Sau hơn 20 năm đổi mới, từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN nước ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế và đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam, lĩnh vực tài chính – ngân hàng cũng đã có những bước phát triển vượt bậc. Lợi nhuận của các NHTM trong những năm qua liên tục gia tăng mà hoạt động tín dụng của NHTM chính là hoạt động chủ yếu và đem lại lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất của ngân hàng. Do vậy các NHTM đều rất chú trọng việc nâng cao chất lượng tín dụng.
Trong những năm gần đây DNN&V đã phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng, loại hình doanh nghiệp này đang dần khẳng định vị thế và vai trò của mình đối với nền kinh tế. Với số lượng các DNN&V là rất lớn chiếm khoảng 96% trong tổng số các doanh nghiệp, nhưng hiệu quả hoạt động của các DNN&V là chưa cao. Tuy nhiên các DNN&V vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn nhất là khó khăn về vốn. Hiện nay các DNN&V đều được các ngân hàng chú trọng, quan tâm, các DNN&V đều được coi là khách hàng chiến lược ngân hàng. Qua quá trình thực tập tại NHNo&PTNT Hà Nội, em nhận thấy rằng cùng với sự tăng trưởng dư nợ đối với các DNN&V thì nợ quá hạn với đối tượng này cũng gia tăng, điều đó ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Vì vậy đề tài: “ Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội ” được chọn để hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của nhánh NHNo&PTNT Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội.
77 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1964 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
XHCN Xã hội chủ nghĩa
NHTM Ngân hàng thương mại
NHNN Ngân hàng Nhà nước
DNN&V Doanh nghiệp nhỏ và vừa
NHNo&PTNT Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thônDANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Cách phân loại DNN&V của Nhật Bản. 5
Bảng 1.2: Cách phân loại DNN&V của Đài Loan. 6
Bảng 1.3: Cách phân loại DNV&N của Liên minh Châu Âu. 6
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn của NHNo&PTNT Hà Nội. 35
Bảng 2.2: Tình hình dư nợ của NHNo&PTNT Hà Nội 36
Bảng 2.3: Công tác tác thanh toán xuất khẩu 38
Bảng 2.4: Công tác thanh toán nhập khẩu 39
Bảng 2.5: Tình hình kinh doanh ngoại tệ 40
Bảng 2.6: Kết quả tài chính của NHNo&PTNT Hà nội. 41
Bảng 2.7: Kết quả hoạt động tín dụng của chi nhánh năm 2004, 2005, 2006 44
Bảng 2.8: Doanh số cho vay đối với DNN&V năm 2004, 2005, 2006 46
Bảng 2.9: Dư nợ đối với DNN&V năm 2004, 2005, 2006 47
Bảng 2.10: Doanh số thu nợ đối với DNN&V năm 2004, 2005, 2006 48
Bảng 2.11: Vòng quay vốn năm 2004, 2005, 2006 48
Bảng 2.12: Nợ quá hạn đối với DNN&V năm 2004, 2005, 2006 49
LỜI NÓI ĐẦU
Sau hơn 20 năm đổi mới, từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN nước ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế và đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam, lĩnh vực tài chính – ngân hàng cũng đã có những bước phát triển vượt bậc. Lợi nhuận của các NHTM trong những năm qua liên tục gia tăng mà hoạt động tín dụng của NHTM chính là hoạt động chủ yếu và đem lại lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất của ngân hàng. Do vậy các NHTM đều rất chú trọng việc nâng cao chất lượng tín dụng.
Trong những năm gần đây DNN&V đã phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng, loại hình doanh nghiệp này đang dần khẳng định vị thế và vai trò của mình đối với nền kinh tế. Với số lượng các DNN&V là rất lớn chiếm khoảng 96% trong tổng số các doanh nghiệp, nhưng hiệu quả hoạt động của các DNN&V là chưa cao. Tuy nhiên các DNN&V vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn nhất là khó khăn về vốn. Hiện nay các DNN&V đều được các ngân hàng chú trọng, quan tâm, các DNN&V đều được coi là khách hàng chiến lược ngân hàng. Qua quá trình thực tập tại NHNo&PTNT Hà Nội, em nhận thấy rằng cùng với sự tăng trưởng dư nợ đối với các DNN&V thì nợ quá hạn với đối tượng này cũng gia tăng, điều đó ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Vì vậy đề tài: “ Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội ” được chọn để hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của nhánh NHNo&PTNT Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội.
