1.1 Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Tình hình kinh tế, xã hội nước ta từ khi đổi mới đến nay đã đạt được những thành tựu vô cùng quan trọng, tăng trưởng kinh tế khả quan, cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khả năng hội nhập và cạnh tranh của nền kinh tế tăng lên cùng với những cải thiện đáng kể trong các lĩnh vực xã hội. Cùng với sự phát triển của xã hội, sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ, lưu thông hàng hóa ngày càng được mở rộng cả về quy mô, phạm vi lẫn tính thường xuyên, liên tục. Do đó, hoạt động thanh toán bằng tiền mặt cũng dần dần không đáp ứng được nhu cầu của việc thanh toán nữa. Và cũng do đó, vai trò của hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt hiện nay đang ngày càng chiếm ưu thế với những lợi ích vượt trội, và đang có những đóng góp to lớn đới với sự phát triển của nền kinh tế.
Người cung cấp dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt chủ yếu là các ngân hàng thương mại, do đó, các ngân hàng thương mại đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế và ngày nay, ngành ngân hàng được coi là xương sống, là huyết mạch của nền kinh tế, có tầm quan trọng đặc biệt góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Vì vậy, đi đôi với việc đổi mới cơ chế tổ chức, về nghiệp vụ ngành ngân hàng cũng đã tập trung cải tiến, trong đó có chế độ thanh toán không dùng tiền mặt. Nhận thức được tầm quan trọng của việc thanh toán không dùng tiền mặt, trong những năm gần đây, ngành ngân hàng nói chung và hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam nói riêng đã có những bước phát triển vượt bậc trong công nghệ thanh toán nhằm thu hút ngày càng nhiều khách hàng và nhanh chóng hội nhập vào khu vực và thế giới. Do đó, công tác thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng thực sự đã đi vào đời sống xã hội, đem lại những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triền của nền kinh tế thời kỳ đổi mới thì dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam còn bất cập về nhiều mặt, đặc biệt là hiện đại hóa công nghệ thanh toán và phổ cập thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực dân cư. Điều này đặt ra cho ngành ngân hàng Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam nói riêng cũng như các nhà khoa học kinh tế phải tìm ra các giải pháp hữu hiệu để hoàn chỉnh dịch vụ này và tạo tiền đề để ngành ngân hàng mau chóng hội nhập chung vào mạng lưới thanh toán quốc tế.
Xuất phát từ thực tiễn và tầm quan trọng của công tác thanh toán không dùng tiền mặt đối với nền kinh tế, em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk”, nhằm tìm hiểu thực trạng của công tác thanh toán không dung tiền mặt ở đây, và mong muốn có thể đóng góp những ý kiến của mình cho hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của chi nhánh.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu về lý luận thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng.
- Đánh giá thực trạng công tác thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk.
- Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk.
- Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1 Không gian nghiên cứu
Công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk.
1.3.2.2 Thời gian nghiên cứu
Dựa vào số liệu của 3 năm 2007, 2008, 2009.
78 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3250 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam chi nhánh Đắk Lắk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Tình hình kinh tế, xã hội nước ta từ khi đổi mới đến nay đã đạt được những thành tựu vô cùng quan trọng, tăng trưởng kinh tế khả quan, cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khả năng hội nhập và cạnh tranh của nền kinh tế tăng lên cùng với những cải thiện đáng kể trong các lĩnh vực xã hội. Cùng với sự phát triển của xã hội, sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ, lưu thông hàng hóa ngày càng được mở rộng cả về quy mô, phạm vi lẫn tính thường xuyên, liên tục. Do đó, hoạt động thanh toán bằng tiền mặt cũng dần dần không đáp ứng được nhu cầu của việc thanh toán nữa. Và cũng do đó, vai trò của hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt hiện nay đang ngày càng chiếm ưu thế với những lợi ích vượt trội, và đang có những đóng góp to lớn đới với sự phát triển của nền kinh tế.
