Tại Việt nam, hoạt động thanh toán thẻ được triển khai vào năm 1990 do ngân hàng Ngoại thương Viêt Nam (VCB) thực hiện. Tiếp sau đó có ba NHTM khác ở Việt Nam tham gia: Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam (EXIMBANK), Ngân hàng FirstVinaBank. Cho đến thời điểm hiện tại, số ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ thẻ với tư cách làm đại lý cho các NHPHT và cho tổ chức thẻ quốc tế như Master Card, VISA, Amex, JCB , Diners Club là khá nhiều, riêng trên địa bàn thành phố HCM và Hà nội đã có trên 10 ngân hàng nhận thanh toán bằng thẻ tín dụng. Giai đoạn 1996-1997 được xem như thời kỳ hoàng kim của thị trường thẻ tín dụng Việt nam với doanh số ước đoán trên 200 triệu USD/năm; trước năm 1998, tốc độ thanh toán thẻ tăng trung bình vào khoảng 200% /năm. Tuy nhiên sau đó, sự sụt giảm đầu tư nước ngoài và lượng du khách quốc tế đến Việt Nam đã khiến việc thanh toán bằng thẻ tín dụng giảm rõ rệt, nguyên nhân chủ yếu do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực. Trong đó, lĩnh vực khách sạn - nguồn thu thanh toán thẻ chủ yếu - là loại hình bị ảnh hưởng mạnh nhất cả về số lượng lẫn trị giá giao dịch.
Tuy gặp khó khăn như vậy, nhưng ngân hàng vẫn tích cực phát triển lĩnh vực thanh toán thẻ. Mạng lưới các ĐVCNT ngày càng được mở rộng cả về số lượng và loại hình. Đến cuối năm 2006, tổng số các ĐVCNT trên toàn quốc đạt khoảng 10.000 cơ sở so với gần 2000 cơ sở vào cuối năm 1996 và 3500 cơ sở vào cuối năm 1998. Với sự cố gắng của NHTM, đến nay mạng lưới chấp nhận thanh toán thẻ đã lên tới gần 12.000 điểm nhưng vẫn chủ yếu là loại hình khách sạn, nhà hàng, sân ba, siêu thị và các cửa hàng có khả năng tiếp cận với đối tượng là khách du lịch, doanh nhân nước ngoài vào Việt Nam.
Thời kỳ đầu hoạt dộng thẻ, để chiếm thị phần, các ngân hàng nước ngoài với lợi thế về vốn đầu tu lớn, chi phi tiếp thị quảng cáo nhiều, công nghệ phát triển và kinh nghiệm trong kinh doanh thẻ đã thi nhau hạ phí chiết khấu thu từ ĐVCNT. Điều này làm giảm đáng kể lợi nhuận, thậm chí có thể gây ra thua lỗ cho các NHTM Việt nam nếu không có sự ra đời của Hiệp hội các ngân hàng thanh toán thẻ vào 8/1996 với 6 thành viên: VCB, ACB, EXIMBANK, FIRSTVINABANK, ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Công thương và ANZ. Sau khi ra đời, hiệp hội đã ấn định mức phí tối thiểu mà các ngân hàng TM áp dụng đối với ĐVCNT tại Việt Nam, làm cho thị trường thẻ Việt Nam đi vào sự cạnh tranh lành mạnh. Đây là một hoạt động được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
78 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2197 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp mở rộng hoạt động kinh doanh thẻ thanh toán tại Sở giao dịch ngân hàng ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THẺ THANH TOÁN
I. TỔNG QUAN VỀ THẺ THANH TOÁN
1. Lịch sử hình thành và phát triển của thẻ thanh toán
Nhiều người trong chúng ta hẳn đã từng gặp những tình huống khó xử khi trong người không có tiền mặt (ngay cả đối với những người “tiền nong không thành vấn đề”). Chiếc thẻ đầu tiên đánh dấu cuộc cách mạng về thẻ tín dụng ra đời từ một tình huống tương tự thế. Đó là vào một buổi tối năm 1949, sau khi ăn tối ở một nhà hàng, ông Frank Mc Namara, một doanh nhân người Mỹ, bỗng phát hiện mình không mang theo tiền mặt và ông buộc phải gọi điện về nhà để người nhà mang tiền đến trả. Cũng vào thời gian này, ở Mỹ, người ta