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1.1 Khái niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa.
DNN&V là một loại hình kinh doanh của nền kinh tế. Loại hình doanh nghiệp này ngày càng phát triển mạnh mẽ góp phần to lớn vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Trong nền kinh tế ở những nước phát triển cũng như các nước đang phát triển số lượng các DNN&V chiếm một tỷ lệ khá cao và là lực lượng sản xuất kinh doanh rất quan trọng cung cấp một lượng lớn hàng hoá và dịch vụ cho xã hội. Việc xác định đâu là DNN&V, đâu là doanh nghiệp lớn là hoạt động nhằm phân loại doanh nghiệp dựa trên độ lớn hay quy mô của các doanh nghiệp. Quá trình phân biệt loại doanh nghiệp nhỏ và vừa phụ thuộc vào tiêu thức sử dụng, nó quy định giới hạn các tiêu thức phân biệt loại quy mô doanh nghiệp. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quan điểm cũng như nhiều tiêu thức đánh giá quy mô doanh nghiệp và lượng hoá các tiêu thức đó thông qua những tiêu chuẩn cụ thể để xác định DNN&V.
Có nhiều tiêu thức để phân loại doanh nghiệp như: Số lao động, vốn sản xuất, doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng nhưng trong số các tiêu thức trên thì hai tiêu thức được sử dụng nhiều nhất là quy mô vốn và lao động.
Các tiêu thức phân loại DNN&V của một số nước trên thế giới.
Ở Nhật Bản đã phân loại DNN&V theo các ngành nghề cụ thể, xếp theo vốn pháp định và số lượng lao động
Bảng 1.1: Cách phân loại DNN&V của Nhật Bản.
Ngành
Số lao động (người)
Vốn (triệu Yên)
Công nghiệp
<300
<100
Thương nghiệp
<100
<300
Thương mại, bán lẻ
<50
<10
Nguồn: Cẩm nang & kinh nghiệm của Nhật Bản trong phát triển DNN&V ( TS. Lê Đình Thu- Ban kinh tế trung ương).
Ở Đài Loan: Các DNN&V ở Đài Loan được phân biệt theo ba nhóm ngành: công nghiệp và xây dựng, khai khoáng, thương mại vận tải và các dịch vụ khác. Đối với hai ngành công nghiệp và xây dựng, khai khoáng dùng 2 tiêu thức vốn và lao động, còn đối với ngành thương mại, vận tải và dịch vụ khác lại dựa trên tiêu chí là doanh thu và lao động
Bảng 1.2: Cách phân loại DNN&V của Đài Loan.
Ngành
Số lao động (người)
Vốn ( triệu USD Đài Loan)
Doanh thu ( triệu USD Đài Loan)
Công nghiệp & xây dựng
<300
<100
Khai khoáng
<500
<40
Thương mại, vận tải và dịch vụ khác
<50
<40
(Nguồn: Dự án chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1996)
Liên minh châu Âu: Để xác định DNV&N, người ta đưa ra ba tiêu chuẩn đánh giá: Số lao động thường xuyên được sử dụng trong doanh nghiệp. Doanh thu bán/ năm. Vốn đầu tư cho sản xuất của doanh nghiệp.
Bảng 1.3: Cách phân loại DNV&N của Liên minh Châu Âu.
