Cùng với quá trình cải cách nền hành chính, Việt Nam đang đẩy mạnh công cuộc cải cách khu vực dịch vụ công, trong đó có việc đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước đối với các tổ chức sự nghiệp công luôn được gắn với vai trò chính yếu của Nhà nước. Mục đích chính của những cải cách trong lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công tại Việt Nam thời gian qua không gì khác là hướng tới bảo đảm nguồn ngân sách của Nhà nước dành cho lĩnh vực này được sử dụng hiệu quả hơn, mọi người dân Việt Nam ngày càng được hưởng những dịch vụ công tốt hơn, công bằng hơn, với chất lượng đảm bảo.
Nhưng thực tế hiện nay việc đổi mới cơ chế quản lý các TCSN công vẫn rất chậm, không đồng bộ và không bắt nhịp cùng với quá trình cải cách nền kinh tế đất nước trong giai đoạn vừa qua. Việc Nhà nước quá ôm đồm và cơ chế bao cấp chàn lan, tài trợ ngân sách chưa đúng mục đích và đúng đối tượng và Nhà nước vẫn chưa có quan điểm rõ ràng về vai trò của mình và vai trò của thị trường trong việc đảm bảo cung ứng dịch vụ sự nghiệp công, đó những nguyên nhân chính làm cho các đơn vị sự nghiệp công hoạt động không hiệu quả.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế, thì việc đảm bảo có một cơ chế quản lý phù hợp để tạo điều kiện và phát huy hoạt động hiệu quả của các TCSN công là yêu cầu cấp bách quá trình phát triển đất nước. Đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục & đào tạo, giáo dục luôn là vấn đề trung tâm của đời sống xã hội vì nó quyết định tương lai của mỗi người và của cả xã hội. Thực trạng nhức nhối của nền giáo dục Việt Nam hiện nay - nguyên nhân làm trì trệ sự phát triển của Việt Nam.
Đảng và Nhà nước ta khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu, và để có thể thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong giai đoạn mới này vai trò của giáo dục và đào tạo là rất lớn. Việc chấn chỉnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của ngành là một vấn đề tất yếu mà Đảng và Nhà nước cần phải làm trong bối cảnh hiện nay. Trước những yếu cầu đòi hỏi của quá trình đổi mới, Nhà nước cần có một cơ chế quản lý mới phù hợp với tình hình thực tế, để có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành, là một nhiệm vụ tất yếu phải làm. Trong đó có việc cải cách, đổi mới cơ chế quản lý của ngành là một mấu chốt quyết định, trong đó đặc biệt là cơ chế quản lý tài chính.
Xuất phát từ thực tế và nhận thức được tầm quan trọng, của giáo dục & đào tạo trong thời đại mới, trong khuân khổ chuyên đề thực tập em đã chon đề tài nghiên cứu của mình là “Đổi mới cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp công trong lĩnh vực giáo dục & đào tạo”
Đề tài” Đổi mới cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp công trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo”, tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận cho việc đổi mới cơ chế quản lý và phân tích đánh giá các chủ trương, chinh sách của Nhà nước cho việc đổi mới cơ chế quản lý các TCSN công trong lĩnh vực giáo dục & đào tạo. Trên cơ sở đó sẽ đề xuất một số khuyến nghị về cải cách.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: đề tài chỉ giới hạn đối với các TCSN công trong lĩnh vực GD-ĐT, và tập trung vào cơ chế nhân sự và cơ chế tài chính.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu kết hợp các phương pháp phân tích tổng hợp số liệu, thống kê, so sánh, bảng biều
Kết cấu đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Chuyên đề được trình bày trong ba chương với các nội dung chính sau đây:
Chương I: Một số vấn đề lý luận cho việc đổi mới cơ chế tổ chức và quản lý các tổ chức sự nghiệp công.