Người cung cấp dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt chủ yếu là các ngân hàng thương mại, do đó, các ngân hàng thương mại đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế và ngày nay, ngành ngân hàng được coi là xương sống, là huyết mạch của nền kinh tế, có tầm quan trọng đặc biệt góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Vì vậy, đi đôi với việc đổi mới cơ chế tổ chức, về nghiệp vụ ngành ngân hàng cũng đã tập trung cải tiến, trong đó có chế độ thanh toán không dùng tiền mặt. Nhận thức được tầm quan trọng của việc thanh toán không dùng tiền mặt, trong những năm gần đây, ngành ngân hàng nói chung và hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam nói riêng đã có những bước phát triển vượt bậc trong công nghệ thanh toán nhằm thu hút ngày càng nhiều khách hàng và nhanh chóng hội nhập vào khu vực và thế giới. Do đó, công tác thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng thực sự đã đi vào đời sống xã hội, đem lại những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triền của nền kinh tế thời kỳ đổi mới thì dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam còn bất cập về nhiều mặt, đặc biệt là hiện đại hóa công nghệ thanh toán và phổ cập thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực dân cư. Điều này đặt ra cho ngành ngân hàng Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam nói riêng cũng như các nhà khoa học kinh tế phải tìm ra các giải pháp hữu hiệu để hoàn chỉnh dịch vụ này và tạo tiền đề để ngành ngân hàng mau chóng hội nhập chung vào mạng lưới thanh toán quốc tế.
Xuất phát từ thực tiễn và tầm quan trọng của công tác thanh toán không dùng tiền mặt đối với nền kinh tế, em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk”, nhằm tìm hiểu thực trạng của công tác thanh toán không dung tiền mặt ở đây, và mong muốn có thể đóng góp những ý kiến của mình cho hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của chi nhánh.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu về lý luận thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng.
- Đánh giá thực trạng công tác thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk.
- Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk.
- Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1 Không gian nghiên cứu
Công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk.
1.3.2.2 Thời gian nghiên cứu
Dựa vào số liệu của 3 năm 2007, 2008, 2009.
Phần thứ hai: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Khái quát về Ngân hàng thương mại
*Khái niệm
Theo Điều 1 của pháp lệnh số 38/LCT – HDDNH pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính, định nghĩa về ngân hàng thương mại như sau: “Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ, hoạt động chủ yếu thường xuyên của ngân hàng là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội khóa X thông qua vào ngày 12 tháng 12 năm 1997, định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thưc hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan”.
*Chức năng
- Ngân hàng là trung gian tín dụng: Ngân hàng đóng vai trò là “cầu nối” giữa người dư thừa vốn và người cần vốn. Với nhiệm vụ của một ngân hàng thương mại là đi vay để cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh, phục vụ đời sống xã hội, Ngân hàng thương mại là nơi giao dịch giữa các đơn vị phát hành chứng khoán và đầu tư chứng khoán.
- Trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán: ngân hàng thương mại cung cấp cho khách hàng các phương tiện thanh toán trong và ngoài nước, tiết kiệm lượng tiền trong lưu thông, tiết kiêm chi phí trong giao dịch, thanh toán nhanh chóng, tiện lợi. Dịch vụ ngân quỹ cho khách hàng là nơi quản lý các tài khoản của khách hàng và khi có các hoạt động kinh tế phát sinh thì các chủ tài khoản yêu cầu ngân hàng chuyển khoản. Việc các ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế.
- Chức năng tạo tiền: Với chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán, ngân hàng thương mại có khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền được sử dụng trong các giao dịch. Từ khoản dự trữ tăng lên ban đầu, thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản, hệ thống ngân hàng có khả năng tạo nên số tiền gửi lớn gấp nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu.
- Chức năng làm nhiệm vụ tài chính và dịch vụ khác.
