Sau gần hai mươi năm thực hiện cải cách và đổi mới, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn đặc biệt về mặt kinh tế. Bước sang thế kỷ 21, đặc biệt với việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO nước ta đang đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn. Đứng trước sự chuyển mình mạnh mẽ của nền kinh tế nước nhà, ngân hàng với tư cách là một doanh nghiệp đặc biệt, một tổ chức tài chính cũng chuyển mình theo guồng quay mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước. Bởi vậy ngân hàng đã không ngừng đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ bằng việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ chất lượng và tiện dụng. Thẻ là một trong những dịch vụ như vậy. Tong khi trên thế giới thẻ đã trở thành một phương tiện thanh toán vô cùng phổ biến và không thể thiếu trong đời sống hàng ngày thì tại Việt Nam thẻ mới chỉ phát triển. Tuy nhiên nó đã có những đóng góp vô cùng to lớn vào sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam thông qua việc giảm bớt thói quen sử dụng tiền mặt, áp dụng công nghệ hiện đại trong thanh toán để giảm thời gian giao dịch và giảm các chi phí quản lý và các bất tiện khác do nền kinh tế tiền mặt đem lại. Sự phát triển của hoạt động thẻ trong nền kinh tế đem lại những lợi ích vô cùng to lớn cho cả người dân lẫn tổ chức. Với sự mở rộng của mạng lưới ATM và các đơn vị chấp nhận thẻ như hiện nay người dân chỉ cần cầm theo một tấm thẻ nhỏ gọn là có thể đi ra ngoài mua sắm, chi tiêu. Như vậy có thể thấy cùng với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là sự kiện Việt Nam ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO vào tháng 11 năm 2006, thì việc phát triển rộng rãi của thị trường thẻ ở Việt Nam là một tất yếu khách quan.
Tham gia hoạt động kinh doanh thẻ từ những ngày đầu tiên tại Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam luôn chú trọng phát triển sản phẩm, nghiên cứu ứng dụng các công nghệ mới, nâng cao chất lượng dịch vụ, tiện ích sử dụng thẻ cho khách hàng. Doanh số phát hành, thanh toán và sử dụng thẻ của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam luôn đạt tốc tăng trưởng cao, chiếm hơn 50% doanh số trên thị trường. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được Ngân hàng Ngoại Thương cũng phải đối mặt với những rủi ro trong quá trình kinh doanh thẻ, sự tấn công của các tổ chức tội phạm thẻ quốc tế khi chúng chuyển hướng sang thị trường Việt Nam. Từ năm 2002 đến nay tình hình giả mạo trong thanh toán và sử dụng thẻ tại ngân hàng Ngoại thương đang tăng với tốc độ đáng ngại gây tổn thất cho ngân hàng, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, đòi hỏi ngân hàng phải có sự quan tâm thích đáng đến hoạt động quản lý rủi ro trong quá trình kinh doanh thẻ của ngân hàng mình.
Là một sinh viên của trường ĐH KTQD, có cơ hội thực tập tại Phòng quản lý thẻ Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, với mong muốn hoạt động kinh doang thẻ của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ngày càng an toàn, hiệu quả em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro đối với dịch vụ thẻ tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam”
Thông qua đề tài, tác giả sẽ phân tích, đánh giá kết quả hoạt động phát triển dịch vụ thẻ tín dụng, thực trạng rủi ro trong các hoạt động này tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Qua đó đưa ra những giải pháp kiến nghị nhằm giảm thiểu tổn thất , hạn chế rủi ro nâng cao hoạt động kinh doanh thẻ tại ngân hàng.
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài: phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử kết hợp với phương pháp chọn mẫu, tổng hợp và khái quát, kết hợp nghiên cứu lý thuyết với phân tích thực trạng để phân tích, chứng minh và đề xuất giải pháp.
Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Quản lý rủi ro đối với dịch vụ thẻ tín dụng của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro đối với dịch vụ thẻ tín dụng tại NHNTVN.