đã sử dụng khá phổ biến các loại thẻ để mua hàng, mua xăng nhưng tiền mặt vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong các giao dịch. Từ những bất cập đó, Frank đã sáng tạo ra thẻ “Diners Club”, một loại thẻ tín dụng đầu tiên trên thế giới. Với lệ phí hàng năm là 5USD, những người mang thẻ “Diners Club” có thể ghi nợ khi đi ăn ở 27 nhà hàng nằm trong hoặc ven thành phố New York. Đến năm 1951, hơn 1 triệu USD được chi tiêu bằng thẻ này tại Mỹ. Cũng trong năm 1951, Ngân hàng Franklin National Bank ở LongIsland, New York phát hành thẻ tín dụng đầu tiên của mình. Tại đây, khách hàng đệ trình đơn xin vay và được thẩm định khả năng thanh toán . Các ngân hàng đủ tiêu chuẩn sẽ được duyệt cấp thẻ. Thẻ này dùng thanh toán cho các thương vụ bán lẻ hàng hoá- dịch vụ. Các chủ thẻ rất thích hình thức này vì được hưởng khoản tín dụng không tính lãi do ngân hàng cấp, còn các ĐVCNT cũng bán được nhiều hơn. Chính vì sự tiện lợi của Diners Club cũng như sự ưa thích của cả chủ thẻ lẫn ĐVCNT nên đến năm 1955, hàng loạt các loại thẻ tương tự ra đời, như: Trip Charge, Goldenkey, Gourment, Guest Club, Esquire Club, … Năm 1958 Carte Blanche và American Express ra đời và thống lĩnh thị trường.
Trong giai đoạn này, phần lớn thẻ dành cho giới doanh nhân giàu có, những người có thu nhập cao. Sau đó, các ngân hàng đã cảm nhận rằng giới bình dân mới là đối tượng sử dụng thẻ chủ yếu trong tương lai. Vì vậy, các ngân hàng bắt đầu để ý đến phân đoạn thị trường rộng lớn này. Khi tầng lớp bình dân bắt đầu sử dụng thẻ Bank Americard do Bank of American phát hành (vào năm 1960) thì việc kinh doanh của ngân hàng này trở nên phát đạt và dậy lên làn sóng học hỏi của các ngân hàng thương mại khác.
Chẳng bao lâu, năm 1967 Bank Americard gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt của Mastercharge (do tổ chức Western States Bankcard Association phát hành). Từ đây, kinh doanh loại hình dịch vụ mới này phát triển rầm rộ không chỉ trên đất Mỹ. Để phù hợp với sự phát triển này, Bank Americard đã trở thành VISA USA (1977) và sau đó là Tổ chức VISA Quốc tế còn Mastercharge trở thành Tổ chức Mastercard Quốc tế (1979). Nhận ra rằng người tiêu dùng không nề hà việc trả lãi 16%-20% trên bảng quyết toán thẻ tín dụng của họ, các công ty viễn thông quốc tế, công ty xe hơi, bảo hiểm, các hãng hàng không… đã vào cuộc. Ngày nay, với doanh số giao dịch hàng trăm tỷ USD mỗi năm Mastercard và VISA card chỉ đứng sau tiền mặt và séc trong hệ thống thanh toán toàn cầu. Cùng với nó, thẻ JCB, Diners Club và AMEX cũng chiếm lĩnh thị trường rộng lớn.
Hiện nay, trên thế giới, thẻ tín dụng quốc tế được xem như một công cụ thanh toán hiện đại, văn minh, thuận tiện đặc biệt là ở các nước phát triển. Sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ đã liên tục cải tiến và hoàn thiện hơn những tính năng của thẻ tín dụng, giúp cho thẻ tín dụng trở thành phương thức thanh toán nhanh gọn, chính xác, an toàn và tiện lợi.
2. Phân loại thẻ thanh toán
a/ Theo công nghệ sản xuất
Thẻ băng từ ( Magnetic Stripe)
Thẻ được sản xuất dựa trên kĩ thuật thư tín với hai băng từ chứa thông tin được mã hoá ở mặt sau của thẻ. Thẻ này được sử dụng phổ biến trong vòng 20 năm trở lại đây nhưng cũng có thể bị người khác lợi dụng vì thông tin ghi trong thẻ hẹp và mang tính cố định nên không thể áp dụng kĩ thuật mã hóa an toàn, có thể đọc được dễ dàng băng thiết bị gắn máy vi tính.
