngành công nghiệp non trẻ, tuy mới ra đời song đã sớm trưởng thành và khẳng định mình trong nền kinh tế quốc dân. Hiện nay ngành Dầu khí đã thực sự trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn, góp phần trong sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. Xuất phát từ những định hướng lớn về phát triển kinh tế gian đoạn 2001-2010 mà ĐCS Việt Nam và Nhà nước đã vạch ra, Tập đoàn dầu khí Việt Nam trong nhiều năm qua luôn theo một quan điểm xuyên suốt đó là phát triển ngành Dầu khí Việt Nam trên cơ sở tăng cường sức mạnh từ bên trong. Thách thức lớn nhất đặt ra trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới là vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành, để làm được điều đó phải tích cực nâng cao hiệu quả các hoạt động đầu tư của Tập đoàn nói chung và các hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Tập đoàn nói riêng.

doc72 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1937 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trong lĩnh vực thăm dò khai thác dầu khí tại tập đoàn dầu khí Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu Đất nước ta đang trong giai đoạn quá độ tiến lên XHCN, xây dựng cơ sở vật chất cho XHCN, trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta đã có những sự thay đổi rất cơ bản. Đại hội Đảng lần thứ VIII đã khẳng định: Để tiến lên XHCN, chúng ta phải thực hiện CNH-HĐH đất nước. Để có một cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức mạnh và hoạt động có hiệu quả thì các nhân tố nội tại trong cơ cấu đó (các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp) phải phát huy và hoạt động hết khả năng của mình. Dầu khí là một ngành công nghiệp non trẻ, tuy mới ra đời song đã sớm trưởng thành và khẳng định mình trong nền kinh tế quốc dân. Hiện nay ngành Dầu khí đã thực sự trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn, góp phần trong sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. Xuất phát từ những định hướng lớn về phát triển kinh tế gian đoạn 2001-2010 mà ĐCS Việt Nam và Nhà nước đã vạch ra, Tập đoàn dầu khí Việt Nam trong nhiều năm qua luôn theo một quan điểm xuyên suốt đó là phát triển ngành Dầu khí Việt Nam trên cơ sở tăng cường sức mạnh từ bên trong. Thách thức lớn nhất đặt ra trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới là vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành, để làm được điều đó phải tích cực nâng cao hiệu quả các hoạt động đầu tư của Tập đoàn nói chung và các hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Tập đoàn nói riêng. Trong thời kì kinh tế có nhiều biến động như hiện nay, với mục tiêu đáp ứng nhu cầu an ninh năng lượng quốc gia, những năm gần đây, Tập đoàn đã không ngừng đẩy mạnh hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Vì vậy, nghiên cứu phân tích tình hình đầu tư ra nước ngoài của Tập đoàn là một điều cần thiết, để từ đó có thể đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động đầu tư này. Dưới sự hướng dẫn của thầy cô Khoa Đầu tư, em đã lựa chọn đề tài: “Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trong lĩnh vực thăm dò khai thác dầu khí tại Tập đoàn dầu khí Việt Nam. Thực trạng và giải pháp.” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý tận tình của thầy, cô giáo và các bạn để khắc phục những sai sót không thể tránh khỏi do sự hạn chế về kiến thức cũng như những hiểu biết thực tế của bản thân, để em có thể hoàn thiện hơn. Chương 1 : Lý luận chung về hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong ngành dầu khí 1.1 Lý luận chung về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 1.1.1 Khái niệm của hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp Đầu tư nói chung là sự bỏ ra hay sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để thực hiện các hoạt động nhằm đạt được các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra. Đầu tư phát triển là một bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất ( nhà xưởng, thiết bị…) và tài sản trí tuệ ( tri thức, kĩ năng…), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển. Đầu tư phát triển đòi hỏi rất lớn nhiều loại nguồn lực. Theo nghĩa hẹp, nguồn lực sử dụng cho đầu tư phát triển là tiền vốn. Theo nghĩa rộng, nguồn lực đầu tư bao gồm cả tiền vốn, đất đai, lao động, máy móc, thiết bị, tài nguyên. Đối với một doanh nghiệp, đầu tư phát triển thể hiện qua việc chi dùng vốn cùng với các nguồn lực đã có trong hiện tại nhằm duy trì sự hoạt động và làm tăng thêm tài sản, tạo việc làm và nâng cao đời sống của các thành viên trong doanh nghiệp. Đó là việc doanh nghiệp bỏ tiền ra để xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm máy móc trang thiết bị, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực nhằm duy trì năng lực sản xuất hiện có và tạo ra năng lực sản xuất mới cho doanh nghiệp. Chính hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp là điều kiện để doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phầm, chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao khả năng cạnh tranh, qua đó tăng lợi nhuận của doanh nghiệp, nâng cao đời sống của người lao động… 1.1.2 Nội dung đầu tư phát triển trong doanh nghiệp. Trên góc độ nền kinh tế, đầu tư phát triển là làm gia tăng tài sản cho nền kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân. Trong doanh nghiệp, hoạt động đầu tư phát triển nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành để nâng cao khả năng cạnh tranh. Đồng thời tăng năng suất lao động, cải tiến công nghệ và phát triển các loại hàng hoá dịch vụ mới để thoả mãn những đòi hỏi của thị trường, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng đòi hỏi ngày càng cao cũng như đối phó với các đối thủ cạnh tranh tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Nội dung của hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp cụ thể ở một số lĩnh vực sau: 1.1.2.1 Hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản. - Đầu tư mua sắm máy móc thiết bị: mua sắm máy móc thiết bị mới. Nâng cấp, sửa chữa, bảo trì, bảo dưỡng máy móc. - Đầu tư xây dựng hệ thống của hàng: xây dựng của hàng mới, sửa chữa nâng cấp cửa hang cũ. - Đầu tư xây dựng hệ thống nhà xưởng, công trình: xây dựng mới nhà xưởng công trình. Nâng cấp, cải tạo, sửa chữa nhà xưởng công trình cũ. 1.1.2.2 Đầu tư phát triển nguồn nhân lực Hiện nay các doanh nghiệp thường đầu tư vào nguồn nhân lực thông qua các hoạt động sau: - Đầu tư đào tạo nguồn nhân lực: Trang bị kiến thức phổ thông, chuyên nghiệp và kiến thức quản lý cho người lao động. Việc đào tạo được thể hiện ở hai cấp độ : Đào tạo phổ cập: nhằm phổ cập những kiến thức cơ bản cho người lao động để họ có thể có được những hiểu biết và nắm được những thao tác cơ bản trong quá trình lao động sản xuất. Đào tạo chuyên sâu: nhằm hình thành nên đội ngũ cán bộ giỏi, cán bộ đầu ngành trong  từng lĩnh vực để họ có đủ năng lực, kiến thức và khả năng tư duy, suy nghĩ độc lập sáng tạo và làm việc trong những tình huống khó khăn phức tạp hơn. - Đầu tư phát triển đời sống người lao động: Đảm bảo chế độ trả lương hợp lý. Lập các quỹ khen thưởng, quỹ bảo hiểm xã hội  để khuyến