Chương 3: Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong phát triển dịch vụ thẻ tín dụng tại NHNTVN
96 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2323 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro đối với dịch vụ thẻ tín dụng tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Sau gần hai mươi năm thực hiện cải cách và đổi mới, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn đặc biệt về mặt kinh tế. Bước sang thế kỷ 21, đặc biệt với việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO nước ta đang đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn. Đứng trước sự chuyển mình mạnh mẽ của nền kinh tế nước nhà, ngân hàng với tư cách là một doanh nghiệp đặc biệt, một tổ chức tài chính cũng chuyển mình theo guồng quay mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước. Bởi vậy ngân hàng đã không ngừng đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ bằng việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ chất lượng và tiện dụng. Thẻ là một trong những dịch vụ như vậy. Tong khi trên thế giới thẻ đã trở thành một phương tiện thanh toán vô cùng phổ biến và không thể thiếu trong đời sống hàng ngày thì tại Việt Nam thẻ mới chỉ phát triển. Tuy nhiên nó đã có những đóng góp vô cùng to lớn vào sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam thông qua việc giảm bớt thói quen sử dụng tiền mặt, áp dụng công nghệ hiện đại trong thanh toán để giảm thời gian giao dịch và giảm các chi phí quản lý và các bất tiện khác do nền kinh tế tiền mặt đem lại. Sự phát triển của hoạt động thẻ trong nền kinh tế đem lại những lợi ích vô cùng to lớn cho cả người dân lẫn tổ chức. Với sự mở rộng của mạng lưới ATM và các đơn vị chấp nhận thẻ như hiện nay người dân chỉ cần cầm theo một tấm thẻ nhỏ gọn là có thể đi ra ngoài mua sắm, chi tiêu. Như vậy có thể thấy cùng với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là sự kiện Việt Nam ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO vào tháng 11 năm 2006, thì việc phát triển rộng rãi của thị trường thẻ ở Việt Nam là một tất yếu khách quan.
Tham gia hoạt động kinh doanh thẻ từ những ngày đầu tiên tại Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam luôn chú trọng phát triển sản phẩm, nghiên cứu ứng dụng các công nghệ mới, nâng cao chất lượng dịch vụ, tiện ích sử dụng thẻ cho khách hàng. Doanh số phát hành, thanh toán và sử dụng thẻ của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam luôn đạt tốc tăng trưởng cao, chiếm hơn 50% doanh số trên thị trường. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được Ngân hàng Ngoại Thương cũng phải đối mặt với những rủi ro trong quá trình kinh doanh thẻ, sự tấn công của các tổ chức tội phạm thẻ quốc tế khi chúng chuyển hướng sang thị trường Việt Nam. Từ năm 2002 đến nay tình hình giả mạo trong thanh toán và sử dụng thẻ tại ngân hàng Ngoại thương đang tăng với tốc độ đáng ngại gây tổn thất cho ngân hàng, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, đòi hỏi ngân hàng phải có sự quan tâm thích đáng đến hoạt động quản lý rủi ro trong quá trình kinh doanh thẻ của ngân hàng mình.
Là một sinh viên của trường ĐH KTQD, có cơ hội thực tập tại Phòng quản lý thẻ Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, với mong muốn hoạt động kinh doang thẻ của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ngày càng an toàn, hiệu quả em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro đối với dịch vụ thẻ tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam”
Thông qua đề tài, tác giả sẽ phân tích, đánh giá kết quả hoạt động phát triển dịch vụ thẻ tín dụng, thực trạng rủi ro trong các hoạt động này tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Qua đó đưa ra những giải pháp kiến nghị nhằm giảm thiểu tổn thất , hạn chế rủi ro nâng cao hoạt động kinh doanh thẻ tại ngân hàng.
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài: phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử kết hợp với phương pháp chọn mẫu, tổng hợp và khái quát, kết hợp nghiên cứu lý thuyết với phân tích thực trạng để phân tích, chứng minh và đề xuất giải pháp.
Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Quản lý rủi ro đối với dịch vụ thẻ tín dụng của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro đối với dịch vụ thẻ tín dụng tại NHNTVN.
Chương 3: Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong phát triển dịch vụ thẻ tín dụng tại NHNTVN
Với trình độ và thởi gian còn hạn chế nên bài viết ko thể tránh khỏi những thiếu sót và tồn tại nhất định. Với tinh thần cầu thị, em rất mong được sự chỉ bảo đóng góp ý kiến của các thầy cô để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cám ơn!
CHƯƠNG 1
QUẢN LÝ RỦI RO ĐỐI VỚI DỊCH VỤ THẺ TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Những vấn đề chung về thẻ
1.1.1. Lịch sử phát triển của thẻ
Năm 1914 công ty xăng dầu California cấp thẻ cho nhân viên và một số khách hành nhằm khuyến khích bán sản phẩm công ty đó là sự xuất hiện của chiếc thẻ đầu tiên trên thế giới.