Thẻ thông minh ( Smart Card )
Là thế hệ thẻ mới nhất của thẻ thanh toán, có tính an toàn bảo mật rất cao. Thẻ thông minh dựa trên kĩ thuật xử lý tin học nhờ gắn vào thẻ một chíp điện tử có cấu trúc giống như một máy tính hoàn hảo. Tuy vậy, do là công nghệ mới, có giá thành cao nên việc phát hành chấp nhận thanh toán loại thẻ này mới chỉ phổ biến ở các nước phát triển.
b/ Theo chủ thể phát hành
Thẻ do ngân hàng phát hành ( Bank Card )
Đây là loại thẻ do ngân hàng phát hành giúp cho khách hàng sử dụng một cách linh hoạt tài khoản của mình tại ngân hàng, hoặc sử dụng một số tiền do ngân hàng cấp tín dụng.
Thẻ do tổ chức phi ngân hàng phát hành ( Non-bank Card )
Đây là thẻ du lịch và giả trí của các tập đoàn kinh doanh lớn phát hành bởi các công ty xăng dầu, điện thoại, các cửa hiệu lớn.
c/ Theo tính chất thanh toán của thẻ:
Thẻ tín dụng ( Credit Card )
Đây là loại thẻ cho phép chủ thẻ sử dụng thẻ để thanh toán cho các hàng hoá dịch vụ với hạn mức chi tiêu nhất định mà ngân hàng cho phép căn cứ vào khả năng tài chính, số tiền ký quỹ hoặc tài sản thế chấp của chủ thẻ. Thẻ tín dụng là một hình thức chi tiêu trước, trả tiền sau với thời hạn ưu đãi không thu lãi (khoảng từ 10 dến 45 ngày). Chủ thẻ có thể thanh toán một phần hoặc có thể là toàn bộ số tiền đã chi tiêu vào cuối mỗi kỳ tín dụng theo sao kê hàng tháng.
Thẻ Ghi Nợ ( Debit Card )
Đây là loại thẻ do ngân hàng phát hành cho người có tài khoản tiền gửi mở tại ngân hàng cho phép chủ thẻ dùng thẻ để thanh toán cho chủ hàng toàn bộ hay một phần số dư của thẻ. Việc thanh toán này được tiến hành trên cơ sở chuyển khoản tiền từ tài khoản của chủ thẻ sang tài khoản của người bán hàng. Chủ thẻ được chi tiêu trong phạm vi mình có, nhưng để gia tăng tính cạnh tranh sản phẩm thẻ của mình, các ngân hàng có thể cấp cho chủ thẻ một mức thấu chi.
Có hai loại thẻ ghi nợ cơ bản:
Thẻ online: Là thẻ ghi nợ mà giá trị giao dịch được khấu trừ ngay lập tức vào tài khoản chủ thẻ
Thẻ offline: là thẻ ghi nợ mà giá trị những giao dịch sẽ đựơc khấu trừ vào tài khoản ngay sau giao dịch vài ngày.
Thẻ rút tiền mặt ( Cash card )
Là loại thẻ với chức năng chuyên biệt để rút tiền mặt tại các máy ATM hoặc ở các ngân hàng. Chủ thẻ phải ký quỹ tiền gửi tại tài khoản ở ngân hàng hoặc phải được cấp tín dụng thấu chi mới sử dụng thẻ được. Số tiền rút ra mỗi lần sẽ được trừ dần vào số tiền ký quỹ. Cash Card có những loại sau:
Thẻ rút tiền mặt ATM ( Automatic Teller Machine )
Thẻ đảm bảo thanh toán séc ( Check Guarantee Card)
Các loại thẻ Debit với các thương hiệu như CIRCUS, IDPLUS của VISA; MASTRO của Master Card.
Thẻ lưu giữ giá trị ( Stored Value Card )
Thẻ được phát hành bằng cách nộp một số tiền nhất định để mua thẻ, mỗi lần sử dụng thì số tiền trên thẻ bị trừ dần. Thẻ này thường được sử dụng để mua bán hàng hoá có giá trị tương đối nhỏ như xăng dầu ở các trạm bán xăng tự động, gọi điện thoại, thanh toán phí cầu đường.
d/ Theo phạm vi lãnh thổ
Thẻ nội địa
Là loại thẻ đựơc giới hạn trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia, do vậy đồng tiền được sử dụng trong giao dịch mua bán hàng hoá hay rút tiền mặt phải là đồng bản tệ.