Loại doanh nghiệp
Số lao động
Doanh thu/ năm
( triệu Euro)
Vốn
(triệu Euro)
Doanh nghiệp vừa
50-250
<16
<8
Doanh nghiệp nhỏ
<50
<4
<2
(Nguồn : Tạp chí nghiên cứu châu Âu)
Tại Việt Nam, văn bản luật đầu tiên quy định thống nhất tiêu chí xác định DNN&V là công văn số 681/CP-KTN ban hành ngày 20/6/1998. Theo đó, DNN&V là những doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người. Nhưng vào ngày 23/11/2001, Chính phủ đã ban hành nghị định số 90/2001/NĐ-CP quy định lại tiêu chí để xác định DNN&V, đó là: Doanh nghiệp nhỏ và vừa là những cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, có tư cách pháp nhân, không phân biệt thành phần kinh tế, có vốn đăng ký không vượt quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.
1.1.2 Các đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Các DNN&V đều có những đặc thù riêng về ngành, lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Tuy nhiên chúng đều có những đặc điểm cơ bản sau:
Nguồn tài chính hạn chế: DNN&V là loại hình doanh nghiệp có quy mô sản xuất không lớn, số lao động và số vốn đầu tư đều không nhiều. Thực tế cho rằng, quy mô càng nhỏ khả năng huy động thêm vốn càng yếu kém. Khó khăn về vốn kéo theo hàng loạt các khó khăn cho DNN&V.
Công nghệ và thiết bị lạc hậu: Do không đủ vốn để đầu tư nâng cấp, đổi mới máy móc thiết bị, lại càng không có nguồn để cho công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật, các công nghệ áp dụng trong các DNN&V chủ yếu là công nghệ trung bình thậm chí còn cũ và lạc hậu.
Khả năng cạnh tranh của các DNN&V còn thấp: Thị trường của DNN&V tham gia đều rất nhỏ, lẻ đó chính là những “lỗ hổng” thị trường của các doanh nghiệp lớn chưa hay không có ý định khai thác mà nếu có khai thác thì không thể hiệu quả như các DNN&V. Tuy nhiên DNN&V lại gặp một số hạn chế nhất định trong việc thâm nhập thị trường và phân phối sản phẩm: Trình độ khoa học công nghệ còn kém, thiếu thông tin về thị trường,khả năng quản lý, khả năng marketing còn kém...Tất cả những điều đó làm giảm tính cạnh tranh trên thị trường của DNN&V.
Trình độ quản lý còn thấp: Trình độ quản lý kém trong các DNN&V đang là một vấn đề đáng lo ngại hiện nay. Thực tế nhiều chủ doanh nghiệp còn thiếu những kiến thức cơ bản về kinh tế, thậm chí không hiểu biết về pháp luật. Chỉ có 5,13% lao động trong khu vực dân doanh có trình độ đại học, trong đó chủ yếu tập trung vào các công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần (80%). Mặt khác, các DNN&V ít có khả năng thu hút những cán bộ kỹ thuật giỏi, các công nhân có trình độ tay nghề cao do điều kiện làm việc và chế độ lương thưởng mà các DNN&V cung cấp và chi trả không thể tốt bằng các doanh nghiệp lớn.
- DNN&V có khả năng ứng biến nhanh nhạy với sự thay đổi của thị trường. Với quy mô nhỏ và vừa, bộ máy quản lý gọn nhẹ, đơn giản DNN&V dễ dàng đáp ứng những nhu cầu nhỏ, lẻ hay biến động của thị trường. Ngoài ra, do các DNN&V luôn có mối quan hệ trực tiếp với thị trường và người tiêu dùng nên phản ứng nhanh nhạy với diễn biến thị trường.
- DNN&V có thể được tạo lập dễ dàng chỉ cần một lượng vốn đầu tư ban đầu ít, khả năng thu hồi vốn nhanh. Với quy mô vốn đầu tư ban đầu không nhiều, mặt bằng sản xuất nhỏ hẹp, quy mô nhà xưởng không lớn, thuê được lao động với giá rẻ, các DNN&V có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm với giá rẻ. Bên cạnh đó trong các DNN&V, mối quan hệ giữa nhà quản lý và người lao động tương đối chặt chẽ cho nên đảm bảo tính hiệu quả trong lao động sản xuất và điều hành quản lý.