Chương II: Thực trạng cơ chế tổ chức và quản lý các tổ chức sự nghiệp công trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Chương III: Một số kiến nghị giải pháp về đổi mới cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp công trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
92 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2186 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đổi mới cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp công trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với quá trình cải cách nền hành chính, Việt Nam đang đẩy mạnh công cuộc cải cách khu vực dịch vụ công, trong đó có việc đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước đối với các tổ chức sự nghiệp công luôn được gắn với vai trò chính yếu của Nhà nước. Mục đích chính của những cải cách trong lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công tại Việt Nam thời gian qua không gì khác là hướng tới bảo đảm nguồn ngân sách của Nhà nước dành cho lĩnh vực này được sử dụng hiệu quả hơn, mọi người dân Việt Nam ngày càng được hưởng những dịch vụ công tốt hơn, công bằng hơn, với chất lượng đảm bảo.
Nhưng thực tế hiện nay việc đổi mới cơ chế quản lý các TCSN công vẫn rất chậm, không đồng bộ và không bắt nhịp cùng với quá trình cải cách nền kinh tế đất nước trong giai đoạn vừa qua. Việc Nhà nước quá ôm đồm và cơ chế bao cấp chàn lan, tài trợ ngân sách chưa đúng mục đích và đúng đối tượng và Nhà nước vẫn chưa có quan điểm rõ ràng về vai trò của mình và vai trò của thị trường trong việc đảm bảo cung ứng dịch vụ sự nghiệp công, đó những nguyên nhân chính làm cho các đơn vị sự nghiệp công hoạt động không hiệu quả.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế, thì việc đảm bảo có một cơ chế quản lý phù hợp để tạo điều kiện và phát huy hoạt động hiệu quả của các TCSN công là yêu cầu cấp bách quá trình phát triển đất nước. Đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục & đào tạo, giáo dục luôn là vấn đề trung tâm của đời sống xã hội vì nó quyết định tương lai của mỗi người và của cả xã hội. Thực trạng nhức nhối của nền giáo dục Việt Nam hiện nay - nguyên nhân làm trì trệ sự phát triển của Việt Nam.
Đảng và Nhà nước ta khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu, và để có thể thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong giai đoạn mới này vai trò của giáo dục và đào tạo là rất lớn. Việc chấn chỉnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của ngành là một vấn đề tất yếu mà Đảng và Nhà nước cần phải làm trong bối cảnh hiện nay. Trước những yếu cầu đòi hỏi của quá trình đổi mới, Nhà nước cần có một cơ chế quản lý mới phù hợp với tình hình thực tế, để có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành, là một nhiệm vụ tất yếu phải làm. Trong đó có việc cải cách, đổi mới cơ chế quản lý của ngành là một mấu chốt quyết định, trong đó đặc biệt là cơ chế quản lý tài chính.
Xuất phát từ thực tế và nhận thức được tầm quan trọng, của giáo dục & đào tạo trong thời đại mới, trong khuân khổ chuyên đề thực tập em đã chon đề tài nghiên cứu của mình là “Đổi mới cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp công trong lĩnh vực giáo dục & đào tạo”
Đề tài” Đổi mới cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp công trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo”, tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận cho việc đổi mới cơ chế quản lý và phân tích đánh giá các chủ trương, chinh sách của Nhà nước cho việc đổi mới cơ chế quản lý các TCSN công trong lĩnh vực giáo dục & đào tạo. Trên cơ sở đó sẽ đề xuất một số khuyến nghị về cải cách.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: đề tài chỉ giới hạn đối với các TCSN công trong lĩnh vực GD-ĐT, và tập trung vào cơ chế nhân sự và cơ chế tài chính.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu kết hợp các phương pháp phân tích tổng hợp số liệu, thống kê, so sánh, bảng biều
Kết cấu đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Chuyên đề được trình bày trong ba chương với các nội dung chính sau đây:
Chương I: Một số vấn đề lý luận cho việc đổi mới cơ chế tổ chức và quản lý các tổ chức sự nghiệp công.