Thẻ quốc tế
Đây là loại thẻ được chấp nhận trên toàn cầu, sử dụng ngoại tệ mạnh để thanh toán,. Thẻ quốc tế được hỗ trợ và quản lý bởi những tổ chức tài chính lớn như Master Card, VISA. hoặc các công ty điều hành như AMEX, JCB, Diners Club..., hoạt động theo một hệ thống thống nhất, đồng bộ.
e/ Theo mục đích sử dụng
Thẻ kinh doanh hay còn gọi là thẻ công ty ( Business Card )
Là loại thẻ được phát hành cho nhân viên của công ty sử dụng, nhằm giúp cho công ty quản lý chặt chẽ việc chi tiêu vào các công việc chung của nhân viên công ty mình. Hàng tháng, hàng quý, hàng năm công ty sẽ được cung cấp những thông tin quản lý một cách tóm tắt và chi tiết về sự chi tiêu này.
Thẻ du lịch và giải trí ( Travel and Entertainment Card )
Là loại thẻ do các tập đoàn hay công ty tư nhân lớn phát hành để phục vụ cho ngành du lịch và giải trí.
3. Đặc điểm và cấu tạo của thẻ thanh toán
3.1 Đặc điểm của thẻ thanh toán
A. Mặt trước của thẻ
Thương hiệu của tổ chức thẻ quốc tế ( nếu là thẻ quốc tế ), đồng thời thể hiện loại thẻ: VISA, MASTER CARD, AMERICAN EXPRESS, JCB.
Tên tổ chức, ngân hàng phát hành thẻ: nằm phía trên bên trái thẻ.
Biểu tượng của thẻ:
Đối với thẻ Visa: Nằm ở góc bên phải thẻ, có hình chim bồ câu đang bay được in chìm trên thẻ, phía dưới là phù hiệu Visa gồm 3 đường kẻ ngang màu xanh tím, màu trắng và màu vàng nâu, chữ Visa màu vang chạy ngang đường kẻ trắng.
Đối với thẻ Master: Biểu tượng gồm hai phần:
Hologram: Hình ảnh nổi ba chiều có in hình quả địa cầu giao nhau với các lục địa, phần hình nổi lazer này có thể thấy được và có vẻ như di chuyển khi nghiêng thẻ.
Phù hiệu Master Card : nằm trên 2 đường tròn đỏ vàng giao nhau.
Đối với thẻ Amex: biểu tượng của thẻ chính là người lính la mã đội mũ sắt.
Đối với thẻ JCB: biểu tượng của thẻ là chữ JCB được lồng trong 3 đường gạch song song liền nhau với màu sắc khác nhau.
Số thẻ: Đây là số dành riêng cho mỗi chủ thẻ, số được dập nổi lên trên thẻ.
Ngày hiệu lực của thẻ: Là thời hạn mà thẻ được lưu hành.
Họ và tên chủ thẻ: in bằng chữ nổi, hàng dưới cùng viết theo lối Anh Mĩ ( tên trước họ sau )
Ký tự an ninh trên thẻ, số mật mã của đợt phát hành: mỗi loại thẻ luôn có ký tự an ninh kèm theo, in phía sau của ngày hiệu lực. Ví dụ: Thẻ Visa có chữ V ( hoặc CV, PV, RV,GV ), thẻ MASTER có chữ M và chữ C lồng vào nhau.
B. Mặt sau của thẻ:
Giải từ tính: là băng màu đen chạy dọc theo cạnh dài ở phía trên mặt sau của thẻ, chứa các thông tin: số thẻ, ngày hiệu lực của thẻ, tên chủ thẻ, tên ngân hàng phát hành, mã số bí mật cá nhân ( PIN - Personal Identification Number ). Riêng thẻ thông minh có một con chíp vi mạch lưu trữ thông tin về người cầm thẻ. Chúng cũng lưu giữ chi tiêt tối đa là 200 giao dịch dùng thẻ được thực hiện gần nhất.
Băng chữ ký: Khi lập hóa đơn, cơ sở chấp nhận thẻ sẽ đối chiếu chữ ký trên hoá đơn với chữ ký mẫu để so sánh. Băng chữ ký này được làm từ một nguyên liệu đặc biệt có khả năng ngăn cản mọi sự cố gắng tẩy xoá sửa đổi bề mặt thẻ và được ép chặt trên nền thẻ, không thể dùng tay cậy lên được.