* Vai trò của ngân hàng thương mại
- Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp cá nhân, tổ chức kinh tế cần có vốn. Vốn được coi như nguồn “thức ăn” chính thức cho họat động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Ngân hàng thương mại chính là chủ thể đứng ra huy động các nguồn vốn đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Nhờ có hoạt động tín dụng của ngân hàng đã tạo điều kiện cho cho doanh nghiệp khả năng mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc, thiết bị, đổi mới quy trình công nghệ, nâng cao năng suất lao động đem lại hiệu quả kinh tế, cũng có nghĩa là đưa doanh nghiệp lên những nấc thang cạnh tranh cao hơn. Cạnh tranh càng mạnh mẽ, kinh tế phát triển. Như vậy khả năng cung cấp vốn, ngân hàng thương mại đã trở thành một trong những điểm khởi đầu cho sự phát triển kinh tế của quốc gia.
- Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường.
Thị trường ở đây được hiểu ở hai góc độ, thị trường đầu vào và thị trường đầu ra của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tiếp cận mạnh mẽ vào thị trường đầu ra, tìm kiếm lợi nhuận. Quy trình đó được bắt đầu khi doanh nghiệp trang bị được đầy đủ vốn cần thiết. Nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ khả năng về tài chính. Do vậy, buộc họ phải tìm kiếm nguồn vốn để phục vụ cho quá trình họat động kinh doanh. Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng thương mại sẽ giúp các doanh nghiệp giải quyết những khó khăn đó, tạo cho doanh nghiệp có đủ khả năng thõa mãn tối đa nhu cầu của thị trường trên mọi phương diện: giá cả, chủng lọai, chất lượng, khối lượng, thời gian, địa điểm…ngân hàng thương mại sẽ là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường giúp doanh nghiệp tìm kiếm được đầu vào, bôi trơn họat động sản xuất kinh doanh làm cho nó phát huy hiệu quả một cách tốt nhất trên thị trường, giúp doanh nghiệp và thị trường gần nhau hơn cả về không gian và thời gian.
- Ngân hàng thương mại là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Hệ thống ngân hàng thương mại họat động có hiệu quả sẽ thực sự là công cụ hữu hiệu để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Họat động ngân hàng góp phần chống lạm phát. Khi xảy ra lạm phát, ngân hàng Trung ương sẽ tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu hoặc tham gia vào thị trường mở để thông qua các ngân hàng thương mại thay đổi lại lượng tiên trong lưu thông. Các ngân hàng thương mại sẽ kiểm soát lạm phát thông qua các họat động tín dụng, bão lãnh. Từ đó ngân hàng xác định được hướng đầu tư vốn và đề ra các biện pháp xử lý những tác động xấu ảnh hương đến nền kinh tế, góp phần điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế lạm phát.
- Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế
Trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa như hiện nay thì vai trò này ngày càng thể hiện rõ rệt hơn, áp lực cạnh tranh buộc nền kinh tế mỗi quốc gia khi mở cửa hội nhập phải có tiềm lực lớn mạnh về mọi mặt, đặc biệt là tiềm lực về tài chính. Nhưng làm thế nào để có thể hòa nhập nền tài chính của một quốc gia với phần còn lại của thế giới? Câu hỏi đó sẽ được giải đáp nhờ vào hệ thống các ngân hàng thương mại vì hệ thống này có khả năng cung cấp nhiều lọai hình dịch vụ khác nhau hỗ trợ cho việc đầu tư nước ngoài vào trong nước theo các hình thức: thanh toán quốc tế, nghiệp vụ hối đoái, cho vay ủy thác đầu tư…giúp cho các luồng vốn ra, vào một cách hợp lý, đưa nền tài chính nước nhà bắt kịp với nền tài chính quốc tế.