khích cán bộ công nhân viên không ngừng nâng cao tay nghề, phát huy sáng kiến… từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lập các quỹ phúc lợi để hỗ trợ người lao động khi gặp khó khăn, để giúp họ yên tâm sản xuất. 1.1.2.3 Đầu tư cho nghiên cứu khoa học công nghệ: Đầu tư nghiên cứu khoa học công nghệ là lĩnh vực đầu tư không thể thiếu được của các doanh nghiệp kinh doanh nói. Nghiên cứu khoa học và công nghệ giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, đảm bảo sức mạnh và vị trí cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Hoạt động đầu tư cho nghiên cứu khoa học công nghệ bao gồm: - Đầu tư chuyển giao công nghệ với bên ngoài ( có thể là doanh nghiệp trong nước hoặc nước ngoài ). - Đầu tư cho nghiên cứu, phát triển khoa học công nghệ trong doanh nghiệp. 1.1.2.4 Đầu tư vào hàng tồn trữ: Hàng dự trữ trong doanh nghiệp là toàn bộ nguyên vật liệu, bán thành phẩm, các chi tiết phụ tùng và sản phẩm được dự, thường chiếm tỷ trọng lớn trong tài sản của doanh nghiệp. Tùy theo loại hình doanh nghiệp, quy mô và cơ cấu các mặt hàng tồn trữ cũng khác nhau. Việc xác định quy mô đầu tư hàng tồn trữ tối ưu cho doanh nghiệp là rất cần thiết, có như vậy mới có thể đảm bảo sự liên kết chặt chẽ giữa các khâu, các giai đoạn trong quá trình sản xuất; đảm bảo kịp thời nhu cầu của khách hàng trong bất cứ thời điểm nào. 1.1.2.5 Đầu tư vào tài sản vô hình:  Đầu tư vào tài sản vô hình cũng là một trong nhưng hoạt động đầu tư quan trọng của doanh nghiệp, nó góp một phần không nhỏ vào việc nâng cao khả năng cạnh tranh, củng cố vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Nội dung của hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình bao gồm: - Đầu tư cho thương hiệu. - Đầu tư cho quảng cáo, tiếp thị. - Đầu tư cho nghiên cứu thị trường. - Đầu tư vào quyền sử dụng đất. 1.1.2.6 Đầu tư ra ngoài doanh nghiệp: Đối với doanh nghiệp không chỉ có đầu tư trong doanh nghiệp mà còn thực hiện đầu tư ra ngoài doanh nghiệp. Với mục đích đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau hoặc góp vốn với các cá nhân tổ chức nước ngoài nhằm phân tán rủi ro và để tăng tài sản, thu lợi nhuận về cho doanh nghiệp. Việc liên doanh liên kết đầu tư giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau hoặc doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài giúp các doanh nghiệp thực hiện được những dự án lớn, những dự án mà bản thân doanh nghiệp không đủ năng lực đầu tư. Nhờ hình thức đầu tư này, các doanh nghiệp có thể cải tiến máy móc thiết bị, học tập được kinh nghiệm quản lý và nhận chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp khác, tạo điều kiện năng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp Cụ thể, đối với Tập đoàn dầu khí Việt Nam, việc tăng cường hoạt động đầu tư thăm dò khai thác ra nước ngoài, liên kết đầu tư với các quốc gia khác một mặt nhằm mục đích gia tăng trữ lượng dầu khí, đảm bảo cho hoạt động phát triển kinh tế của đất nước, mặt khác nhằm giảm thiểu những rủi ro trong quá trình đầu tư, học tập khoa học công nghệ hiện đại trên thế giới… 1.2  Đầu tư ra nước ngoài trong ngành công nghiệp dầu khí 1.2.1 Khái niệm chung về hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp 1.2.1.1 Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài Theo Luật Đầu Tư Việt Nam 2005 ( có hiệu lực từ ngày 1/7/2006): Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác từ Việt Nam ra nước  ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài hoàn toàn vì mục đích lợi nhuận. Nhà đầu tư trực tiếp tham gia quản lý quá trình sử dụng