Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định trong hoạt động cho vay tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Thành Công

Các nghiệp vụ ngân hàng chịu ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc bởi những đặc trưng của nền kinh tế nói chung và mục đích hoạt động của ngân hàng nói riêng trong từng thời kỳ nhất định. Công tác thẩm định trong hoạt động cho vay cũng không đứng ngoài nguyên tắc này. Năm 2007, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng với nhiều cơ hội từ việc gia nhập WTO mang lại. Một số ngành đã xấp xỉ đạt chỉ tiêu kế hoạch phát triển đến năm 2010 như thủy sản, dệt may, Năm qua, GDP tăng trưởng 8,2% cùng với sự tăng trưởng nhanh của lĩnh vực xuất nhập khẩu, công nghiệp, xây dựng, điện lực, hàng không, đầu tư trực tiếp nước ngoài, Việc gia nhập và thực hiện các cam kết WTO sẽ mang lại những thay đổi theo hướng tạo ra một thị trường mở hơn và có tính cạnh tranh cao hơn, thúc đẩy khu vực ngân hàng tăng trưởng cả về qui mô và tính phức tạp. Kinh doanh ngân hàng là một lĩnh vực rất nhạy cảm, hàm chứa nhiều rủi ro, đặc biệt trong hoạt động cho vay. Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu do khách hàng không trả nợ đúng hạn, không trả được hoặc không trả đầy đủ cả vốn lẫn lãi. Hoạt động cho vay có quy mô lớn nhất trong tất cả các hoạt động tại ngân hàng, mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, nên khi có rủi ro, thì rủi ro đó tác động đến tất cả các hoạt động khác trong ngân hàng như huy động vốn, kinh doanh dịch vụ, kế toán thanh toán, Để hạn chế rủi ro tín dụng, ngân hàng cần tìm kiếm những khách hàng có khả năng vay và trả đúng hạn, tìm kiếm được những phương án sản xuất kinh doanh khả thi, mang lại lợi nhuận để ra quyết định cho vay. Muốn vậy, ngân hàng cần làm tốt công tác thẩm định trước khi cho vay để hạn chế mức thấp nhất rủi ro có thể xảy ra, cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận có thể thu được. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định trong hoạt động cho vay tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Đề tài đã nêu ra một số kiến thức cơ bản về hoạt động cho vay của NHTM và công tác thẩm định trong hoạt động cho vay. Đồng thời, đề tài này cũng nêu lên thực trạng công tác thẩm định trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công trong những năm gần đây, hướng đến một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao chất lượng thẩm định trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh. Chuyên đề được chia làm ba phần chính: Chương I: Lý thuyết về Chất lượng thẩm định trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại. Chương II: Thực trạng công tác thẩm định trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh NHNT Thành Công Chương III: Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao chất lượng thẩm định trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh NHNT Thành Công.

doc67 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1883 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định trong hoạt động cho vay tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Thành Công, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3 1.1. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại: 3 1.1.1. Khái niệm về hoạt động cho vay: 3 1.1.2. Vai trò của hoạt động cho vay: 10 1.1.3. Đặc điểm của hoạt động cho vay: 11 1.2. Thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại: 12 1.2.1. Thế nào là Thẩm định trong hoạt động cho vay? 12 1.2.2. Vai trò của Thẩm định 13 1.2.3. Nội dung Thẩm định 15 1.2.4. Nguồn thông tin cho thẩm định 21 1.3. Chất lượng Thẩm định 23 1.3.1. Chất lượng Thẩm định là gì? 23 1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng Thẩm định 23 1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng Thẩm định 25 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THẨM ĐỊNH TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG THÀNH CÔNG 30 2.1. Khái quát về Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và chi nhánh Thành Công 30 2.1.1. Lịch sử hình thành: 30 2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh năm 2006, 2007 của chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Thành Công 33 2.1.3. Những khó khăn mà chi nhánh đang gặp phải : 41 2.2. Thực trạng chất lượng Thẩm định trong hoạt động cho vay tại chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Thành Công 42 2.2.1. Quy trình Thẩm định trong cho vay 42 2.2.2. Những mặt đạt được: 52 2.2.3. Những mặt còn hạn chế và nguyên nhân 53 CHƯƠNG III: MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG THÀNH CÔNG: 54 3.1. Đinh hướng hoạt động cho vay tại Ngân hàng ngoại thương Thành Công trong thời gian tới: 54 3.2. Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao chất lượng Thẩm định trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Thành Công 55 3.2.1. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ: 55 3.2.2. Các cán bộ thẩm định phải tăng cường chủ động tìm kiếm những khách hàng có chất lượng, những dự án đầu tư khả thi. 57 3.2.3. Đa dạng hóa nguồn thông tin phục vụ công tác thẩm định: 59 3.2.4. Hoàn thiện phương pháp thẩm định và phương pháp chấm điểm tín dụng - xếp hạng khách hàng: 60 3.2.5. Một số ý kiến đề xuất khác: 61 3.3. Một số kiến nghị: 63 3.3.1. Về phía Nhà nước và các Bộ, ngành 63 3.3.2. Đối với NHNN 63 3.3.3. Đối với khách hàng: 64 KẾT LUẬN 65 LỜI MỞ ĐẦU Các nghiệp vụ ngân hàng chịu ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc bởi những đặc trưng của nền kinh tế nói chung và mục đích hoạt động của ngân hàng nói riêng trong từng thời kỳ nhất định. Công tác thẩm định trong hoạt động cho vay cũng không đứng ngoài nguyên tắc này. Năm 2007, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng với nhiều cơ hội từ việc gia nhập WTO mang lại. Một số ngành đã xấp xỉ đạt chỉ tiêu kế hoạch phát triển đến năm 2010 như thủy sản, dệt may, … Năm qua, GDP tăng trưởng 8,2% cùng với sự tăng trưởng nhanh của lĩnh vực xuất nhập khẩu, công nghiệp, xây dựng, điện lực, hàng không, đầu tư trực tiếp nước ngoài,… Việc gia nhập và thực hiện các cam kết WTO sẽ mang lại những thay đổi theo hướng tạo ra một thị trường mở hơn và có tính cạnh tranh cao hơn, thúc đẩy khu vực ngân hàng tăng trưởng cả về qui mô và tính phức tạp. Kinh doanh ngân hàng là một lĩnh vực rất nhạy cảm, hàm chứa nhiều rủi ro, đặc biệt trong hoạt động cho vay. Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu do khách hàng không trả nợ đúng hạn, không trả được hoặc không trả đầy đủ cả vốn lẫn lãi. Hoạt động cho vay có quy mô lớn nhất trong tất cả các hoạt động tại ngân hàng, mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, nên khi có rủi ro, thì rủi ro đó tác động đến tất cả các hoạt động khác trong ngân hàng như huy động vốn, kinh doanh dịch vụ, kế toán thanh toán,…Để hạn chế rủi ro tín dụng, ngân hàng cần tìm kiếm những khách hàng có khả năng vay và trả đúng hạn, tìm kiếm được những phương án sản xuất kinh doanh khả thi, mang lại lợi nhuận để ra quyết định cho vay. Muốn vậy, ngân hàng cần làm tốt công tác thẩm định trước khi cho vay để hạn chế mức thấp nhất rủi ro có thể xảy ra, cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận có thể thu được. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định trong hoạt động cho vay tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Đề tài đã nêu ra một số kiến thức cơ bản về hoạt động cho vay của NHTM và công tác thẩm định trong hoạt động cho vay. Đồng thời, đề tài này cũng nêu lên thực trạng công tác thẩm định trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công trong những năm gần đây, hướng đến một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao chất lượng thẩm định trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh. Chuyên đề được chia làm ba phần chính: Chương I: Lý thuyết về Chất lượng thẩm định trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại. Chương II: Thực trạng công tác thẩm định trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh NHNT Thành Công Chương III: Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao chất lượng thẩm định trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh NHNT Thành Công. Ngoài ra, chuyên đề còn có hệ thống các bảng số liệu, biểu đồ minh họa. Em xin cảm ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô giáo - Th.s Hoàng Lan Hương đã giúp em hoàn thành chuyên đề này, cảm ơn toàn thể cán bộ của Ngân hàng Ngoại thương Thành Công, đặc biệt là các anh chị ở phòng Quan hệ khách hàng đã tạo điều kiện thuận lợi, nhiệt tình giúp đỡ và cung cấp đầy đủ số liệu trong suốt thời gian em thực tập tại ngân hàng. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại: 1.1.1. Khái niệm về hoạt động cho vay: 1.1.1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại: Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại, tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó, ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Ngân hàng là một kênh quan trọng thu hút vốn nhàn rỗi và cung cấp nguồn vốn đáp ứng nhu cầu nền kinh tế. Xét theo phương diện các loại hình dịch vụ mà nó cung cấp, Peter Rose cho rằng: Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1997, Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và hoạt động ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Theo Nghị định 49-CP của Chính phủ ban hành năm 2000, Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước. Các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam hiện nay đều có định hướng hoạt động khá giống nhau là kinh doanh đa năng, đa lĩnh vực, phục vụ đa dạng các khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế. Đây cũng là xu hướng phát triển hoạt động kinh doanh của hầu hết các tổ chức tài chính, NHTM trên thế giới Các chức năng cơ bản của một ngân hàng đa năng ngày nay:  1.1.1.2. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại: Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của NHTM nói riêng và của các trung gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng mang lại nhiều rủi ro nhất. Theo Điều 4, NĐ 49/2000/NĐ-CP, Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Cho vay là một bộ phận của hoạt động tín dụng. Theo QĐ 1627/2001/ QĐ – NHNN thì “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó các tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền sử dụng vào một mục đích và trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi”. Qua hoạt động cho vay, ngân hàng điều hòa vốn trong nền kinh tế dưới hình thức là phân phối lại nguồn vốn nhàn rỗi huy động được từ dân cư, doanh nghiệp, Nhà nước, các tổ chức tín dụng khác, để đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Điều 5 NĐ này quy định: Ngân hàng thương mại được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình thức : - Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống. - Cho vay trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống. Phân loại: ( Căn cứ theo thời gian: - Cho vay ngắn hạn: dưới 12 tháng, mục đích của loại cho vay này thường tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động của khách hàng; - Cho vay trung hạn: từ 1 đến 5 năm, nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định; - Cho vay dài hạn: trên 5 năm, thường là đầu tư vào các dự án. Việc xác định thời hạn trên cũng chỉ mang tính tương đối vì nhiều khoản vay không xác định trước được chính xác thời hạn. Việc phân chia theo thời gian có ý nghĩa rất quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tài sản. ( Căn cứ vào phương thức cho vay của ngân hàng: - Thấu chi: Thấu chi là nghiệp vụ cho vay mà ngân hàng cho phép khách hàng (người vay) được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong một khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô. Hình thức cho vay này tạo điều kiện cho khách hàng trong việc thanh toán: chủ động, nhanh chóng và kịp thời. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho doanh nghiệp lẫn cá nhân trong vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm, dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng,… Do vậy hình thức này chỉ sử dụng cho đối tượng khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn. - Cho vay theo hạn mức: Là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng, là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong kỳ khách hàng có thể vay – trả nhiều lần nhưng số dư không được vượt quá hạn mức tín dụng. - Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng hóa. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho khách hàng vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Cho vay dựa trên lưu chuyển của hàng hóa nên cả ngân hàng và khách hàng đều phải nghiên cứu kỹ kế hoạch lưu chuyển hàng hóa để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới. Rất thuận tiện cho khách hàng vì chỉ cần làm thủ tục 1 lần cho nhiều khoản vay. - Cho vay gián tiếp: Phần lớn các khoản cho vay của ngân hàng đều là cho vay trực tiếp, bên cạnh đó ngân hàng cũng phát triển hình thức cho vay gián tiếp- là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng cho vay qua các tổ, đội, hội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh,… Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của quá trình cho vay sang các tổ chức trung gian, như thu nợ, phát tiền vay,… Tổ chức trung gian cũng có thể đứng ra tín chấp cho các thành viên vay vốn. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có hoặc không đủ tài sản thế chấp. Để bù đắp một phần chi phí trung gian, ngân hàng trích một phần thu nhập để lại cho trung gian. Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay này sẽ hạn chế người vay sử dụng tiền sai mục đích. Hình thức cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có các món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng, qua trung gian có thể tiết kiệm được chi phí cho vay ( phân tích, giám sát, thu nợ,…). Mặc dù hình thức cho vay qua trung gian hạn chế được rủi ro và chi phí cho ngân hàng, nhưng nó cũng bộc lộ một số khuyết điểm như: nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế của mình và nếu ngân hàng không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất để cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho mình, các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất lượng hoặc với giá đắt cho người vay vốn. ( Căn cứ theo hình thức hoàn trả nợ vay: - Cho vay trả góp: Là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thới hạn tín dụng xác định. Cho vay trả góp thường được áp dụng với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho TSCĐ hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ. Ngân hàng thanh toán tiền hàng hóa mà khách hàng đã mua trả góp cho người bán lẻ. Các cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán hàng từ phía ngân hàng, và làm đại lý thu tiền cho ngân hàng, hoặc khách hàng trả tiền trực tiếp cho ngân hàng. Đây là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua ( qua đó đến người bán) nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hóa. Đây là hình thức cho vay mang lại rủi ro cao do khách hàng thường dùng chính hàng hóa mua trả góp để thế chấp, khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Vì rủi ro cao nên cho vay trả góp thường có lãi suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng. - Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với những khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng, ký hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Theo từng kì hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả. Nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi. Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản, ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay cách biệt. ( Căn cứ theo đảm bảo hay dựa vào mức độ tín nhiệm khách hàng: - Cho vay không có tài sản đảm bảo; - Cho vay có đảm bảo bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố. Về nguyên tắc mọi khoản cho vay của ngân hàng đều phải có đảm bảo. Tuy nhiên ngân hàng chỉ ghi vào hợp đồng tín dụng loại đảm bảo mà ngân hàng có thể bán đi để thu nợ nếu khách hàng không trả nợ. Do đó các khoản nợ có đảm bảo thực chất là các khoản tài trợ có nguồn thu nợ thứ hai từ đảm bảo. Các khoản nợ không gắn với hợp đồng đảm bảo được ngân hàng xếp vào tài trợ không đảm bảo. Việc phân chia này không nói lên tính an toàn của khoản tài trợ của ngân hàng mà chỉ giúp ngân hàng theo dõi các hợp đồng về đảm bảo, đưa ra các biện pháp xử lý đảm bảo khi cần thiết. ( Căn cứ vào mục đích: Cho vay đầu tư theo dự án và cho vay tiêu dùng. - Cho vay đầu tư theo dự án: Bên cạnh loại hình truyền thống là cho vay ngắn hạn, ngân hàng ngày càng trở nên năng động hơn trong việc cho vay đối với các dự án, tài trợ cho xây dựng các nhà máy mới, đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao. Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định,… nhằm thực hiệ những dự án nhất định, có thể xin vay ngân hàng. Một trong những yêu cầu của ngân hàng là người đi vay phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư cũng như quá trình thực hiện dự án. Thẩm định dự án là điều kiện để ngân hàng quyết định phần vốn cho vay và khả năng hoàn trả của doanh nghiệp. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là rất cao song lãi lại lớn. - Cho vay tiêu dùng: là những món vay nhỏ lẻ cho cá nhân, phục vụ cho mục đích tiêu dùng, mua hàng trả góp hàng hóa lâu bền như ô tô, xe máy, nhà cửa,… Cho vay tiêu dùng được bắt đầu từ các hãng bán lẻ, do yêu cầu đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa. Hình thức cho vay tiêu dùng của các hãng là bán trả góp. Một số hãng đã phải vay ngân hàng để bù đắp vốn lưu động thiếu hụt. Trong thời gian đầu hầu hết các ngân hàng đều không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình, vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng có rủi ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dân dẫn đến nhu cầu tiêu dùng ngày một cao và sự cạnh tranh trong cho vay đã khiến ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như một đối tượng khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, cho vay tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng mạnh nhất ở các nước phát triển. Phương thức cho vay có thể cho vay trực tiếp đối với người mua hoặc thông qua tài trợ cho các doanh nghiệp bán lẻ hàng lâu bền, các công ty xây dựng để các doanh nghiệp này bán hàng trả góp. Ngân hàng có thể tài trợ (hoặc đồng tài trợ) toàn bộ, hoặc một phần giá trị hàng hóa. Cho vay tiêu dùng có rủi ro rất cao. Nếu người vay bị chết, ốm, hoặc mất việc, ngân hàng sẽ khó thu được nợ. Nhiều khoản cho vay với thời hạn dài (mua nhà thế chấp), vì vậy ngân hàng cần lập dự phòng cho vay tiêu dùng để chuyên theo dõi. Bên cạnh đó ngân hàng thường đòi hỏi lãi suất rất cao, yêu cầu người vay phải mua bảo hiểm thất nghiêp, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm hàng hóa đã mua,… Ngoài ra các ngân hàng cũng có thể cho vay bằng cách mua trái phiếu trung và dài hạn của Chính phủ hoặc doanh nghiệp nhằm tài trợ cho quá trình hình thành tài sản cố định. Kì hạn và khả năng chuyển đổi của trái phiếu, lãi suất, tình hình tài chính của doanh nghiệp, các kế hoạch tương lai… đều được ngân hàng tính toán khi mud trái phiếu. Trái phiếu cũng có thể xem như là khoản đầu tư của ngân hàng trung và dài hạn. Ngân hàng thực hiện tài trợ theo nhiều nghiệp vụ và hình thức khác nhau, nhằm đáp ứng nhu câù ngày càng cao và đa dạng của hàng triệu khách hàng, từ quốc gia, tổ chức tài chính, tổ chức liên chính phủ và phi chính phủ, các doanh nghiệp, hộ gia đình,… Các loại hình cho vay không ngừng được mở rộng, đa dạng và hoàn thiện theo hướng mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng, đồng thời vẫn đảm bảo an toàn và lợi ích cho ngân hàng. 1.1.2. Vai trò của hoạt động cho vay: Hoạt động chính của ngân hàng thương mại là tìm kiếm các khoản vốn (huy động vốn) để sử dụng nhằm thu lợi nhuận. Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo nên các tài sản khác nhau của ngân hàng, trong đó cho vay và đầu tư là hai loại tài sản lớn nhất và quan trọng nhất. Cho vay là tài sản lớn nhất trong các khoản mục tín dụng, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng thương mại. 1.1.2.1. Đối với nền kinh tế: - Cho vay là một kênh cung cấp vốn quy mô lớn và quan trọng nhất trong nền kinh tế. Có rất nhiều cách để huy động vốn như: góp vốn, đi vay, phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vốn từ tài trợ, huy động từ các nguồn khác,…tuy nhiên đi vay vẫn là kênh vốn phổ biến nhất với chi phí vừa phải, và tiết kiệm thời gian.. Mặc dù nếu doanh nghiệp huy động vốn bằng các hình thức khác, lãi suất sẽ thấp hơn nhưng những chi phí khác mà doanh nghiệp phải bỏ ra không phải là nhỏ, lại mất nhiều thời gian. Ngoài ra đi vay còn giúp doanh nghiệp có một khoản tiết kiệm từ thuế không phải nộp cho Nhà nước. - Cho vay đóng vai trò quan trọng trong đầu tư phát triển. Trong mỗi thời kỳ, Nhà nước đều có những chính sách, chiến lược khác nhau, nhưng đầu tư phát triển luôn là mục tiêu hàng đầu. Do vậy hoạt động cho vay luôn được khuyến khích, quan tâm. 1.1.2.2. Đối với ngân hàng: Cho vay là nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng nhằm sử dụng nguồn vốn đã huy động được để thu lợi nhuận. Lợi nhuận từ hoạt động cho vay là nguồn lợi nhuận chính của ngân hàng, (chiếm khoảng 70% tổng lợi nhuận). Cho vay còn là kênh “tiêu thụ” cho nguồn vốn huy động được, không để nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư trở nên lãng phí trong khi có rất nhiều dự án phục vụ đầu tư phát triển đang cần vốn. Ngân hàng cho vay, thu lãi nhằm bù đắp phần lãi phả
Luận văn liên quan