Lúc sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng lĩnh vực văn hoá. Người đã nói rằng "Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi trọng ngang nhau đó là: Chính trị - Kinh tế - Văn hoá - Xã hội.". Lời nói của Bác đã khẳng định vai trò to lớn của văn hoá trong sự nghiệp phát triển đất nước.
Văn hoá là nền tảng của xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng văn hoá nói chung, chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng đóng vai trò trong tư duy hành động của con người và của dân tộc bị áp bức, bị tha hoá đến các vương quốc của con người phát triển tự do và toàn diện. Hồ Chí Minh từng nói "Văn hoá soi đường cho quốc dân đi, phải đem văn hoá lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ, phải xúc tiến công tác văn hoá đào tạo con người cho cuộc kháng chiến kiến quốc". Trong thời đại Hồ Chí Minh với đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta, văn hoá Việt Nam tiếp tục được phát huy, đã góp phần quyết định vào những thắng lợi to lớn của nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và không ngừng phát triển những giá trị cao đẹp của nền văn hoá đất nước, đã góp phần sức mạnh vào những thành quả đấu tranh giữ nước và dựng nước của các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam.
Văn hoá Việt Nam là thành quả do lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường trong quá trình dựng nước và giữ nước qua hàng ngàn năm của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Là kết quả giáo dục và tiếp thu tinh hoa của nền văn hoá trên thế giới để không ngừng phát triển và hoàn thiện mình. Văn hoá Việt Nam hun đúc trên tâm hồn khí phách, bản lĩnh Việt Nam, góp phần làm rạng danh lịch sử vẻ vang của dân tộc.
Trong những thập kỷ gần đây quá trình CNH - HĐH và cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã đưa loài người tiến lên những nấc thang phát triển mới. Từ xã hội nông nghiệp cổ truyền chuyển sang xã hội hậu công nghiệp có nền kinh tế tri thức đóng vai trò chủ đạo. Cùng với sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng công nghệ và nền văn minh tri thức, trình độ dân trí, điều kiện sống và mức sống của con người được nâng lên rõ rệt. Từ đó, Nghị quyết Đại hội Đảng VIII đến Đại hội lần thứ IX của Đảng đều xác định văn hoá trong thời kỳ đổi mới: "Văn hoá là nền tảng tinh thần trong xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế, văn hoá; xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc" là nhiệm vụ của Đảng và toàn dân.
Vì vậy, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trước sau vẫn là một vấn đề sống còn, là trách nhiệm nặng nề nó có tầm ảnh hưởng rất quan trọng với sự phát triển của đất nước. Đây là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể, quần chúng nhân dân. Trong đó, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh giữ vai trò nòng cốt.
49 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1976 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh huyện Bảo Lâm - Tỉnh Cao Bằng với sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN
Thời gian học tập tại Học viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam trôi qua thật nhanh thấm thoát đã hết 2 năm học, giờ đây sắp phải xa trường xa thầy cô xa bạn bè thân yêu, nơi đã chôn dấu biết bao kỷ niệm. Em không thể nào quên những năm tháng được thầy cô tận tình dẫn dắt, dạy bảo trang bị cho chúng em những kiến thức vô cùng quý báu để chúng em bước vào đời.
Qua cuốn chuyên đề tốt nghiệp này cho các em được bày tỏ lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới ban giám độc Học viện, phòng quản lý đào tạo - tổ chức, các khoa, phòng, thầy giáo chủ nhiệm, các thầy cô giáo bộ môn. Đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của cô giáo An Thị Mai người đã giúp đỡ trong thời gian em thực hiện chuyên đề này.