Năm 1949 một doanh nhân người Mỹ trong một lần đi ăn tối tại một nhà hàng ở NewYork đã phát hiện ra mình không đem theo tiền mặt, khiến ông rất khó xử. Sau lần khó xử đó ông đã mày mò chế tạo ra 1 phương tiện chi trả có thể thay cho việc đem theo tiền mặt. Ông cho ra đời loại thẻ mang tên “Diners Club” với lệ phí hàng năm là 5 Usd, những người mang theo loại thẻ này có thể ghi nợ khi đi ăn ở 27 nhà hàng ở NewYork đó chính là Mc Namara. Đến năm 1951 đã có 1 triệu Usd được tính nợ và số lượng thẻ ngày càng tăng lên, công ty phát hành thẻ Diner Club nhanh chóng thu được lãi. Do không tiên liệu được khả năng thu lãi hàng tỷ USD của ngành mới, Mc Namara đã bán hết cổ phần của mình cho những người hợp danh là Ralph Schneider và Alfred Bloomingdale vào năm 1953.
Trong hệ thống phát triển thẻ Diner Club của Schneider, các nhà bán lẻ bị tính chiết khấu 5% trên giá trị mỗi món hàng được bán ra. Mặc dù lợi nhuận giảm nhưng người bán lẻ vẫn chấp thuận vì họ hy vọng sẽ có nhiều người tiêu dùng đến mua hàng nhiều hơn nhờ phương tiện này.
Những chiếc thẻ Credit Card đầu tiên đã cấp cho những người giàu có và có tiếng tăm trong xã hội tại NewYork. Tuy nó chỉ được sư dụng hạn chế trong 27 nhà hàng sang trọng ở NewYork lúc bấy giờ. Công ty American Express cũng theo gót Diner Club cho ra đời chiếc thẻ American Express, vì sự hạn chế chỉ sử dụng trong việc ăn uống du lịch nên loại thẻ này vẫn chưa phổ biến rộng rãi đến mọi tầng lớp xã hội và chưa được xem như là chiếc thẻ thân kỳ (The Magic Card)
Khi chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra tất cả các loại thẻ Credit Card và Charge Card đã bị cấm sử dụng, cho đến sau chiến tranh thế giới thứ 2 mới được phổ biến trở lại. Vì lợi tức mag lại từ thẻ tín dụng khá nhiều nên các ngân hàng bắt đầu nhúng tay vào, tuy nhiên nó vẫn chỉ được sử dụng tại các địa phương và các cửa hàng bán lẻ. Cho đến năm 1970 khi mà kỹ thuật điện toán bắt đầu phát triển và hệ thống căn bản cho “The Standards For Magnetic Strip” được hình thành, thì kỹ nghệ Credit card mới thực sự phát triển mạnh mẽ và trở thành một phần của thời kỳ thông tin.
Đến năm 1966 Bank American (tiền thân của Visa) bắt đầu liên kết với các ngân hàng ở các tiểu bang khác, trao quyền phát hành thẻ American Card cho các ngân hàng thông qua việc ký các hợp đồng đại lý, khởi đầu cho giai đoạn tăng tốc trong dịch vụ thẻ. Tới năm 1977 thẻ của Bank of American được chấp nhận trên toàn cầu. Thay vì tên BankAmerican tên thẻ Visa ra đời với màu sắc đặc trưng vẫn là xanh lam, trắng và vàng.
Cùng năm 1966 ba nhóm ngân hàng lớn phía đông nước Mỹ quyết định hợp tác thành lập tập đoàn kinh doanh tín dụng riêng, có tên là Interbank Card Association (ICA). Sau này ICA được đổi thành MasterCard, ICA ban hành các quy định về cấp phép giao dịch thanh toán bù trừ, các biện pháp makerting, bảo mật các vấn đề liên quan tới luật pháp nhằm vận hành công việc một cách có hiệu quả. Năm 1968 ICA bắt đầu mở rộng chiến lược hoạt động kinh doanh trên phạm vi toàn cầu thông qua việc liên kết với ngân hàng Banco National của Mexico. Sau đó ICA tiếp tục tìm kiếm đối tác tại các thị trường châu Âu và cho ra đời thẻ EuroCard. Cũng vào năm 1968 ICA kết nạp một số thành viên là một số các ngân hàng tại Nhật nhằm từng bước thâm nhập nắm bắt thị trường Đông Á.