Chương II: Thực trạng cơ chế tổ chức và quản lý các tổ chức sự nghiệp công trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Chương III: Một số kiến nghị giải pháp về đổi mới cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp công trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ CÁC
TỔ CHỨC SỰ NGHIỆP CÔNG
Cơ sở lý thuyết về đổi mới cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp công
Khái niệm hàng hóa và dich vụ công, vai trò của nhà nước trong việc cung cấp loại hàng hóa này trong nền kinh tế thị trường
Khái niệm hàng hóa và dịch vụ công
Khái niệm hàng hóa và dịch vụ công hay vẫn được gọi là hàng hóa công cộng, từ lâu đã có nhiều học giả nghiên cứu và có nhiều quan điểm về nó. Ở Việt Nam, thuật ngữ hàng hóa công mới được đưa vào sử dụng và nghiên cứu trong những năm gần đây.
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về hàng hóa công cộng như theo S.A.Sammuelson và W.D.Nordhaus thì cho rằng: Hàng hóa công cộng là một loại hàng hóa có thể cho moi người ( trong một nước hoặc trong một thành phố) được hưởng với một giá không lớn hơn cái giá đòi hỏi để cung cấp nó cho một người. Việc hưởng thụ hàng hóa đó không thể chia cắt được và không thể loại trừ ai. Đối chiếu với hàng hóa tư nhân, như bánh mỳ, nếu mà một người đã tiêu dùng thì người khác không thể tiêu dùng được S.A.Sammuelson và W.D.Nordhaus - Kinh tế học tập 2, ĐH KTQD, Hà nội 1989, trang 712
.
Có tác giả lại cho: Hàng hóa công cộng là hàng hóa mà khi một ai đó tiêu dùng thì nó không làm giảm mức tiêu dùng hàng hóa đó của người khác, là hàng hóa mà mọi người đều cần dùng, và khi nó đã được sản xuất ra thì không thể ngăn cản người dân tiêu dùng hàng hóa đó ( an ninh, trật tự xã hội, quốc phòng, giáo dục...) PGS.TS.Mai Văn Bưu – Giáo trình Quản lý học ĐH KTQD, tập 1, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà nội 2001
.
Có quan điểm hàng hóa công Theo từ điển Kinh tế học hiện đại – Macmillan (Daivid W.Pearce). Trong chuyên đề này, các khái niệm “hàng hóa công cộng”, “hàng hóa công” và “dịch vụ công” được hiểu và sử dụng như nhau.
: là một hàng hóa hay dịch vụ mà nếu được cung cấp cho một người thì vẫn tồn tại cho những người khác mà không phát thêm chi phí nào. Đây là điểm phân biệt với hàng hóa tư nhân, việc tiêu dùng hàng hóa tư nhân của người này sẽ ngăn cản việc tiêu dùng cùng hàng hóa đó của người khác. Vì vậy một hàng hóa công cộng thuần túy phải hội tụ hai thuộc tính đó là “ không cạnh tranh hay không thể loại trừ” và “không có tính loại trừ trong tiêu dùng”. Tính không loại trừ chỉ rõ hàng hóa công cộng khi đã cung cấp cho một người thì nó có thể phục vụ thêm cho nhiều người mà không tao thêm chi phí (chi phí cận biên cho thêm một người sử dụng bằng không). Còn thuộc tính không cạnh tranh trong tiêu dùng được hiểu là hàng hóa công cộng có thể cung cấp phục vụ không hạn chế và cho bất kỳ người tiêu dùng nào trong xã hội GS.TS. Đỗ Hoàng Toàn – Bài giảng Chính trị học trong Quản lý công(2007), ĐH KTQD
, nó không thể ngăn cản bất kỳ ai tiêu dùng nó. Chính lý do này dẫn đến xuất hiện kẻ ăn không, kẻ ăn không được hiểu là những người tìm cách hưởng thụ lợi ích của HHCC mà không đóng góp một đồng nào cho chi phí sản xuất và cung cấp nó. Cũng có thể sử dụng một số biện pháp để loại trừ kẻ ăn không, nhưng việc áp dụng các biện pháp này có thể dẫn đến một trạng thái không đạt hiệu quả Pareto. Vì việc có thêm nhiều người khác hưởng thụ HHCC thuần túy sẽ không làm lợi ích của bất kỳ ai trong xã hội bị giảm đi, và việc loại trừ kẻ ăn không cũng đòi hỏi nguồn lực để thực hiện.