- DNN&V thúc đẩy quá trình cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp chống độc quyền trong kinh doanh. Các DNN&V hoạt động với số lượng đông đảo, không có tình trạng độc quyền, hoạt động hầu như trên mọi lĩnh vực.
- Do quy mô nhỏ nên DNN&V có mặt ở khắp mọi nơi, các DNN&V có thể khai thác được rất nhiều tiềm lực của các địa phương mà các doanh nghiệp lớn chưa làm hay làm thì không có hiệu quả.
1.1.3 Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
DNN&V có vị trí và vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, kể cả tại các nước phát triển. Tại Việt Nam số lượng các DNN&V chiếm khoảng 96% tổng số doanh nghiệp trong cả nước, các DNN&V được xem là yếu tố cần thiết không thể thiếu cho sự tăng trưởng, giải quyết việc làm và tiến bộ xã hội. Cho đến nay vai trò của DNN&V đã được khẳng định trên phạm vi toàn thế giới. Vai trò đó được thể hiện cụ thể như sau:
Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Sự phát triển của các DNN&V đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng của kinh tế mỗi quốc gia. Đặc biệt là những nước kém phát triển thì giá trị gia tăng hoặc GDP do các DNN&V tạo ra hàng năm chiếm tỷ trọng khá cao. Ví dụ như ở Hàn Quốc, với khoảng 91000 DNN&V hàng năm tạo ra lượng giá trị sản phẩm là 177 tỷ Euro chiếm khoảng 46,3% GDP, trong đó giá trị gia tăng mà các DNN&V đóng góp là 74,2 tỷ Euro. Ở Đài Loan, doanh thu của các DNN&V ở đây chiếm 36% GDP, đồng thời kim ngạch xuất khẩu chiếm tới 51%. Ở Nhật Bản là một quốc gia mà ở đó DNN&v giữ một vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo tăng trưởng của nền kinh tế, chiếm khoảng 64% doanh số bán buôn và 76% doanh số bán lẻ. Còn ở Việt Nam, với trên 190 ngàn doanh nghiệp và 432 ngàn tỷ đồng vốn được đăng ký cho đến nay, DNN&V đã đóng góp khoảng 23% GDP, 31% Giá trị sản lượng công nghiệp, 27% vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, khoảng 8% vào ngân sách Nhà nước. Nhìn vào sự đóng góp to lớn của các DNN&V hiện nay ta mới thấy rõ được tầm quan trọng và vai trò của các DNN&V.
Tạo việc làm và thu nhập cho người lao động
Số lượng các DNN&V là rất lớn và có mặt tại khắp nơi do vậy các DNN&V luôn tạo ra một khối lượng công việc lớn, tạo thu nhập cho người lao động, nhất là lao động thủ công trong nền kinh tế. Do vậy đã góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp và tạo thu nhập cho người lao động qua đó góp phần làm giảm tệ nạn xã hội, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư
Tiềm lực tài chính trong dân cư là khá lớn, tuy nhiên lại không tập trung thành những khoản lớn để đáp ứng cho các doanh nghiệp có quy mô lớn mà chỉ là những khoản bé nằm rải rác. Với tính chất nhỏ bé, dễ phân tán và đi sâu vào các ngõ ngách, làng xã, thôn xóm và số lượng vốn ban đầu không nhiều, các DNN&V có vai trò và tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn đó vào sản xuất kinh doanh. Mặc dù số vốn thu hút vào mỗi một doanh nghiệp không nhiều nhưng do số lượng DNN&V rất lớn nên tổng số vốn được các doanh nghiệp này đưa vào sản xuất kinh doanh là khá lớn và không ngừng gia tăng cùng với sự gia tăng của các DNN&V. Với vai trò này, DNN&V đã giúp nền kinh tế sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính trong dân cư, hạn chế tiền nhàn rỗi không sinh lời trong nền kinh tế.
Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Các DNN&V có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xoá đói giảm nghèo. Sự phát trriển của các doanh nghiệp này ở các vùng nông thôn tạo điều kiện cho công nghiệp phát triển đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại dịch vụ, tiểu thương phát triển. Tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân vì thế mà có thể được thu hẹp dần. Mặt khác, các DNN&V còn thúc đẩy quá trình đô thị hoá, thu hút và tập trung dân cư vào các vùng trọng điểm. Nên sự phát triển của các DNN&V đã và đang tạo ra những chuyển biến hết sức quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế. Các DNN&V cũng tham gia tích cực vào quá trình xoá đói giảm nghèo. Bởi các DNN&V tạo ra công việc, thu nhập cho người lao động. Hàng hoá của DNN&V cũng rất đa dạng về mẫu mã, giá cả thường thì giá rẻ phù hợp với mức thu nhập của người dân qua đó nâng cao mức sống của người dân.
Tạo ra sự năng động và hiệu quả cho nền kinh tế.
Với ưu thế về tính linh hoạt và lượng vốn yêu cầu tương đối nhỏ, DNN&V có khả năng nhanh chóng chuyển đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất đổi mới công nghệ… cho phù hợp với sự thay đổi của thị trường. Do vậy các DNN&V làm cho nền kinh tế trở nên năng động và hiệu quả hơn.
Hình thành và phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động.
DNN&V chính là môi trường thuận lợi cho việc đào tạo và phát triển kỹ năng kinh doanh. Cùng với sự phát triển các DNN&V là sự xuất hiện ngày càng nhiều hơn các nhà kinh doanh sáng lập. Từ các DNN&V các nhà kinh doanh sẽ làm quen với sự cạnh tranh, tiếp cận các kỹ năng quản lý cơ bản tích luỹ kinh nghiệm cho bản thân. Đây là lực lượng rất cần thiết để góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh, góp phần vào sự phát triển chung của toàn nền kinh tế. Nguồn nhân lực về quản lý vì thế mà không ngừng được nâng cao cả về số lượng và chất lượng, đây là một trong những nhân tố quan trọng nhất thúc đẩy sự phát của nền triển kinh tế.
1.2 TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DNN&V.
1.2.1 Sự cần thiết khách quan của tín dụng ngân hàng đối với DNN&V.
Sự cần thiết khách quan của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng có vai trò rất quan trọng, đặc biệt trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngân hàng là một trung gian tài chính, hoạt động chủ yếu của nó là đi vay để cho vay qua đó đáp ứng được yêu cầu về cung và cầu tiền tệ trên thị trường. Do vậy làm tăng khả năng lưu chuyển tiền tệ trên thị trường qua đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Các doanh nghiệp muốn mở rộng sản xuất, yêu cầu về vốn là một trong những mối quan tâm hàng đầu đặt ra. Các doanh nghiệp không thể trông chờ vào vốn tự có, mà còn phải dựa vào vốn của nhiều nguồn khác nhau trong xã hội. NHTM với tư cách là nơi tập trung đại bộ phận vốn nhàn rỗi, sẽ là trung tâm đáp ứng nhu cầu về vốn bổ sung cho đầu tư phát triển. Như vậy, tín dụng ngân hàng vừa giúp cho doanh nghiệp rút ngắn được thời gian tích luỹ vốn nhanh chóng cho đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn cho nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn hình thành vốn lưu động và cố định của các doanh nghiệp. Vì vậy tín dụng ngân hàng đã góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế, đảm bảo vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục, là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, động viên hàng hoá vào lưu thông, mở rộng nguồn vốn thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh quá trình tái sản xuất qua đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Sự cần thiết khách quan của tín dụng ngân hàng đối với các DNN&V.
Các DNN&V ở nước ta đã và đang khẳng định được vị trí và vai trò của mình trong nền kinh tế. Tuy nhiên để DNN&V phát huy hết được khả năng của mình thì Đảng, Nhà nước, các tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế...cần phải có những chính sách, những biện pháp cụ thể nhằm giúp đỡ DNN&V vượt quan những khó khăn những hạn chế. Mà một trong rất nhiều khó khăn phải kể đến đó là khó khăn về vốn. Các NHTM cùng với các tổ chức tín dụng khác là kênh huy động vốn vô cùng quan trọng đối với các DNN&V.
- Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn của các DNN&V
Khi cần vốn tài trợ cho việc sản xuất kinh doanh các DNN&V thường huy động bằng cách: tăng vốn chủ sở hữu, vay từ các nguồn vốn phi chính thức, tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại ,vay vốn qua thị trường vốn hoặc thuê mua.
Tăng nguồn vốn chủ sở hữu là một trong những biện pháp mà các doanh nghiệp thường sử dụng. Tuy nhiên đối với các DNN&V thì biện pháp này khó thực hiện được do quy mô vốn nhỏ, các chủ doanh nghiệp không có khả năng đóng góp vốn thêm vào doanh nghiệp. Mặt khác cổ phiếu phát hành của các doanh nghiệp này trên thị trường vốn không thực sự hấp dẫn nên rất khó thu hút được các nhà đầu tư.
Ngoài ra, nếu huy động từ các nguồn vốn không chính thức như vay bạn bè, vay từ các đối tác kinh doanh... thường có lãi suất cao, rủi ro lớn, không ổn định đối với các DNN&V.
Bên cạnh đó, các DNN&V có thể huy động vốn từ thị trường vốn. Mặc dù, thị trường chứng khoán đã và đang phát triển rất nhanh và có thể đáp ứng được yêu cầu về vốn của thị trường, tuy nhiên kênh huy động vốn này có những điều kiện, những yêu cầu rất khắt khe như chế độ tài chính minh bạch, làm ăn có lãi trong hai năm liên tục...Đây là điều mà các DNN&V không phải doanh nghiệp nào cũng đáp ứng được.
Thuê mua là phương thức mà ngân hàng có thể mua máy móc thiết bị hoặc đi thuê để cho doanh nghiệp thuê lại. Tại các nước phát triển, thuê mua là một biện pháp phổ biến, thuận lợi thay thế cho tín dụng trung và dài hạn, đặc biệt đối với các DNN&V khi gặp khó khăn trong vay vốn trung dài hạn tại các ngân hàng. Tuy nhiên tại Việt Nam hiện nay, đây là hình thức tài trợ mới, chưa phát triển, các DNN&V và ngân hàng còn chưa quen với hình thức này.
Vì vậy, đối với các DNN&V thì việc tiếp cận với tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất. Không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng hoặc không sử dụng tín dụng thương mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thị trường. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay vốn ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư theo chiều sâu. Tuy nhiên để có thể tiếp cận được vốn của ngân hàng thì các doanh nghiệp phải đảm bảo các điều kiện tín dụng, chịu sự kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn.
- Tín dụng ngân hàng giúp cho doanh nghiệp hình thành cơ cấu vốn tối ưu.
Khi doanh nghiệp chỉ dùng vốn sở hữu để kinh doanh thì doanh nghiệp sẽ mất đi một khoản tiết kiệm về thuế nhờ lãi vay. Vì lãi vay là một chi phí hợp lý của doanh nghiệp nên nó được trừ đi trước lợi nhuận trước thuế. Tuy nhiên nếu sử dụng nợ quá nhiều sẽ tạo áp lực lớn cho doanh nghiệp về chi phí trả lãi cũng như gốc cho ngân hàng. Nếu doanh nghiệp không thể trả được nợ có thể dẫn đến phá sản. Việc sử dụng nợ vay ngân hàng có những ưu điểm nhưng cũng có những nhược điểm cho nên doanh nghiệp phải căn cứ vào năng lực tài chính của mình để xây dựng được một cơ cấu vốn tối ưu.
- Tín dụng ngân hàng giúp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các DNN&V.
Đối với DNN&V thì vốn vay ngân hàng là nguồn vốn tài trợ có hiệu quả hơn cả bởi nó thoả mãn nhu cầu vốn về số lượng và thời hạn đặc biệt chi phí sử dụng vốn vay ngân hàng thấp hơn