vốn đầu tư, do đó họ trực tiếp chịu trách nhiệm trước sự thành công hay thất bại trong quyết định đầu tư của mình. Trong quá trình hợp tác đầu tư, quyền lợi của các bên tham gia phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp, tỷ lệ mỗi bên đầu tư vào dự án. 1.2.1.2 Các hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài Hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được thực hiện qua 2 kênh chủ yếu là : Liên minh sát nhập ( M&A) và Đầu tư mới ( GI ). - Liên minh và sát nhập ( M&A ): là hình thức chủ yếu được thực hiện ở những nước phát triển, chủ đầu tư tiến hành thông qua mua lại, liên minh và sát nhập các doanh nghiệp hiện có ở nước ngoài. Nguyên tắc cơ bản để tiến hành sáp nhập và mua lại (M&A) là phải tạo ra được giá trị cho cổ đông, giá trị của công ty sau khi tiến hành M&A phải lớn hơn tổng giá trị hiện tại của hai công ty khi còn đứng riêng rẽ. Ngoài ra, những công ty mạnh mua lại công ty khác nhằm tạo ra một công ty mới với năng lực cạnh tranh cao hơn, đạt hiệu quả về chi phí, chiếm lĩnh thị phần lớn hơn, hiệu quả vận hành cao hơn… Tại điều 107 và điều 108 Luật Doanh Nghiệp Việt Nam đã có định nghĩa rõ ràng về hình thức đầu tư này: Hợp nhất doanh nghiệp là: “Hai hay một số công ty cùng loại (gọi là công ty bị hợp nhất) có thể hợp nhất thành một công ty mới (gọi là công ty hợp nhất) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp nhất, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các công ty bị hợp nhất”. Sáp nhập là: “Một hoặc một số công ty cùng loại (gọi là công ty bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào một công ty khác (gọi là công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập”. - Đầu tư mới ( GI ): là hình thức chủ đầu tư thực hiện đầu tư ở nước ngoài thông qua một doanh nghiệp mới, đây là kênh đầu tư thường thấy ở các nước đang phát triển. Đầu tư mới ( GI ) được áp dụng thông qua các hình thức chủ yếu sau: • Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh Đây là hình thức mà hai hay nhiều bên hợp tác kinh doanh với nhau dựa trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh. Hình thức này có đặc điểm: Không thành lập pháp nhân mới. Hoạt động dựa trên văn bản ký kết giữa các bên. Khi hết thời hạn hiệu lực thì các bên không còn ràng buộc về mặt pháp lý. • Hình thức doanh nghiệp liên doanh Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập do một hoặc nhiều chủ đầu tư nước ngoài góp vốn chung với doanh nghiệp tại nước sở tại trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Đặc điểm: Thành lập doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Các bên cùng tham gia điều hành doanh nghiệp, chia lợi nhuận và chịu rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên •  Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Đây là hình thức doanh nghiệp do chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ vốn để thành lập. Đặc điểm: Chủ đầu tư nước ngoài có quyền điều hành toàn bộ doanh nghiệp theo quy định của pháp luật nước sở tại. Doanh nghiệp hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của tổ chức cá nhân nước ngoài và do bên nước ngoài tự thành lập, quản lý và chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp là một pháp nhân của nước nhận đầu tư. •  Hình thức hợp đồng xây dựng- kinh doanh và chuyển giao. Là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của nước sở tại với nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian. Hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển  giao không bồi hoàn hoặc với một giá tượng trưng công