Số của thẻ có thể được in lại hoặc hình chủ thẻ
3.2 Cấu tạo của thẻ thanh toán
Dù là bất cứ loại gì, thẻ thanh toán bao giờ cũng có đặc điểm chung nhất: Được làm bằng Plastic, có tiêu chuẩn quốc tế là 5.5cm x 8.5 cm. Trên thẻ có in đầy đủ các yếu tố như: nhãn hiệu thương mại của thẻ, số hiệu của thẻ, số thẻ, tên chủ thẻ và ngày hiệu lực.
4. Các chủ thể tham gia trên thị trường thẻ thanh toán
4.1 Chủ thẻ ( Card Holder )
Chủ thẻ là cá nhân hoặc là người được uỷ quyền nếu là thẻ công ty được ngân hàng phát hành cấp thẻ để sử dụng.
Chỉ có chủ thẻ mới có quyền sử dụng thẻ đứng tên mình để thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ hay rút tiền mặt trong giới hạn ngân hang quy định. Chủ thẻ có thể gồm chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ:
Chủ thẻ chính: là người đứng tên xin cấp thẻ và được ngân hàng phát hành cấp thẻ để sử dụng
Chủ thẻ phụ: là người được cấp thẻ theo đề nghị của chủ thẻ chính.
Quyền hạn:
Sử dụng thẻ để thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ hay rút tiền mặt tại máy ATM tại ngân hàng thanh toán hay tại cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ.
Khiếu nại ngân hàng phát hành khi có sai sót hay nghi ngờ có sai sót trong bảng kê giao dịch hay ĐVCNT yêu cầu phải trả thêm phụ phí khi nhận thanh toán bằng thẻ
Các quyền khác theo hợp đồng sử dụng thẻ
Nghĩa vụ
Cung cấp đầy đủ và chính xác các thông tin cần thiết theo yêu cầu của ngân hàng phát hành thẻ khi xin sử dụng thẻ và trong quá trình sử dụng thẻ.
Thanh toán đầy đủ và đúng hạn cho ngân hàng phát hành các khoản vay, lãi và phí phát sinh do việc sử dụng thẻ theo quy định của ngân hàng.
Các nghĩa vụ khác theo hợp đồng sử dụng thẻ.
4.2 Ngân hàng phát hành thẻ - NHPHT ( Issuing bank )
NHPHT là ngân hàng được ngân hàng nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ phát hành thẻ. Đối với thẻ nội địa, NHPHT phải có năng lực tài chính, không vi phạm pháp luật, đảm bảo hệ thống trang thiết bị phù hợp tiêu chuẩn an toàn cho hoạt động phát hành và thanh toán thẻ, có đội ngũ cán bộ đủ năng lực chuyên môn để vận hành và quản lý. Đối với thẻ quốc tế, NHPHT phải được NHNN cấp giấy phép hoạt động ngoại hối và cho phép thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế, phải là thành viên của tổ chức thẻ quốc tế.
Quyền hạn:
Xem xét việc phát hành thẻ cho chủ thẻ và hướng dẫn chủ thẻ cách sử dụng cũng như các quy định cần thiết khi sử dụng thẻ.Thu các khoản lãi và phí trong các hoạt động phát hành và thanh toán thẻ
Yêu cầu NHTTT và ĐVCNT cung cấp thông tin và thực hiện các biện pháp cần
thiết nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động thanh toán thẻ và không phải chịu trách nhiệm về các thiệt hại do việc không tuân thủ các yêu cầu này gây ra.
Nghĩa vụ :
Tuân thủ các quy định về phát hành thẻ của tổ chức thẻ quốc tế và NHNN.
Đăng ký mẫu thẻ và nhãn hiệu thương mại in trên thẻ tại NHNN
Thanh toán đầy đủ kịp thời cho NHTTT và ĐVCNT đối với các giao dịch thẻ đúng hợp đồng.
Trách nhiệm khác theo hợp đồng sử dụng thẻ và hợp đồng thanh toán thẻ.
4.3 Ngân hàng thanh toán thẻ - NHTTT ( Acquiring Bank ):
NHTTT là những ngân hàng chỉ làm chức năng trung gian thanh toán giữa chủ thẻ và NHPHT. NHTTT nhận thanh toán thẻ qua mạng lưới các cơ sở chấp nhận thẻ mà nó ký hợp đồng thanh toán thẻ. Khi tham gia thanh toán thẻ, NHTTT thu được các khoản phí chiết khấu đại lý, đồng thời cung cấp các dịch vụ đại lý khác cho các ĐVCNT như: dịch vụ thấu chi; xử lý tổng kết; giải quyết khiếu nại, thắc mác cho các ĐVCNT.