Bên cạnh những thuận lợi thì trong lịch sử phát triển của lĩnh vực thẻ cũng đã chứng kiến những khó khăn nhất định. Điển hình phải kể đến sự kiện vào mùa giáng sinh năm 1966 do bất cẩn trong sổ sách, các ngân hàng Chicago đã gửi thẻ tín dụng tràn lan cho các gia đình, ngay cả người chết và trẻ sơ sinh cũng được gửi. Nhiều người đã sử dụng hoặc bán lại các loại chỉ có người có tên trên thẻ tín dụng mới là người chịu trách nhiệm. Vụ thẻ mà họ nhận được một cách vô tội vạ vì họ phát hiện rằng theo pháp luật thì đổ bể đó đã buộc chính phủ phải chấn chỉnh ngành kinh doanh mới mẻ này. Tháng 10/1970 tổng thống Richard Nixon ký một đạo luật cấm những nhà phát hành thẻ không được gửi thẻ cho những ai không có nhu cầu và quy định rằng nếu người mang thẻ báo là bị mất hoặc bị ăn cắp thẻ thì họ sẽ được xoá trách nhiệm thanh toán nợ. Sau đó pháp luật quy định ngày càng chặt chẽ hơn trong vấn đề thẻ.
Ngày nay thẻ đã phát triển và xuất hiện rộng rãi trên toàn thế giới, và trở thành một phương tiện thanh toán phổ biến ở các nước phát triển, các công ty và ngân hàng liên kết với nhau để khai thác lĩnh vực thu nhiều lợi nhuận này. Thẻ dần dần được xem là công cụ văn minh thuận lợi trong các cuộc giao dịch mua bán. Các loại thẻ Master, Visa, Diner Club, JCB, American Express được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu và các loại thẻ này thay nhau phân chia những thị trường rộng lớn.
1.1.2. Khái niệm và Phân loại thẻ
1.1.2.1 Khái niệm
Thẻ ngân hàng là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, ra đời từ phương thức mua bán chịu hàng hoá bán lẻ và phát triển gắn liền với sự ứng dụng công nghệ tin học trong lĩnh vực ngân hàng. Thẻ ngân hàng là công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành thẻ cấp cho khách hàng sử dụng thanh toán hàng hoá dịch vụ hoặc rút tiền mặt trong phạm vi số dư tiền gửi của mình hoặc hạn mức tín dụng được cấp.
Thẻ ngân hàng luôn được làm bằng Plastic theo kích cỡ tiêu chuẩn quốc tế và bao gồm các yếu tố: nhãn hiệu thương mại của thẻ, tên và logo của nhà phát hành thẻ, số thẻ, ngày hiệu lực và tên của chủ thẻ. Ngoài ra trên thẻ còn có thể có tên công ty phát hành thẻ hoặc thêm một số yếu tố khác theo tiêu chuẩn của tổ chức tập đoàn thẻ quốc tế...
1.1.2.2 Phân loại
Hiện nay về lý thuyêt có khá nhiều cách phân loại thẻ nhưng chủ yếu người ta phân loại theo 2 tiêu thức chính : phân loại theo công nghệ sản xuất và phân loại theo tính chất thanh toán của thẻ:
Nếu căn cứ theo công nghệ sản xuất chia làm 3 loại : thẻ in nổi (Embossding Card), thẻ băng từ (Magnetic stripe), thẻ thông minh (Smart Card)
Nếu căn cứ vào tính chất thanh toán có thể chia thành : thẻ tín dụng quốc tế (Credit Card) và thẻ ghi nợ (Debit Card).
Ngoài ra người ta còn có thể phân loại theo : phân loại theo phạm vi lãnh thổ, phân loại theo chủ thể phát hành thẻ...
1.1.3. Các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh thẻ
Hiện nay lĩnh vực thẻ trong một quốc gia có sự tham gia chặt chẽ của 4 thành phần cơ bản là: ngân hàng phát hành thẻ, ngân hàng thanh toán thẻ, chủ thẻ và các đơn vị chấp nhận thẻ. Đối vởi thẻ quốc tế còn thêm 1 thành phần nữa là các tổ chức thẻ quốc tế.