trình đó cho nước sở tại. Các hình thức biến tướng của BOT là BT và BTO. BTO là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước  sở tại và nhà đầu tư nước ngoài về việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng, sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển giao cho nước sở tại. Chính phủ nước sở tại sẽ cùng với nhà đầu tư nước ngoài khai thác công trình đó trong một khoảng thời gian nhất định để thu hồi vốn và đảm bảo có lãi. BT là hình thức văn bản ký kết giữa  cơ quan Nhà nước sở tại và nhà đầu tư nước ngoài về xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng song nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển giao cho nước sở tại. Chính phủ nước sở tại tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. 1.2.2 Các công đoạn và trình tự tiến hành của hoạt động đầu tư thăm dò khai thác dầu khí 1.2.2.1 Các công đoạn của một hoạt động dầu khí Hoạt động dầu khí được chia làm 3 lĩnh vực chính:                       -Lĩnh vực thượng nguồn (còn gọi là khâu đầu, hoặc upstream): là hoạt động Thăm Dò-Khai Thác, được tính từ khi bắt đầu các hoạt động khảo sát địa vật lý, xử lý tài liệu địa chấn, khoan thăm dò…cho tới khi khai thác để đưa dầu hoặc khí lên miệng giếng. -Lĩnh vực trung nguồn (còn gọi là khâu giữa, hoặc midstream): là  hoạt động vận chuyển-tàng trữ dầu khí, là khâu nối liền khai thác với chế biến sản phẩm. -Lĩnh vực hạ nguồn ( còn gọi là khâu sau, hoặc downstream): bao gồm các hoạt động lọc dầu, chế biến và xử lý dầu khí. Hoạt động này được tính từ khi nhận dầu, khí từ nơi xuất phát của khu khai thác đến quá trình lọc, chế biến, hóa dầu và kinh doanh, phân phối của các sản phẩm dầu, khí đó. Cả 3 lĩnh vực hoạt động  này có mối quan hệ phụ thuộc, chi phối lẫn nhau. Hoạt động trong lĩnh vực thượng nguồn là hoạt động tuy mang rủi ro lớn nhưng lại đem lại lợi nhuận nhiều  nhất nên nó có sức hấp dẫn rất lớn. 1.2.2.2 Nội dung chính của hoạt động đầu tư thăm dò khai thác dầu khí Một quá trình đầu tư thăm dò khai thác dầu khí được chia thành 3 giai đoạn:  Bảng  1.1 : Thời gian các giai đoạn trong hoạt động thăm dò  và khai thác dầu khí STT  Hạng mục  Thời gian   1  Giai đoạn thăm dò  36 - 60 tháng   2  Giai đoạn thẩm lượng  12 - 24 tháng   3  Giai đoạn phát triển  24 - 60 tháng   4  Giai đoạn khai thác  10 - 25 năm   Nguồn: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam Nội dung cụ thể của các giai đoạn  như sau: a) Giai đoạn thăm dò và thẩm lượng: Giai đoạn thăm dò:  Gồm các hoạt động sau: - Nghiên cứu địa chất :             - Tái xử lý tài liệu địa chất đã thu nổ             - Thu nổ địa chấn ( 2D, 3D)             - Xử lý tài liệu và minh giải địa chấn.                         - Đánh giá triển vọng dầu khí             - Xác định vị trí giếng khoan Xác lập và trình duyệt các báo cáo cần thiết (báo cáo đánh giá tiềm năng, xác định vị trí khoan và chương trình khoan, đánh giá tác động môi trường, thiết kế chi tiết giếng khoan ). - Khoan:             - Chuẩn bị vật tư thiết bị             - Khảo sát địa chấn công trình             - Giải phóng mặt bằng, làm nền khoan             - Đấu thầu giàn khoan, đấu thầu tàu dịch vụ, trực thăng             - Các dịch vụ khác ( thử vỉa, bơm trám, thả ống chống)             - Cập nhập thông tin, so sánh với dự kiến             - Phân tích mẫu - Lập báo cáo tổng kết             - Đánh giá và tính toán tiềm năng dầu khí             - Lập chương trình thăm dò tiếp theo             - Tuyên bố  phát hiện             - Báo cáo hoàn trả diện tích Giai đoạn thẩm lượng: Giai đoạn thẩm