Do thời gian không nhiều tài liệu thu thập được ở địa phương còn hạn chế nên khi thực hiện chuyên đề này em không tránh khỏi những sai sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến, cũng như sự giúp đỡ của quý thầy cô giáo để em hoàn thành tốt chuyên đề tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TNCS : Thanh niên cộng sản
TTN : Thanh thiếu niên
TN : Thanh niên
ĐVTN : đoàn viên thanh niên
TNTP : Thiếu niên tiền phong
CNH - HĐH : Công nghiệp hoá - Hiện đại hóa
HĐND - UBND : Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân
CNXH : chủ nghĩa xã hội
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
MTTQ : Mặt trận tổ quốc
VH - TT - DL : Văn hoá - Thể thao - Du lịch
TDTT : Thể dục thể thao
BCH : Ban chấp hành
BCH TW : Ban chấp hành trung ương
PHẦN MỞ ĐẦU - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. LÝ DO CHỌN CHUYÊN ĐỀ
1. Về mặt lý luận:
Lúc sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng lĩnh vực văn hoá. Người đã nói rằng "Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi trọng ngang nhau đó là: Chính trị - Kinh tế - Văn hoá - Xã hội...". Lời nói của Bác đã khẳng định vai trò to lớn của văn hoá trong sự nghiệp phát triển đất nước.
Văn hoá là nền tảng của xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng văn hoá nói chung, chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng đóng vai trò trong tư duy hành động của con người và của dân tộc bị áp bức, bị tha hoá đến các vương quốc của con người phát triển tự do và toàn diện. Hồ Chí Minh từng nói "Văn hoá soi đường cho quốc dân đi, phải đem văn hoá lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ, phải xúc tiến công tác văn hoá đào tạo con người cho cuộc kháng chiến kiến quốc". Trong thời đại Hồ Chí Minh với đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta, văn hoá Việt Nam tiếp tục được phát huy, đã góp phần quyết định vào những thắng lợi to lớn của nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và không ngừng phát triển những giá trị cao đẹp của nền văn hoá đất nước, đã góp phần sức mạnh vào những thành quả đấu tranh giữ nước và dựng nước của các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam.
Văn hoá Việt Nam là thành quả do lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường trong quá trình dựng nước và giữ nước qua hàng ngàn năm của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Là kết quả giáo dục và tiếp thu tinh hoa của nền văn hoá trên thế giới để không ngừng phát triển và hoàn thiện mình. Văn hoá Việt Nam hun đúc trên tâm hồn khí phách, bản lĩnh Việt Nam, góp phần làm rạng danh lịch sử vẻ vang của dân tộc.
Trong những thập kỷ gần đây quá trình CNH - HĐH và cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã đưa loài người tiến lên những nấc thang phát triển mới. Từ xã hội nông nghiệp cổ truyền chuyển sang xã hội hậu công nghiệp có nền kinh tế tri thức đóng vai trò chủ đạo. Cùng với sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng công nghệ và nền văn minh tri thức, trình độ dân trí, điều kiện sống và mức sống của con người được nâng lên rõ rệt. Từ đó, Nghị quyết Đại hội Đảng VIII đến Đại hội lần thứ IX của Đảng đều xác định văn hoá trong thời kỳ đổi mới: "Văn hoá là nền tảng tinh thần trong xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế, văn hoá; xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc" là nhiệm vụ của Đảng và toàn dân.
Vì vậy, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trước sau vẫn là một vấn đề sống còn, là trách nhiệm nặng nề nó có tầm ảnh hưởng rất quan trọng với sự phát triển của đất nước. Đây là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể, quần chúng nhân dân. Trong đó, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh giữ vai trò nòng cốt.
2. Cơ sở thực tiễn
Ngày nay, đất nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, có sự quản lý, điều tiết của nhà nước. Nền kinh tế của Việt Nam với đặc trưng của lịch sử văn hoá là luôn luôn giao lưu, đối thoại với các nền văn hoá mà chủ thể của nó thường là những kẻ đối đầu, có những nền văn hoá hùng mạnh hơn. Vì vậy chủ thể văn hoá Việt Nam phải bao gồm những giá trị đặc biệt về ứng xử thông minh và khôn khéo, để có thể tiếp thu và chọn lọc những giá trị văn hoá của các nước có nền văn hoá phát triển, đồng thời có thể tránh được những âm mưu mà kẻ thù muốn đánh vào nền văn hoá đang phát triển của nước ta. Nhưng nền kinh tế mở cũng kéo theo những luồng văn hoá khác nhau du nhập vào nước ta, lịch sử nước ta đã chứng minh được cách mạng sống lưu truyền đó. Kế thừa truyền thống văn hóa dân tộc vì văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội. Bên cạnh đó còn có những hủ tục lạc hậu như: ma chay, tảo hôn, đám cưới, mê tín dị đoan, làm lễ bãi cầu mưa, cầu mùa màng bội thu... còn tồn tại một đất nước gồm 54 dân tộc anh em như nước ta. Làm cho nền văn hoá dân tộc "dậm chân tại chỗ" hay kém phát triển so với sự phát triển hiện đại của nền văn hoá các nước khác trên thế giới.