Khi HHCC chỉ hội tụ một trong hai thuộc tính trên thì nó thuộc loại HHCC không thuần túy, như giáo dục, y tế, cứu hỏa.v.v...Bản thân nó có sự kết hợp giữa HHCC và hàng hóa tư, cho đến này thực tế thuật ngữ hàng hóa và dịch vụ công thường được dùng chung cho cả hai loại HHCC thuần túy và cả không thuần túy.
Như vậy ở đây chúng ta có thể hiểu hàng hóa công cộng là những loại hàng hóa, những tiện ích được đem trao đổi để sử dụng chung mà thỏa mãm được ít nhất một trong hai thuộc tính: không có tính loại trừ và không có tính canh tranh trong tiêu dùng.
Các hình thức cung ứng dịch vụ công và vai trò của nhà nước
Hiện nay có nhiều hình thức cung ứng hàng hoá và dịch vụ công, trong đó Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng, nhà nước đảm bảo cho các hàng hóa và dịch vụ công được cung cấp cho người dân. Hiện có một số hình thức cung ứng đã được sử dụng như sau:
- Chính phủ là cung ứng trực tiếp hàng hoá, dịch vụ công.
- Chính phủ chuyển trách nhiệm cung ứng cho chính quyền địa phương.
- Chính phủ ký hợp đồng thuê khu vực tư nhân, các tổ chức phi chính phủ cung cấp dịch vụ công.
- Nhà nước có thể bán, nhượng quyền kinh doanh sang cho khu vực tư nhân.
- Nhà nước thu hút sự tham gia của cộng đồng xã hội hoặc nhà nước hỗ trợ trực tiếp cho các hộ gia đình.
Ví dụ: Một số hình thức cung ứng dịch vụ giáo dục và đào tạo được chia theo nhà cung ứng xem trong Bảng sau.
Bảng 1: Một số hình thức cung ứng dịch giáo dục chia theo nhà cung ứng.
Hình thức sở hữu
Loại hình tổ chức của nhà cung ứng
Dịch vụ giáo dục
Khu vực công
Bộ/sở/vụ/văn phòng
Trường trực thuộc Bộ giáo dục&đào tạo (quốc gia, tỉnh, huyện)
Công ty tự chủ thuộc khu vực công
Trường đại học tự chủ
Khu vực không vì lợi nhuận
Cộng đồng sở hữu
Trường không chính thống
Tổ chức phi lợi nhuận
Trường do các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tôn giáo điều hành
Khu vực tư nhân vì lợi nhuận
Các doanh nghiệp nhỏ
Trường tư phi tôn giáo
Các doanh nghiệp lớn
Nguồn: Ngân hàng Thế giới
Như vậy, khá phong phú về hình thức cung ứng các dịch vụ công, như bảng trên ta thấy có các loại tổ chức khác nhau, các loại hình sở hữu khác nhau tham gia cung cấp một loại dịch vụ giáo dục. Điều này hoàn toàn không làm mờ đi vai trò của nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ công, mà lại làm cho việc cung ứng các dịch vụ này trở nên linh hoạt và hiệu quả hơn nhiều. Nhà nước đảm bảo việc hàng hoá và dịch vụ công phải được cung cấp cho người dân, nhưng không nhất thiết nhà nước phải là người duy nhất và trực tiếp cung ứng dịch vụ công. Đặc biệt đối với các hàng hoá và dịch vụ công “không thuần tuý” như giáo dục, y tế v.v... nên để khu vục khác tham gia cung ứng, do tính có tính loại trừ trong tiêu dùng của các hàng hoá này. Nhưng sẽ là sai lầm nếu để thị trường hoàn toàn điều tiết việc cung ứng các dịch vụ công. Vì vậy Nhà nước, cần đảm bảo chức năng điều tiết thị trường đối với hàng hoá và dịch vụ đặc biệt này, đảm bảo về mặt thể chế để thị trường hoạt động. Ngoài ra, khi phân phối dịch vụ công nhà nước cần đảm bảo các đối tượng dễ bị tổn thương, khu vực vùng sâu vùng xa, vùng còn nghèo khó phải được tiếp cận, đảm bảo phúc lợi xã hội và công bằng xã hội.