lượng thường kéo dài 3-5 năm, với  mục đích xác định chính xác các cấp trữ lượng dầu khí, các thông số kĩ thuật tầng chứa thuộc khu vực thăm dò nhằm làm cơ sở cho việc thiết kế phát triển khai thác mỏ. Kết thúc giai đoạn thẩm lượng, Chủ đầu tư (nhà thầu) phải lập báo cáo tính toán trữ lượng trình hội đồng có thẩm quyền (nhà nước) phê duyệt. b) Giai đoạn phát triển: Giai đoạn phát triển được bắt đầu khi báo cáo tính toán trữ lượng được phê duyệt. Đây là giai đoạn cực kì quan trọng, đòi hỏi nhà đầu tư phải tập trung nhiều nhân lực và vốn nhất. Nhà thầu phải lập kế hoạch phát triển mỏ bao gồm các nội dung: - Trữ lượng ( phân tích cụ thể các thông số địa chất) -Giải pháp công nghệ tối ưu ( đưa ra các phương án khai thác để lựu chọn phương án tối ưu), đánh giá tác động môi trường. - Chi phí đầu tư ( tổng mức đầu tư) - Tổ chức triển khai ( sơ đồ tổ chức, đào tạo nhân lực...) - Tiến độ thực hiện - Đánh giá hiệu quả kinh tế c) Giai đoạn khai thác: Giai đoạn khai thác bắt đầu khi có dòng dầu /khí đầu tiên. Trên thực tế phải cần 1 giai đoạn chuẩn bị trước từ 6 tháng đến 1 năm cho giai đoạn này. Các công việc chính của nhà thầu trong giai đoạn này: - Quản lý, giám sát, cập nhật thông tin trong quá trình khai thác. - Đánh giá khả năng khai thác thực tế so với kế hoạch - Làm các thủ tục cần thiết ( cầu, cảng) đề xuất hoặc bán sản phẩm. - Kiểm soát dòng tiền, tính chi phí thu hồi, lãi, thuế. - Điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp với thực tế 1.2.3 Các hình thức hợp đồng đầu tư trong lĩnh vực tìm kiếm thăm dò khai thác dầu khí Trong lĩnh vực đầu tư thăm dò khai thác dầu khí, các dự án dầu khí được kí kết giữa chính phủ của 1 quốc gia sở hữu tài nguyên ( thông thường là công ty dầu khí quốc gia được chính phủ giao nhiệm vụ ) và công ty hoạt động tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí trên quốc gia đó. Khác với các hình thức đầu tư thông thường, dự án dầu khí được thực hiện theo những hợp đồng mang tính đặc trưng riêng của ngành. Hợp đồng dầu khí được thiết lập trên cơ sở luật dầu khí, các qui định hiện hành liên quan của quốc gia đó, các quy định, thông lệ quốc tế về hợp đồng và các kết quả đàm phán về các điều khoản kỹ thuật, kinh tế, tài chính…Mỗi một quốc gia có thể lựa chọn  sử dụng loại hợp đồng dầu khí phù hợp với tiềm năng dầu khí cũng như các lợi thế khác. Nội dung hợp đồng cũng thay đổi theo từng công ty khác nhau. Có 3 loại hợp đồng chính thường được áp dụng trong lĩnh vực tìm kiếm thăm dò khai thác dầu khí, đó là: - Hợp đồng phân chia sản phẩm. - Hợp đồng tô nhượng ( hợp đồng địa tô) - Hợp đồng dịch vụ 1.2.3.1 Hợp đồng phân chia sản phẩm Hợp đồng phân chia sản phẩm được áp dụng phổ biến trên thế giới và Việt Nam . Hợp đồng phân chia sản phẩm được phát triển vào giữa thập niên 60 ở Indonesia . Phân chia sản phẩm phân định sản lượng khai thác giữa nhà điều hành và nước chủ nhà, thường là các công ty dầu khí quốc gia. So với 2 hình thức hợp đồng tô nhượng và hợp đồng dịch vụ, mức độ tham gia và giám sát quá trình đầu tư của nước chủ nhà cao hơn nhiều. Mặc dù toàn quyền điều hành song song, nhà đầu tư phải thực hiện theo chương trình công việc và ngân sách được nước chủ nhà phê duyệt hàng năm. Phương pháp tính toán sự phân chia thay đổi theo phần trăm của mỗi bên tham gia. Các thang chia thay đổi tùy thuộc vào từng quốc gia nhận đầu tư, vào từng vị trí khu vực và từng thời điểm. Thang phân chia giữa nước chủ nhà và nhà thầu được xác định bằng cách tách sản lượng khai thác thành 2 loại : sản lượng dầu khí cho thu hồi chi phí v
Luận văn liên quan