Với điều kiện hiện nay, để hội nhập, hoà chung vào vòng chảy của xã hội cũng như ta phải đáp ứng đòi hỏi có một trình độ văn hoá tương ứng để tiếp biến các thành tựu của nhân loại, đồng thời chống lại những ảnh hưởng tiêu cực của xu hướng "toàn cầu hóa" mặt trái của quá trình "hiện đại hóa" đang diễn ra hiện nay.
Nhiệm vụ giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, không phải là của riêng ai mà là của chung tất cả mọi người... Nước ta nói chung, huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng nói riêng với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong TN là một vấn đề cấp bách và quan trọng, phù hợp với yêu cầu thực tiễn và góp phần vào việc giáo dục thế hệ trẻ, hình thành con người mới XHCN, sẵn sàng và phát huy tối đa vai trò của con người chủ vận mệnh đất nước.
Sự xuống cấp về tư tưởng đạo đức và lối sống trong TN hiện nay ngày càng nhanh. Thanh thiếu niên quan tâm tới lợi ích của mình hơn tập thể, chạy theo lối sống thực dụng, theo văn hoá ngoại không có sự chọn lọc, không quan tâm đến giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam. Một số người không thích vào Đoàn, không tham gia vào các tổ chức hoạt động của Đoàn thanh niên.
Nền kinh tế nông nghiệp truyền thống - Thiết lập nên lối sống và chuẩn mực có sự phát triển ưu lợi về đạo đức được thay thế bằng nền kinh tế hàng hoá thị trường cơ chế mới. Lối sống hiện nay cần được coi đúng mức phù hợp hơn từ góc độ lợi ích kinh tế: mức lương, mức thu nhập tiêu dùng, y tế, các phúc lợi xã hội, sức khoẻ. Song cho đến nay, chúng ta chưa biết chính xác những chuẩn mực giá trị đúc kết xã hội Việt Nam chuyển mình như thế nào. Sự nghiệp CNH - HĐH đất nước đặt ra những yêu cầu mới đối với chuẩn mực giá trị của con người. Đồng thời nó là quá trình đô thị hoá làm biến đổi tính chất căn bản của xã hội.
Chưa bao giờ những vấn đề văn hoá lại được quan tâm như hiện nay cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Điều đó, được quyết định bởi vai trò của văn hoá đối với sự phát triển của một quốc gia. Trên cơ sở xác định đúng đắn vai trò quan trọng của văn hoá. Nghị quyết TW5 khoá VIII của Đảng đã khẳng định "tiếp tục xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nền tảng tinh thần, coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội".
Những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ thế giới cùng với việc mở rộng giao lưu quốc tế, là cơ hội để chúng ta tiếp thu những thành quả trí tuệ của loài người. Đồng thời cũng đặt ra những thử thách mới trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Đó là xã hội hoá ngày càng sâu sắc hơn, đồng thời với cơ chế thị trường, xuất hiện và du nhập những tư tưởng phản động có tác dụng không ít đến thanh niên làm cho họ trở thành con người không có lý tưởng, niềm tin với xã hội, ích kỷ, cực đoan, khinh lao động và gạt bỏ những đức tính truyền thống tốt đẹp.
Nghiên cứu việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc cho đến nay không phải là một lĩnh vực mới; trước đây cũng đã có nhiều nhà nghiên cứu, nhiều hội thảo quan tâm đến vấn đề này nhưng cũng chỉ ở mức độ nghiên cứu chung chung; chưa đi sâu đi sát một cách tỉ mỉ, cụ thể tới từng địa bàn dân cư như địa bàn huyện Bảo Lâm - Tỉnh Cao Bằng.