*Chủ thẻ
Hiểu một cách đơn giản thì chủ thẻ là người sở hữu hợp pháp chiếc thẻ. Chủ thẻ là người được ngân hàng, tổ chức thẻ chấp nhận phát hành thẻ trên cơ sở năng lực tài chính khả năng chi trả của người đó hoặc dựa vào sự bảo lãnh của một tổ chức. Đó cũng có thể là một người được tổ chức uỷ quyền sử dụng thẻ.
Chủ thẻ được phép dùng chiếc thẻ để chi tiêu, thanh toán hoặc rút tiền. Mỗi khi thanh toán cho các cơ sở chấp nhận thẻ để mua hàng hoá dịch vụ hoặc trả nợ, chủ thẻ phải xuất trình thẻ để nơi đây kiểm tra theo quy trình và lập biên lai thanh toán. Đối với thẻ tín dụng sau một khoảng thời gian nhất định tuỳ theo quy định của từng ngân hàng phát hành, chủ thẻ sẽ nhận được sao kê. Sao kê là bản thông báo chi tiết toàn bộ các giao dịch chi tiêu sử dụng thẻ, số dư nợ cuối kỳ, ngày đến hạn thanh toán hoặc số tiền thanh toán tối thiểu bắt buộc, các khoản lãi và phí phát sinh và các thông báo liên quan tới việc sử dụng thẻ. Căn cứ vào thông tin trên sao kê, chủ thẻ sẽ thực hiện thanh toán khoản tín dụng thẻ đã sử dụng cho ngân hàng phát hành thẻ.
*Ngân hàng phát hành
Ngân hàng phát hành là đơn vị phát hành thẻ cho chủ thẻ. Ngân hàng phát hành chịu trách nhiệm nhận hồ sơ xin cấp thẻ, xử lý và ra quyết định phát hành thẻ, mở và quản lý tài khoản thẻ, đồng thời thực hiện việc theo dõi chi tiêu, thanh toán cuối cùng với chủ thẻ.
Điều kiện bắt buộc không thể thiếu đó là: ngân hàng phát hành phải là thành viên chính thức của tổ chức thẻ quốc tế. Ngân hàng phát hành thẻ phải ký kết với chủ thẻ các điều khoản, điều kiện sử dụng và thanh toán thẻ trên cơ sở pháp luật và những điều khoản chung của các tổ chức thẻ quốc tế. Ngân hàng phát hành có quyền ký kết hợp đồng đại lý với bên thứ ba, là một ngân hàng hoặc tổ chức tài chính tín dụng khác trong việc thanh toán và phát hành thẻ tín dụng.
*Ngân hàng thanh toán
Đây là ngân hàng trực tiếp ký hợp đồng với các đơn vị chấp nhận thanh toán thẻ. Nó giữ vai trò là cầu nối giúp chủ thẻ có thể mua sắm hàng hoá, thanh toán tiền dịch vụ tại đơn vị chấp nhận thẻ đó và giúp đơn vị chấp nhận thẻ thu tiền của chủ thẻ. Một ngân hàng có thể vừa đóng vai trò là ngân hàng thanh toán vừa đóng vai trò là ngân hàng phát hành.
Trong hợp đồng chấp nhận thẻ ký kết với các đơn vị cung ứng hàng hoá dịch vụ, đơn vị chấp nhận thẻ, ngân hàng thanh toán thẻ cam kết: chấp nhận các đơn vị này vào hệ thống thanh toán thẻ của ngân hàng, cung cấp các thiết bị cần thiết cho đơn vị để phục vụ cho việc chấp nhận thanh toán thẻ, kèm theo những hướng dẫn sử dụng hoặc chương trình đào tạo nhân viên cách thức vận hành cùng với dịch vụ bảo trì, bảo dưỡng đi kèm trong suốt thời gian hoạt động, quản lý và xử lý những giao dịch có sử dụng thẻ tại những đơn vị này. Thông thường ngân hàng thanh toán thu từ các đơn vị cung ứng dịch vụ hàng hoá có ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ một mức phí chiết khấu cho việc xử lý các giao dịch có sử dụng thẻ tại đây.
*Đơn vị chấp nhận thẻ
Đơn vị chấp nhận thẻ là các thành phần kinh doanh hàng hoá và dịch vụ ký kết với ngân hàng thanh toán hợp đồng về việc chấp nhận thanh toán thẻ như: nhà hàng, khách sạn, cửa hàng... Các đơn vị này được trang bị máy móc kỹ thuật để có thể thanh toán, chi tiêu bằng thẻ của các chủ thẻ đến mua hàng hoá dịch vụ của các đơn vị này.