Quyền hạn :
Yêu cầu NHPHT thanh toán đầy đủ và kịp thời đối với các giao dịch thẻ được thực hiện theo đúng hợp đồng sử dụng thẻ
Yêu cầu ĐVCNT hoàn trả tiền đối với các giao dịch thực hiện không đúng hợp đồng thanh toán thẻ, thu giữ thẻ không hợp lệ.
Yêu cầu ĐVCNT cung cấp các thông tin cần thiết liên quan đến các giao dịch thẻ của chủ thẻ tại ĐVCNT
Các quyền khác theo hợp đồng thanh toán thẻ.
Nghĩa vụ :
Hướng dẫn các biện pháp, quy trình kĩ thuật nghiệp vụ và bảo mật trong thanh toán thẻ đối với ĐVCNT theo quy định của NHPHT và phải chịu trách nhiệm về các thiệt hại gây ra do không thực hiện đúng các quy định đó.
Cung cấp kịp thời và đầy đủ bảng tin cảnh giác – Warning Bulletin do tổ chức thẻ quốc tế cung cấp.
Trách nhiệm khác theo hợp đồng thanh toán thẻ
4.4 Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT)
ĐVCNT là đơn vị bán hàng hoá - dịch vụ có ký kết hợp đồng chấp nhận thanh toán thẻ với NHTTT hoặc với NHPHT. ĐVCNT có thể là nhà hàng, khách sạn, sân bay, cửa hàng, siêu thị hay các đơn vị nhận ứng tiền mặt, các ngân hàng đại lý.
Quyền hạn:
Yêu cầu NHPHT, NHTTT thanh toán một cách đầy đủ, kịp thời các giao dịch thẻ được thực hiện theo đúng hợp đồng.
Kiểm tra tính hiệu lực của thẻ hoặc tiêu chuẩn thẻ theo qui định của NHPHT hoặc NHTTT và từ chối chấp nhận thẻ hoặc tiêu chuẩn theo quy định của NHPHT hoặc NHTTT và từ chối chấp nhận thẻ không còn hiệu lực, hay không đủ các tiêu chuẩn qui định
Các quyền khác theo hợp đồng thanh toán thẻ
Nghĩa vụ:
Giữ bí mật các thông tin liên quan đến thẻ và chủ thẻ trừ trường hợp chủ thẻ đồng ý hay NHPHT và NHTTT yêu cầu.
Thực hiện đầy đủ các quy trình kỹ thuật nghiệp vụ liên quan đến các giao dịch thẻ của chủ thẻ mà NHTTT hoặc ngân hàng phát hành thẻ yêu cầu và hướng dẫn.
Các nghĩa vụ khác theo hợp đồng
4.5 Tổ chức thẻ quốc tế
Là tổ chức quốc tế cấp phép thành viên cho các NHPHT và NHTTT có nhiệm vụ cung cấp một mạng lưới viễn thông toàn cầu phục vụ cho quy trình thanh toán, cấp phép của các ngân hàng thành viên.Đưa ra các luật lệ quy định về thẻ thanh toán và là trung gian giải quyết các tranh chấp khiếu nại giữa các thành viên.Bên cạnh đó xây dựng các chương trình khuếch trương mở rộng thương hiệu của mình
5. Vai trò và tính tiện ích của thẻ thanh toán
Nâng cao vai trò của hệ thống ngân hàng, giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông
Tăng khối lượng chủ chuyển, thanh toán trong nền kinh tế
Thực hiện chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước
Tạo môi trường thương mại văn minh, mở rộng hội nhập
5.2 Đối với người sử dụng thẻ
Nhanh chóng và thuận tiện
Tiết kiệm, hiệu quả
An toàn và được bảo vệ
Văn minh
5.3 Đối với Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT)
Tăng doanh số bán hàng và thu hút thêm khách hàng
Đảm bảo chi trả, tăng vòng quay của vốn, giảm chi phí
Hưởng ưu đãi từ phía ngân hàng
Tăng uy tín
5.4 Đối với ngân hàng
Tăng doanh thu và lợi nhuận ngân hàng
Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, tăng cường các mối quan hệ trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng
Tăng uy tín và danh tiếng của ngân hàng
6. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của thẻ thanh toán
6.1 Nhóm nhân tố chủ quan
6.1.1 Vốn
Điều dễ nhân thấy là việc phát hành và thanh toán thẻ đòi hỏi một chi phí đầu tư cao cho viêc lắp đặt những thiết bị và công nghệ hiện đại như các terminal đầu cuối, máy rút tiền tự động ATM hay máy thanh toán thẻ tại các điểm bán hàng(POS). Vì vậy, vốn đầu tư là điều kiện đầu tiện và quan trọng nhất đối với các ngân hàng trong bước đầu triển khai dịch vụ thẻ trên thị trường.