2.1.2 Lý luận cơ bản về thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường
2.1.2.1 Khái niệm thanh toán không dùng tiền mặt và các khái niệm khác liên quan
- Tiền mặt: Tiền mặt theo nghĩa hẹp, đó là tiền do ngân hàng Trung ương phát hành ra và nằm trong tay công chúng hay ngoài hệ thống ngân hàng. Còn theo nghĩa rộng nhất, tiền mặt có thể được hiểu là những thứ có thể sử dụng trực tiếp để thanh toán các giao dịch và bao gồm cả tiền gửi ngân hàng. Như vậy, trong trường hợp này khái niệm tiền mặt được dùng để chỉ dạng có khả năng thanh toán cao nhất của tài sản, bao gồm các đồng tiền do ngân hàng Trung ương phát hành ra và được công chúng giữ để chi tiêu, tiền gửi ở tài khoản vãng lai hay tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, có thể rút ra bất cứ lúc nào bằng cách viết séc. Đối với các ngân hàng thương mại khái niệm tiền mặt bao gồm các đồng tiền cất trong két sắt và số dư của họ tại ngân hàng Trung ương. Do được dùng với nhiều nghĩa khác nhau như vậy, nên khi gặp khái niệm này, chúng ta phải lưu ý xem nó được dùng theo nghĩa nào trong một khung cảnh nhất định (Theo từ điển kinh tế học).
Tiền mặt trong trường hợp chúng ta đang tìm hiểu, là hình thức tiền tệ, theo đó, trong thời gian giao dịch, chức năng lưu thông và cất trữ giá trị được thực hiện mà không cần sự tham gia của các định chế tài chính trung gian đặc thù.
- Thanh toán: Thanh toán, trong các mối quan hệ kinh tế, được hiểu một cách khái quát nhất là việc thực hiện chi trả bằng tiền giữa các bên trong những quan hệ kinh tế nhất định. Tiền ở đây được hiểu là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán để nhận hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc trong việc trả nợ [9].
- Thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) là cách thanh toán không có sự xuất hiện của tiền mặt mà được tiến hành bằng cách trích từ tài khoản của người chi trả để chuyển vào tài khoản của người thụ hưởng mở tại ngân hàng, hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của ngân hàng [9].
TTKDTM còn được định nghĩa là phương thức thanh toán không trực tiếp dùng tiền mặt mà dựa vào các chứng từ hợp pháp như giấy uỷ nhiệm thu, giấy ủy nhiệm chi, séc… để trích chuyển vốn tiền tệ từ tài khoản của đơn vị này sang tài khoản của đơn vị khác ở ngân hàng. TTKDTM gắn với sự ra đời của đồng tiền ghi sổ.
2.1.2.2 Đặc điểm của thanh toán không dùng tiền mặt
Trong TTKDTM, sự vận động của tiền tệ độc lập với sự vận động của hàng hóa cả về thời gian lẫn không gian và thường không có sự ăn khớp nhau. Đây là đặc điểm quan trọng và nổi bật nhất của hình thức TTKDTM.
Trong TTKDTM, vật trung gian trao đổi không xuất hiện như trong hình thức thanh toán dùng tiền mặt theo kiểu hàng – tiền - hàng mà chỉ xuất hiện dưới dạng tiền kế toán hay tiền ghi sổ và được ghi chép trên các chứng từ sổ sách kế toán. Đây là đặc điểm riêng của TTKDTM.
Trong TTKDTM, ngân hàng vừa là người tổ chức vừa là người thực hiện các khoản thanh toán. Chỉ có ngân hàng, người quản lý tài khoản tiền gửi của các khách hàng mới được quyền trích chuyển những tài khoản này theo các nguyên tắc chuyên môn đặc thù như là một nghiệp vụ riêng của mình. Với nghiệp vụ này, ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán đối với các khách hàng của mình.
Với những đặc điểm nêu trên, TTKDTM nếu được tổ chức và thực hiện tốt sẽ phát huy được tác dụng tích cực của nó. Trong tương lai, theo đà phát triển của xã hội và theo nhu cầu của thị trường, TTKDTM sẽ giữ một vị trí cực kỳ quan trọng trong việc lưu chuyển tiền tệ và trong thanh toán giá trị của nền kinh tế.
2.1.2.3 Sự cần thiết khách quan của thanh toán không dùng tiền mặt
Thanh toán là khâu mở đầu và cũng là khâu kết thúc của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá. Chính vì vậy mà các phương tiện thanh toán luôn luôn được đổi mới hiện đại để phù hợp với nhịp độ tăng trưởng không ngừng của sản xuất - lưu thông hàng hoá.