Ngân hàng thanh toán trước khi ký hợp đồng chấp nhận thẻ với bất kỳ một đơn vị nào đều phải tiến hành đánh giá nhiều mặt về đơn vị đó: ngành nghề kinh doanh, đạo đức kinh doanh, năng lực...Sau khi đã ký kết hợp đồng với ngân hàng thanh toán, đơn vị chấp nhận thẻ phải thực hiện đúng theo những điều khoản đã được ghi trong hợp đồng. Đơn vị chấp nhận thẻ ko được thu phí của chủ thẻ. Mặc dù phải trả cho ngân hàng thanh toán một tỉ lệ phí chiết khấu theo lượng tiền mỗi giao dịch nhưng lại không được thu phí từ chủ thẻ, các đơn vị chấp nhận thẻ vẫn có được lợi nhuận vì có lợi thế cạnh tranh. Bởi việc chấp nhận thanh toán bằng thẻ sẽ giúp các đơn vị này thu hút được một lượng lớn khách hàng, góp phần tăng doanh thu, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
*Tổ chức thẻ quốc tế
Là đơn vị đứng đầu quản lý mọi hoạt động và thanh toán thẻ trong mạng lưới của mình. Đây là hiệp hội các tổ chức tài chính tín dụng lớn có mạng lưới hoạt động rộng khắp và đạt được sự nổi tiếng với thương hiệu và các sản phẩm đa dạng: tổ chức thẻ Visa, tổ chức thẻ MasterCard, công ty thẻ AmericanExpress, công ty thẻ JCB, công ty thẻ DinersClub, công ty Mondex...Tổ chức thẻ quốc tế đưa ra những quy định cơ bản về hoạt động phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ, đóng vai trò trung gian giữa các tổ chức và công ty thành viên trong việc điều chỉnh và cân đối các lượng tiền thanh toán giữa các công ty thành viên.
1.1.4 Các nghiệp vụ dịch vụ thẻ tín dụng
1.1.4.1 Nghiệp vụ phát hành thẻ
Phát hành thẻ là nghiệp vụ phát sinh đâu tiên trong dịch vụ thẻ tại ngân hàng. Nghiệp vụ phát hành thẻ của ngân hàng bao gồm việc quản lý và triển khai toàn bộ quá trình phát hành thẻ, theo dõi chi tiêu và thu nợ từ khách hàng. Đây ko chỉ là khâu cung cấp cho khách hàng một chiếc thẻ mà nó còn bao gồm cả một quá trình phục vụ đằng sau liên quan đến việc sử dụng chiếc thẻ của khách hàng nó bao gồm những nội dung chủ yếu cơ bản sau:
Sơ đồ 1.1 : Sơ đồ nghiệp vụ phát hành thẻ
Đầu tiên khách hàng nộp hồ sơ yêu cầu phát hành thẻ cho tổ chức phát hành. Bộ hồ sơ phát hành thẻ phải được hoàn thiện theo yêu cầu của tổ chức phát hành, bao gồm một số thông tin cơ bản như: họ tên, độ tuổi, giới tính, mức thu nhập, nơi làm việc, tình trạng cư trú...
Tổ chức phát hành thẻ tiến hành xét duyệt bộ hồ sơ xin phát hành của khách hàng. Tiến trình xét duyệt ðýợc tiến hành từng bước như sau: thẩm định chính xác thông tin của khách hàng cung cấp, đánh giá các năng lực của khách hàng như năng lực hành vi, năng lực tài chính... đánh giả khả năng rủi ro trên cơ sở đó tổ chức phát hành tiến hành ra quyết định chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu phát hành thẻ của khách hàng hoặc đưa ra những yêu cầu bổ sung.
Nếu hồ sơ xin phát hành thẻ được chấp nhận, tổ chức phát hành tiến hành phát hành thẻ cho khách hàng - chủ thẻ. Việc phát hành sẽ bao gồm: mở tài khoản thẻ cho khách hàng, loại thẻ chấp nhận phát hành lập hồ sơ xin quản lý chủ thẻ, xác định hạng thẻ , xác định hạn mức chi tiêu cho chủ thẻ và cuối cùng là in thẻ và trả thẻ cho chủ thẻ.