Nhưng nếu chỉ do nhà nước trực tiếp cung ứng hoàng hoá và dịch vụ công không thuần tuý thì cũng chưa chắc đảm bảo sẽ đạt được tính hiệu quả xã hội. Vì khi đó nhà nước hoàn toàn đảm nhiệm việc cung ứng nên tính hiệu quả không cao, cứng nhắc và thiếu tính cạnh tranh trong cung ứng các hàng hoá và dịch vụ này. Vì vậy cần phải chuyển đổi đa dạng hoá và mở rộng diện các nhà cung cấp, đặc biệt là các nhà cung cấp tư nhân là cần thiết. Tuy nhiên, vẫn phải nhấn mạnh vai trò điều tiết của nhà nước để đảm bảo cho thị trường về các hàng hoá và dịch vụ công được vận hành một cách có hiệu quả.
Một số vấn đề lý luận về đổi mới cơ chế tổ chức và quản lý của các tổ chức sự nghiệp công
Lĩnh vực sự nghiệp và tổ chức sự nghiệp công.
Lĩnh vực sự nghiệp
Thuật ngữ lĩnh vực sự nghiệp đã được sử dụng ở Việt Nam từ nhiều năm nay, từ thời kỳ kế hoạch hóa tập trung lẫn trong thời kỳ chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Thuật ngữ này vẫn được dùng thông dụng để chỉ những hoạt động liên quan tới việc cung ứng dịch vụ công, phục vụ nhu cầu thiết yếu và đảm bảo chất lượng cuộc sống của con người. Lĩnh vực sự nghiệp bao gồm những lĩnh vực như giáo dục & đào tạo, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, bảo hiểm xã hội, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ v.v. Trong hệ thống danh mục thống kê quốc gia và trong danh mục các tổ chức được ngân sách nhà nước cấp kinh phí hoạt động của nước ta, lĩnh vực sự nghiệp được xếp cùng nhóm với "khu vực dịch vụ", có lúc còn được ghép cùng với hoạt động quản lý hành chính nhà nước để trở thành lĩnh vực "hành chính-sự nghiệp". Tuy nhiên thực chất lĩnh vực sự nghiệp có phạm vi hẹp hơn, chỉ giới hạn trong một số hoạt động cung ứng, chứ không phải cung ứng tất cả các loại dịch vụ công cho xã hội.
Dịch vụ công là một khái niệm rộng, bao gồm 3 nhóm dịch vụ chính như dịch vụ hành chính công, dịch vụ sự nghiệp công và dịch vụ công ích. Ở Việt Nam ta nhận thức và cách hiểu về dịch vụ công hiện vẫn chưa thật rõ ràng, còn có nhiều ý kiến khác nhau. Chính vì sự thiếu thống nhất như vậy gây ra sự rắc rối cho xây dựng chính sách liên quan, đây là một vấn đề mang đậm nét Việt Nam.
Trong danh mục phân loại các dịch vụ do Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) xây dựng có đưa ra 10 nhóm dịch vụ chính và có tới 150 loại dịch vụ trong khuân khổ Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS). Trong đó, những hoạt động thuộc lĩnh vực sự nghiệp được đưa vào các nhóm như được trình bày trong Hộp 1 dưới đây.
Các hoạt động sự nghiệp thường có một số đặc điểm chung là:
Cung cấp các dịch vụ công;
Thường mang tính chuyên môn (như y tế, giáo dục, thể thao, khoa học và công nghệ...), không vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục tiêu phát triển con người, mục tiêu đảm bảo phúc lợi xã hội và công bằng cho con người;
(3) Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sao cho các dịch vụ này được cung cấp cho người dân của mình
Hộp 1: Phân loại một số lĩnh vực sự nghiệp liên quan trong danh mục của WTO về dịch vụ
Dịch vụ kinh doanh
Dịch vụ nghiên cứu triển khai (R&D)
Dịch vụ R&D về khoa học tự nhiên
Dịch vụ R&D về khoa học xã hội và nhân văn
Các dịch vụ R&D khác
Dịch vụ giáo dục và đào tạo
Dịch vụ giáo dục mầm non & tiểu học
Dịch vụ giáo dục phôt thông
Dịc vụ giáo dục cao học
Dịch vụ giáo dục cho người lớn
Dịch vụ giáo dục khác
Dịch vụ về môi trường
Dịch vụ thoát nước
Dịch vụ thu gom chất thải
Các dịch vụ vệ sinh và liên quan khác
Cá dịch vụ liên quan về y tế và xã hội
Dịch vụ y tế bệnh viện
Các dịch vụ khác liên quan tới sức khỏe con người
Cá dịch vụ xã hội khac
Dịch vụ giải trí, văn hóa và thể thao
Dịch vụ giải trí ( nhà hát, xiếc, ban nhạc...)