Chính vì vậy, là người cán bộ Đoàn trong tương lai, là người con của quê hương đất nước, tôi mạnh dạn chọn đề tài: "Đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng với sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc" mong góp phần nhỏ bé của mình cùng các cấp bộ Đoàn, các đoàn thể, quần chúng nhân dân huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng đưa ra những giải pháp khả thi nhằm nâng cao nhận thức, tư tưởng hành động của đoàn viên thanh niên trong sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của huyện Đoàn Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng, làm rõ những nguyên nhân cơ bản của thực trạng nhằm đưa ra giải pháp kiến nghị phù hợp để nâng cao chất lượng công tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Làm rõ cơ sở lý luận
- Khảo sát thực trạng công tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trên địa bàn huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng và làm rõ nguyên nhân của thực trạng.
- Đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng.
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Không gian nghiên cứu: trên địa bàn huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng.
2. Thời gian nghiên cứu: 2007 - 2009
3. Thời gian thực hiện chuyên đề: từ tháng 01 đến tháng 03 năm 2010
V. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
1. Đoàn viên thanh niên
2. Các cán bộ ban ngành khác
3. Các cán bộ văn hóa ở địa phương
4. Các cán bộ Đoàn.
VI. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Công tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng.
VII. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Đọc tài liệu, phân tích tài liệu
- Đọc báo cáo tổng kết của Đoàn
- Khảo sát thực tế trên địa bàn
- Trưng cầu ý kiến - bằng phiếu hỏi.
VIII. BỐ CỤC CHUYÊN ĐỀ
Ngoài phần danh mục tài liệu tham khảo, mục lục, nội dung chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của chuyên đề
Chương 2: Thực trạng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trên địa bàn huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng.
Chương 3: Những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng.
- Kiến nghị
- Kết luận
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
(Gồm 3 chương)
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHUYÊN ĐỀ
1.1. Hệ thống các khái niệm liên quan đến chuyên đề.
1.1.1. Khái niệm văn hoá:
Văn hoá là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau: Khảo cổ học, dân tộc học, nhân học triết học, xã hội học, lịch sử... Vì thế sắc thái, ý nghĩa của nó rất đa dạng. Từ khi khái niệm đầu tiên về "văn hoá" (1871 trong sách văn hoá nguyên thủy của E.B Taylor) xuất hiện đến nay đã có hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hoá. Mỗi cách định nghĩa được dựa trên cách nhìn khác nhau, nhưng nói chung tổng hợp lại thì các định nghĩa đó đều đề cập đến các vấn đề sau đây:
- Văn hoá là hoạt động của con người, là biểu hiện trình độ nhận thức của con người.
- Văn hoá thể hiện khát vọng vươn tới chân, thiện, mỹ.
- Văn hoá là tổng hợp các giá trị được cộng đồng thừa nhận, tuân thủ trong một môi trường, một không gian cụ thể.
- Văn hoá vừa là mục tiêu vươn tới, vừa là động lực thúc đẩy phát triển xã hội.
Từ đó ta có thể nêu một định nghĩa văn hoá rằng: "Văn hoá là toàn bộ sự hiểu biết của con người, tích luỹ được trong quá trình lao động thực tiễn xã hội. Vốn hiểu biết ấy được đúc kết thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội, biểu hiện thông qua vốn di sản văn hoá và hệ ứng xử văn hoá (lối sống) cộng đồng người. Hệ giá trị và chuẩn mực xã hội là yếu tố cốt lõi làm nên bản sắc riêng của một cộng đồng xã hội. Nó có chức năng định hướng và điều tiết hoạt động của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội ấy" (Quản lý nhà nước về văn hoá thông tin).
Hay định nghĩa "văn hoá" trong cuộc sống cũng như trong phạm vi chuyên đề nghiên cứu là việc "giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc" bao gồm cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Văn hoá là tổng thể những kết quả lao động, là toàn bộ những giá trị mà con người sáng tạo nên để thoả mãn nhu cầu của chính mình. Bác Hồ nói "văn hoá là tổng thể của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sẵn sàng hy sinh nhằm thích ứng những nhu cầu đòi hỏi của sự sinh tồn" (Hồ Chí Minh về văn hoá bảo tàng Hồ Chí Minh xuất bản Hà Nội 1997 trang 9).