6.1.2 Trình độ kĩ thuật công nghệ của ngân hàng
Một yếu tố không kém phần quan trọng là trình độ kĩ thuật công nghệ của ngân hàng. Nếu hệ thống máy móc thiết bị có trục trặc và không được khắc phục kịp thời thì sẽ gây ách tắc trong toàn bộ hệ thống. Vì vậy, cung cấp dịch vụ thẻ đồng thời ngân hàng phải đảm bảo một hệ thống kĩ thuật công nghệ hiện đại theo kịp với yêu cầu hiện nay.
6.1.3 Nhân lực
Là một phương tiện thanh toán hiện đại, thẻ thanh toán mang tính chuẩn hoá cao độ và có quy trình vận hành thống nhất nên nó đòi hỏi phải có một đội ngũ nhân lực có khả năng, trình độ và kinh nghiệm tiếp cận, đảm bảo cho quy trình phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ diễn ra một cách thông suốt, an toàn và hiệu quả, phát huy được những tiện ích vốn có của thẻ thanh toán.
6.2 Nhóm nhân tố khách quan
6.2.1 Các điều kiện về mặt xã hội
Thói quen sử dụng tiền mặt của công chúng: thẻ thanh toán rất khó có thể phát triển trong một xã hội mà chi tiêu bằng tiền mặt đã trở thành một thói quen cố hữu, khó thay đổi trong công chúng. Trên thế giới, tại các nước công nghiệp phát triển, người ta mất hơn nửa thế kỉ để công chúng có thể làm quen với thẻ thanh toán và các tiện ích do thẻ mang lại. Đối với Việt nam, đây thực sự là một thách thức lớn mà các ngân hàng phải đối mặt khi triển khai dịch vụ thẻ thanh toán tại thị trường trong nước.
Thói quen giao dịch qua ngân hàng: Đây là một nhân tố đặc biệt quan trọng tác động đến sự phát triển của thẻ thanh toán tại mỗi quốc gia. Thẻ thanh toán là một sản phẩm dịch vụ do ngân hàng cung cấp. Sự thành công của nó phụ thuộc vào niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng, từ đó tăng cường các hoạt động giao dịch, mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng.
Trình độ dân trí: là một phương tiện thanh toán hiện đại, sự phát triển của thẻ thanh toán phụ thuộc rất nhiều vào mức độ am hiểu của công chúng với nó. Trình độ dân trí ở đây được xem như là các kiến thức về dịch vụ ngân hàng, khả năng tiếp cận và sử dụng thẻ thanh toán, cũng như việc nhận được những tiện ích mà nó mang lại.
Sự ổn định chính trị-xã hội: đây là điều kiện quan trong và cần thiết của tất cả các ngành kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng, trong đó có hoạt động kinh doanh thẻ thanh toán.
6.2.2 Các điều kiện về kinh tế
Tiền tệ ổn định: đây là điều kiện cơ bản cho việc mở rộng sử dụng thẻ thanh toán đối với bất kỳ một quốc gia nào. Ngược lại việc mở rộng sử dụng thẻ thanh toán tạo điều kiện cho sự ổn định tiền tệ, giữa chúng có mối quan hệ nhân quả với nhau.
Sự phát triển ổn định của nền kinh tế: Sự phát triển của ngành công nghiệp tiền nhựa cũng như các ngành kinh tế khác phụ thuộc chủ yếu vào sự phát triển của nền kinh tế. Sở dĩ như thế là vì phát triển kinh tế luôn gắn liền với thu nhập dân cư mà việc sử dụng thẻ lại phụ thuộc vào thu nhập. Khi thu nhập cao, nhu cầu mua sắm. du lịch, giải trí của co