Dịch vụ thông tấn báo chí
Dịch vụ thư viện, lưu trữ, bảo tàng, và các dịch vụ văn hóa khác
Dịch vụ thể thao và giải trí khác
(Trích từ trang web: danh mục phân loại các dịch vụ của GATS trong khuân khổ WTO)
1.1.2.2. Tổ chức sự nghiệp.
Tổ chức sự nghiệp
Ở Việt Nam ta, những đơn vị do Nhà nước hay các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội hoặc tư nhân thành lập với mục đích hoạt động là nhằm mục đích thúc đẩy sự tiến bộ chung của xã hội và phát triển toàn diện của con người thì được gọi là tổ chức sự nghiệp Tổng cục Thống kê. Tổng điều tra các đơn vị kinh tế, hành chính, sự nghiệp năm 2002
. Những tổ chức sự nghiệp ở Việt Nam bao gồm:
Các tổ chức sự nghiệp hoạt động về y tế, cứu trợ xã hội như các bệnh viên, trạm xá, y tế cơ quan, phòng khám y tế, kế hoạch hóa gia đình, hoạt động cứu trợ, các đơn vị hoạt động vệ sinh phòng dịch, hoạt động thú y...
Các tổ chức sự nghiệp hoạt động về giáo dục như: các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học...
Các tổ chức sự nghiệp hoạt động về văn hóa, thể thao, báo chí, truyền hình, nghiên cứu khoa học công nghệ, lưu trữ, thư việ, bảo tàng; về sân khấu, điện ảnh, âm nhạc, biểu diễn nghệ thuật...
Theo loại hình sở hữu, các tổ chức sự nghiệp được phân thành bốn nhóm chính sau Tổng cục Thống kê. Tổng điều tra các đơn vị kinh tế, hành chính, sự nghiệp năm 2002
.
Tổ chức sự nghiệp công: là những tổ chức sự nghiệp do Nhà nước thành lập, kinh phí hoạt động chủ yếu bằng nguồn ngân sách Nhà nước cấp.
Tổ chức sự nghiệp bán công: là những tổ chức sự nghiệp thành lập trên cơ sở liên kết giữa Nhà nước và tổ chức ngoài Nhà nước để cùng nhau xây dựng cơ sở vật chất, quản lý, điều hành mọi hoạt động theo qui định của pháp luật.
Tổ chức sự nghiệp do tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành lập.
Tổ chức sự nghiệp dân lập: là tổ chức do một tổ chức hoặc cá nhân thành lập theo quy định của pháp luật.
Trong khuân khổ chuyên đề này chỉ đề cập tới các TCSN công hoạt động trong lĩnh vực y tế và giáo dục đao tạo, đây là những lĩnh vực mang tính quyết sách hàng đầu của Đảng và nhà nước ta hiện nay.
Tổ chức sự nghiệp công
TCSN công trước hết phải là một TCSN, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập và được quản lý theo qui định của pháp luật. Ngoài ra, TCSN công được ngân sách nhà nước tài trợ để thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Tùy vào lĩnh vực hoạt động, tính chất của lĩnh vực và nguồn thu mà các TCSN công có thể thuộc vào một trong hai nhóm: TCSN công có thu và TCSN công không có thu. TCSN công có thu được hiểu là ngoài nguồn tài chính hoạt động từ ngân sách nhà nước cấp, các TCSN công còn được pháp luật cho phép thu phí, lệ phí từ người sử dụng "dịch vụ công" mà tổ chức đó cung cấp để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình.