Văn hoá theo nghĩa rộng bao gồm phúc hợp những nét riêng về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm tri thức, tín ngưỡng và tôn giáo, phong tục và tập quán lối sống, văn hoá và nghệ thuật, lý luận và luật pháp, công nghệ khoa học kỹ thuật do con người sáng tạo trong quá trình lịch sử, tồn tại và phát triển của một dân tộc, một đất nước.
Những giá trị vật chất tồn tại do con người sáng tạo ra như: tủ, bàn ghế, các công trình kiến trúc, kết cấu hạ tầng... Lúc này những vật đó mang giá trị văn hoá. Tuy nhiên có những vật chất do con người sáng tạo ra nhưng không phục vụ cho cuộc sống của con người thì không có giá trị văn hoá mà chỉ có yếu tố văn hoá đó là bom nguyên tử, tên lửa... Giá trị tinh thần được tồn tại ở hai góc độ một là dưới dạng thành văn (tức là được ghi chép, ấn hành như sách, ảnh...), hai là tồn tại trong dân gian được nhân dân công nhận và lưu truyền sâu rộng trong xã hội như các phong tục tập quán, các lễ hội văn hoá.
Văn hoá được tồn tại dưới dạng vật chất và tinh thần, được thể hiện qua con người. Con người chính là vật mang vác, chuyển tải lưu giữ, thông qua con người văn hoá mới tồn tại và phát triển được.
Xét tổng quát về mục đích cao cả nhất vì sự nghiệp phát triển hoàn thiện con người và xã hội, văn hoá có 5 chức năng đó là: chức năng giáo dục, chức năng nhận thức, chức năng dự báo, chức năng thẩm mỹ và chức năng giải trí. Văn hoá là các lĩnh vực hoạt động, sáng tạo rộng lớn, phát triển không ngừng của nhân loại, của từng dân tộc, từng con người, từng gia đình văn hoá là toàn bộ những nét riêng của một dân tộc về tinh thần, vật chất, trí tuệ và tình cảm đã được hình thành trong quan hệ ứng xử hợp lý với môi trường thiên nhiên, giữa con người với con người. Kết quả hoạt động và sáng tạo ra văn hoá đồng thời sáng tạo ra tư tưởng, triết học, tôn giáo, tín ngưỡng, văn học nghệ thuật và những quy tắc ứng xử trong gia đình, xã hội được coi là luân lý, đạo đức thuần phong mỹ tục của một dân tộc.
Vậy văn hoá là hệ thống hữu cơ các giá trị tinh thần và vật chất do con người sáng tạo, giao lưu tích lũy và phát triển thông qua hoạt động cải biến và ứng xử với thiên nhiên, xã hội và bản thân mình, được biểu hiện dưới các thể thức ngày càng sâu sắc, đa dạng, để tôn vinh và phát triển toàn diện con người, nhằm làm cho thế giới có tính người.
1.1.2. Khái niệm bản sắc văn hoá:
Những tinh hoa văn hoá của một dân tộc tồn tại và hiển hiện trong nếp sống, trong suy nghĩ... thích ứng với môi trường thiên nhiên và xã hội nơi cư trú lâu đời, nếp cư xử với thiên nhiên và xã hội của cộng đồng đó là bản sắc dân tộc cho nên còn gọi là bản sắc văn hoá dân tộc. Bản sắc văn hoá dân tộc không phải là bất biến, luôn đổi mới, luôn sáng tạo, năng động thích ứng với môi trường sống. Điều kiện sống đã thay đổi dân tộc ta luôn luôn biết linh hoạt tiếp thu những cái hay, cái mới trong khi giao tiếp với nền văn hoá để làm giàu thêm vốn văn hoá của mình và giữ được cốt cách tốt đẹp, lâu đời của nền văn hoá mình.