Sau khi giao thẻ cho chủ thẻ, tổ chức phát hành còn phải làm một số việc sau:
Quản lý hồ sơ thông tin chủ thẻ
Quản lý hoạt động sử dụng của chủ thẻ
Thực hiện thu nợ chủ thẻ
Tổ chức thanh toán bù trừ với các tổ chức thẻ quốc tế
Trong hoạt dộng triển khai và phát hành thẻ, ngoài việc hưởng phí phát hành thu được từ chủ thẻ, các ngân hàng còn được hưởng khoản phí trao đổi do ngân hàng thanh toán thẻ chia sẻ từ phí thanh toán thẻ thông qua các tổ chức thẻ quốc tế. Đây là phần lợi nhuận cơ bản của các tổ chức tài chính, ngân hàng phát hành thẻ. Từ nguồn thu này, các tổ chức tài chính, ngân hàng phát hành thẻ đưa ra được những chế độ miễn lãi và ưu đãi khác cho khách hàng để mở rộng khách hàng sử dụng thẻ cũng như tăng doanh số sử dụng thẻ.
1.1.4.2 Nghiệp vụ thanh toán thẻ
Khi nghiệp vụ phát hành thẻ kết thúc đó là lúc chủ thẻ nhận được chiếc thẻ và chủ thẻ có thể sử dụng thẻ để chi tiêu, thanh toán hoặc rút tiền theo hạn mức tín dụng đã ký kết với ngân hàng phát hành. Khi tới mua bán giao dịch chấp nhận thanh toán thẻ họ có thể đưa thẻ cho người bán để thanh toán. Có thể thanh toán bằng máy - hình thức thanh toán chủ yếu, hoặc có thể thanh toán bằng tay. Việc thanh toán chỉ mất 3-4 giây, rất nhanh. Tuy nhiên thực tế diễn ra thì lại khá phức tạp. Có thể chia ra làm 2 giai đoạn :
Giai đoạn 1: chấp nhận thanh toán thẻ
Sơ đồ 1.2 : Sơ đồ nghiệp vụ chấp nhận thanh toán thẻ
( 1 ) Mỗi khi chủ thẻ đến mua hàng tại đơn vị chấp nhận thẻ và dùng thẻ để thanh toán. Đơn vị chấp nhận thẻ cà thẻ qua máy điện tử và nhập dữ liệu. Những thông tin cần thiết như: thông tin chủ thẻ, thông tin về đơn vị chấp nhận thẻ, thông tin về giao dịch sẽ được chuyển đến trung tâm thanh toán thẻ tín dụng quốc tế.
( 2 ) Tại trung tâm thanh toán thẻ tín dụng quốc tế: dữ liệu từ đơn vị chấp nhận thẻ được tiếp nhận và chuyển đến ngân hàng phát hành để yêu cầu ngân hàng ra quyết định chấp nhận hay từ chối khoản chi tiêu đó của chủ thẻ.
( 3 ) Ngân hàng phát hành nhận dữ liệu từ trung tâm thanh toán thẻ tín dụng quốc tế, sẽ tiến hành xử lý: kiểm tra hạn mức của thẻ... để đảm bảo khoản chi tiêu đó của chủ thẻ vẫn nằm trong hạn mức được cấp hoặc ko nằm trong những trường hợp được phép chi tiêu: nằm trong danh sách Blulltin , thẻ bị khoá..
( 4 ) Nếu chấp nhận ngân hàng phát hành sẽ gửi dữ liệu thông báo chấp nhận khoản chi tiêu đó của chủ thẻ.
( 5 ) Trung tâm thanh toán thẻ tín dụng quốc tế nhận thông báo từ ngân hàng phát hành và gửi ngược lại cho đơn vị chấp nhận thẻ.
( 6 ) Tại đơn vị chấp nhận thẻ, sau khi nhận được thông báo chấp nhận từ trung tâm thanh toán thẻ tín dụng quốc tế, máy điện tử sẽ in ra hoá đơn để chủ thẻ xác nhận.
Giai đoạn 2: Thu tiền và thu nợ
Sơ đồ 1.3: Sơ đồ nghiệp vụ thu tiền và thu nợ
( 1 ) Đơn vị chấp nhận thẻ gửi thông tin về giao dịch chấp nhận thẻ ở trên cho ngân hàng th