Sự có mặt của các TCSN công thể hiện việc thực hiện vai trò và trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm cung cấp dịch vụ phúc lợi xã hội thiết yếu cho mọi người dân của mình, thông qua các tổ chức do nhà nước lập ra .Đây cũng là một việc làm tất yếu mà nhà nước khó có thể chối từ. Sự cung ứng này là để sửa chữa các khuyết tật của thị trường và đảm bảo phúc lợi xã hội. Dịch vụ công rất cần thiết đối với cuộc sống của con người, song tư nhân thường không muốn hoặc không có khả năng cung cấp. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên Mục 1.1.1.2. Các hình thức cung ứng dịch vụ công và vai trò của nhà nước
, không phải bất cứ lĩnh vực sự nghiệp nào cũng phải do trực tiếp Nhà nước thực hiện. Mà nhà nước cần phải nghiên cứu xác định làm rõ loại dịch vụ công nào thực sự cần thiết phải trực tiếp cung ứng, phạm vi đến đâu để tránh ôm đồm quá với khả năng cho phép, nhất là về tài chính và bộ máy nhân sự. Xu hướng chung của thế giới hiện nay là Nhà nước chỉ trực tiếp thực hiện cung ứng những dịch vụ công cộng nào mà xã hội không thể làm được hoặc không muốn làm. Trong điều kiện Việt Nam, Nhà nước vừa đẩy mạnh xã hội hoá các loại dịch vụ công về giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội đồng thời phân cấp mạnh, cụ thể cho các cấp chính quyền địa phương trực tiếp quản lý và thực hiện các loại dịch vụ công liên quan trực tiếp đến đời sống công dân, cộng đồng. Chính phủ, các Bộ chỉ trực tiếp thực hiện cung cấp những loại dịch vụ quan trọng. Ngoài ra các dịch vụ công mà xã hội có thể đảm nhận được nhà nước thực hiện chuyển giao, khuyến khích, tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, tư nhân thực hiện trong sự định hướng và hỗ trợ của nhà nước.
Trong khuân khổ chuyên đề thực tập này, sẽ chỉ đề cập đến các TCSN công trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Đây là lĩnh vực mang tính quyết sách hàng đầu của Đảng và nhà nước ta hiện nay. Giáo dục, đào tạo là linh vực tạo ra nguồn lực quyết định cho sự phát triển đất nước trong tương lai, mang lại lợi ích chung cho toàn xã hội và lĩnh vực chi phí cho tương lai. Nhà nước và xã hội phải quan tâm nếu muốn một tương lai tốt đẹp hơn đối với đất nước mình.
Cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp công
Khái niệm
Cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp công đó là phương thức quản lý của nhà nước đối với các TCSN, để các TCSN công hoạt động có hiệu quả, dịch vụ sự nghiệp đáp ứng được yêu cầu của xã hội, cả về số lượng và chất lượng dịch vụ. Mà nhà nước quản lý thông qua các chính sách, qua các văn bản quy phạm pháp luật để điều tiết, quản lý các tổ chức sự nghiệp công này.
Cơ chế ở đây đó là các chính sách của nhà nước, do vây khi xem xét cơ chế quản lý các tổ chức sụ nghiệp công là ta xem xét đến các chính sách của nhà nước đối với các tổ chức này.
Các TCSN công do nhà nước thành lập, là một bộ phận của bộ máy nhà nước nên cơ chế quản lý của các tổ chức này không khác gì nhiều so với cơ chế của các tổ chức hành chính nhà nước khác. Tức là, nhà nước đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, giao nhiệm vụ cần làm kèm theo cấp kinh phí thường xuyên để các tổ chức này hoạt động, đánh giá kết quả đạt được...
Về hình thức pháp lý: Thông thường hoạt động của các TCSN công được điều chỉnh theo một bộ luật riêng, chẳng hạn như luật về các TCSN, luật về dịch vụ công. Tuy nhiên, ở nhiều nước khác, những qui định về hoạt động của các TCSN công được thể hiện trong luật hành chính và hoặc không có luật riêng nào điều chỉnh . Các TCSN công của Việt Nam rơi vào trường hợp thứ hai, tức là chưa có luật riêng điề