Bản sắc văn hoá dân tộc là điểm tựa, là động lực luôn toả sáng và dẫn đường cho mỗi dân tộc tiến lên phía trước. Việt Nam chúng ta tự hào là một quốc gia có bản sắc dân tộc độc đáo, đậm nét, trải qua hàng ngàn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ và gần trăm năm Pháp thuộc nhưng dân tộc Việt Nam vẫn đứng vững và phát triển, điều đó chứng tỏ sức sống mãnh liệt của bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Những giá trị văn hoá mà ông cha để lại cho chúng ta phần to lớn, chúng ta phải khai thác những giá trị ấy phục vụ cho công việc xây dựng và phát triển đất nước công bằng văn minh, ấm no, tự do hạnh phúc.
1.1.3. Khái niệm bản sắc văn hoá dân tộc:
Bản sắc là màu sắc, tính chất riêng tạo thành đặc điểm chính. Bản sắc dân tộc là một hệ thống những sắc thái riêng biệt, những đặc tính bên trong bền vững gắn với cội nguồn văn hoá dân tộc, là cái để phân biệt văn hoá của dân tộc này với văn hoá của dân tộc khác. Nói đến dân tộc là nói đến văn hoá, đến bản sắc. Bản sắc dân tộc chính là bản sắc văn hoá dân tộc, chính là những nét riêng biệt đặc thù của một dân tộc. Bản sắc văn hoá dân tộc bao gồm những giá trị lịch sử văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo. Khoa học do chính dân tộc đó sáng tạo ra trong lịch sử hình thành và tồn tại và phát triển của dân tộc mình, phần khác là do dân tộc tiếp thu những giá trị văn hoá thích hợp của nhân loại để làm giàu thêm vốn văn hoá của dân tộc mình.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 05 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII về "xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc". Bản sắc văn hoá dân tộc bao gồm những giá trị bền vững tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp trong lịch sử của bảy ngàn năm dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình làng xã, tổ quốc lòng nhân ái khoan dung trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống... Bản sắc văn hoá dân tộc còn đậm nét trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo. Nền văn hoá nhiều dân tộc của Việt Nam như một vườn hoa đầy hương sắc 54 dân tộc cùng chung sống trong một tổ quốc, chung một lý tưởng độc lập, tự do và CNXH, chung một Đảng lãnh đạo, chung một chế độ quản lý của chính quyền nhà nước bảo đảm quyền bình đẳng, quyền bảo vệ bản sắc các giá trị văn hoá, các lễ hội văn hoá, các phong tục tập quán, tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng.
Sự phát triển không đồng đều về kinh tế - xã hội là một trong những nguyên nhân chính của tình trạng chênh lệch nhau về học vấn, về số lượng tri thức và công nhân kỹ thuật, về đời sống tinh thần, về các công trình văn hoá, mặc dù vậy mỗi dân tộc vẫn có thể phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, có thể sáng tạo ra đời sống văn hoá phù hợp với hoàn cảnh sống của từng dân tộc. Mối quan hệ giao lưu văn hoá trong cả nước ngày càng được mở rộng từ Bắc đến Nam, từ đồng bằng lên miền núi và các dân tộc được tạo những điều kiện thuận lợi để tiếp xúc với nhau, hiểu nhau, trao đổi với nhau, bổ sung cho nhau nhằm khai thác và phát huy các giá trị văn hoá tốt đẹp của từng dân tộc.
Tóm lại nhận thức đúng về bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam chúng ta mới có thể hiểu, coi trọng từ đó đề ra những chủ trương, biện pháp bảo vệ, tôn tạo, thừa kế, phát huy nền văn hoá Việt Nam.
1.1.4. Nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.
Nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc được biểu hiện đó là sự thống nhất giữa hai thành tố căn bản, đó là tiên tiến và bản sắc văn hoá dân tộc, trong tiên tiến có bản sắc văn hoá dân tộc, bản sắc văn hoá dân tộc hoà quyện với tính chất tiên tiến tạo nên giá trị tổng thể của nền văn hoá mới do nhân dân ta dựng nên. Bản sắc văn hoá dân tộc là cội nguồn, và là khởi đầu tiến trình của lịch sử phát triển của văn hoá, là nền tảng tinh thần của dân tộc, còn tính tiên tiến của văn hoá đóng vai trò như