Cùng với sự phát triển của xã hội, sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển mạnh mẽ, lưu thông hàng hoá ngày càng được mở rộng về cả qui mô, phạm vi lẫn tính thường xuyên, liên tục thì thanh toán bằng tiền mặt cũng dần dần không đáp ứng được nhu cầu của thanh toán nữa,vì thanh toán bằng tiền mặt có dộ an toàn không cao, với khối lượng hàng hóa, dịch vụ giao dịch lớn thì việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt sẽ không an toàn cho cả người trả tiền và người nhận tiền. Tiếp đó, khi quan hệ thanh toán mở rộng ra phạm vi quốc tế thì chi phí về thủ tục chuyển đổi tiền để thanh toán, chi trả sẽ rất lớn vì khoảng cách giữa người mua và người bán nhiều khi ở rất xa nhau trong khi thời gian để người mua mang tiền đến trả bị khống chế. Điều này dẫn đến sự kìm hãm sản xuất- lưu thông hàng hóa. Hơn nữa, thanh toán không dùng tiền mặt hạn chế khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại, gây ra nạn làm tiền giả. Thanh toán bằng tiền mặt sẽ làm cho khối lượng tiền mặt trong lưu thông tăng lên rất lớn, từ đó rất khó khăn cho quá trình điều hoà lưu thông tiền mặt. Khối lượng tiền mặt tăng lên sẽ gây sức ép về mặt giá cả, đó là một trong những nguyên nhân gây nên lạm phát cao. Mặt khác thanh toán bằng tiền mặt phải chi phí rất lớn cho việc in ấn, vận chuyển, đóng gói, bảo quản, kiểm đếm, cất trữ. Bên cạnh đó chức năng phương tiện thanh toán của tiền tệ lại cho phép tiền tệ vận động tách rời với sự vận động của hàng hoá. Chính do chức năng này, cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế một phương thức thanh toán tiến bộ hơn đã ra đời đó là phương thức TTKDTM với hình thức tiền ghi sổ. Trong đó, ngân hàng đứng ra làm trung gian thanh toán giữa các khách hàng.
Nền sản xuất hàng hoá càng phát triển thì nhu cầu của con người ngày càng cao và khối lượng hàng hoá, dịch vụ ngày càng đa dạng cả về khối lượng và chất lượng, các quan hệ thương mại được mở rộng ra trên phạm vi quốc tế . Từ thực tế khách quan này, và trong thời kỳ nền kinh tế chuyển sang một một giai đoạn phát triển mạnh mẽ tiền mặt không thể đáp ứng nhu cầu thanh toán của toàn bộ nền kinh tế đòi hỏi phải có những hình thức thanh toán mới ra đời tiên tiến hơn, hiện đại hơn phù hợp đáp ứng nhu cầu sản xuất lưu thông hàng hoá. Hình thức TTKDTM ra đời đã khắc phục những hạn chế của thanh toán dùng tiền mặt, đồng thời thúc đẩy sự phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá trong nền kinh tế.
2.1.2.4 Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, TTKDTM có một vai trò hết sức quan trọng đối với từng cá nhân, từng đơn vị kinh tế và đối với toàn bộ nền kinh tế. Nó đáp ứng được đòi hỏi của sản xuất và lưu thông hàng hóa trong nền kinh tế thị trường, làm cho ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán của nền kinh tế. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt được thể hiện:
Đối với ngân hàng.
TTKDTM góp phần tăng nhanh nguồn vốn của ngân hàng, mở rộng nghiệp vụ kinh doanh. Khi khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng, số dư trên các tài khoản tiền gửi thanh toán sẽ tăng lên, tăng nguồn vốn tín dụng của ngân hàng, sẽ mang lại cho ngân hàng một nguồn vốn lớn để cho vay, đầu tư, phát triển kinh tế. Từ đó, nó giúp cho ngân hàng tập trung được nguồn vốn trong xã hội phục vụ cho quá trình phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. TTKDTM qua ngân hàng tạo điều kiện cho ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong thanh toán cho đầu tư, cho vay sản xuất sau khi đã tính toán dự trữ một lượng vốn nhất định đảm bảo được tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khoản dự trữ đảm bảo khả năng thanh toán của mình. Khi TTKDTM qua ngân hàng được nhanh chóng, thuận tiện sẽ tạo điều kiện thu hút các đơn vị, cá nhân đến mở tài khoản thanh toán hoặc gửi tiền.
TTKDTM góp phần giải quyết được tình trạng thiếu tiền mặt trong ngân quỹ làm cho hoạt động của ngân hàng được thực hiện trong suốt, hoàn thiện chức năng trung gian thanh toán của ngân hàng thương mại.
TTKDTM tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại thực hiện chức năng “tạo tiền”. TTKDTM sử dụng tiền ghi sổ, thực hiện thanh toán bằng cách trích chuyển từ tài khoản người phải trả sang tài khoản người thụ hưởng hoặc bù trừ giữa các ngân hàng thương mại với nhau. Do đó, TTKDTM luôn tạo ra một lượng tiền nhàn rỗi mà ngân hàng có thể sử dụng cho vay. Đây chính là cơ sở để ngân hàng thực hiện chức năng tạo tiền của mình.
TTKDTM giúp ngân ngân hàng nắm được tình hình biến động số dư tài khoản của khách hàng, tình hình thu nhập, tình hình hoạt động kinh doanh, khả năng tài chính để cung ứng các dịch vụ, cho vay, tư vấn. Đồng thời, thông qua các thông tin từ tài khoản thanh toán của khách hàng, ngân hàng sẽ có được những quyết định cho vay đúng đắn, đảm bảo thu gốc và lãi đúng hạn, giảm tỷ trọng nợ quá hạn, nợ khó đòi, nợ xấu; tăng dư nợ tín dụng, mở rộng và phát triển nghiệp vụ tín dụng. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng có thể mở rộng doanh số cho vay thông qua các nghiệp vụ như thấu chi, cấp hạn mức tín dụng cho các chủ tài khoản. Việc này vừa mang lại thu nhập cho ngân hàng từ những khoản lãi tín dụng, vừa tăng sự hấp dẫn của các dịch vụ ngân hàng đối với khách hàng.
TTKDTM nâng cao năng lực cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại và thúc đẩy các dịch vụ khác phát triển. Hiện nay, ngoài sự có mặt của các ngân hàng thương mại quốc doanh còn có sự góp mặt của rất nhiều của các tổ chức ngân hàng nước ngoài, các tổ chức phi ngân hàng như bảo hiểm, bưu diện cũng cung cấp một số dịch vụ ngân hàng cho khách hàng. Khách hàng ngày càng có nhiều cơ hội lựa chọn dịch vụ ngân hàng sao cho thoả mãn nhu cầu tốt nhất, chi phí thấp nhất, độ an toàn cao nhất, nhanh chóng và thuận tiện…Do vậy, để thu hút khách hàng đến sử dụng dịch vụ của mình (nhất là TTKDTM) các ngân hàng phải không ngừng cải tiến dịch vụ để thắng trong cạnh tranh, tích cực áp dụng công nghệ hiện đại, đổi mới phong cách giao dịch.
b) Đối với chủ thể thanh toán.
Thanh toán qua ngân hàng mang lại lợi ích to lớn cho khách hàng, nhờ việc tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn, tiết kiệm được các chi phí phát sinh (chi phí vận chuyển, chi phí kiểm đếm) từ đó, giảm chi phí đầu vào, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Sử dụng các hình thức TTKDTM bảo đảm tiện lợi, nhanh chóng, chính xác, an toàn, và bảo mật cho khách hàng. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mức độ ứng dụng công nghệ thông tin của các ngân hàng thương mại trong hoạt động thanh toán ngày càng cao. Cụ thể: Chỉ bằng một lệnh của chủ tài khoả