1. Lý do chọn đề tài
Hệ thống NHTM VN đã có những đóng góp quan trọng cho sự ổn định và tăng trưởng kinh tế ở nước ta trong nhiều năm qua. Đó là một trong những lĩnh vực sôi động nhất trong nền kinh tế, và có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động SXKD của các ngành kinh tế khác. Những kỹ thuật nghiệp vụ trong hoạt động này rất đa dạng và phức tạp, đòi hỏi những người thực hiện phải có những kỹ năng, kiến thức và sự hiểu biết nhất định.
Trong khóa học vừa qua, cùng với các kiến thức qua các bài giảng, các môn học và sự tìm hiểu thêm ở các sách báo, tạp chí, em đã phần nào nắm bắt được những lý thuyết, những kiến thức cơ bản về hoạt động của hệ thống Ngân hàng trong nền kinh tế. Tuy nhiên, có thể thấy là trong thực tế các hoạt động đó rất đa dạng và phong phú, do đó quá trình thực tập chính là cầu nối gắn liền giữa lý thuyết và thực tiễn giúp em có thể liên hệ được những kiến thức đã học được trên lý thuyết để vận dụng vào thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng. Cũng như các sinh viên năm thứ 4 khác đang trải qua quá trình thực tập, được sự giới thiệu của Nhà trường cùng với sự giúp đỡ tạo điều kiện của Ngân hàng Công thương Chi nhánh Đống Đa (NHCTCNĐĐ), trong suốt quá trình thực tập tại đây, Em đã nắm bắt được một số hoạt động cơ bản, tìm hiểu thực tiễn tại Chi nhánh và nhận thấy rằng doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là một đối tượng khách hàng rất quan trọng đối với Ngân hàng. Bên cạnh những DNNN sản xuất kinh doanh (SXKD) hiệu quả xuất hiện một số DNNN làm ăn không hiệu quả, không có khả năng trả nợ cho Ngân hàng đã gây khó khăn cho hoạt động ngân hàng.
Trên cơ sở vốn kiến thức đã tích luỹ được cùng với việc xem xét tình hình thực tế tại Chi nhánh, được sự quan tâm giúp đỡ của cán bộ, nhân viên phòng Khách hàng 1 trong thời gian thực tập tại NHCTCNĐĐ, đặc biệt là dưới sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo Ths Lê Phong Châu, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước tại NHCTCNĐĐ”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Ngân hàng ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá để giải quyết nhu cầu phân phối vốn, nhu cầu thanh toán , phục vụ cho phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế, cá nhân với đặc thù kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Vì vậy, hoạt động ngân hàng chứa đựng nhiều tiềm ẩn rủi ro mà chúng ta khó có thể lường trước được. Do đó việc phân tích và đánh giá hoạt động tín dụng của ngân hàng là rất cần thiết. Và một điểm đáng chú ý là nếu như chúng ta nhớ rằng chỉ cách đây một vài năm, doanh nghiệp Nhà nước vẫn là đối tượng khách hàng cạnh tranh của các ngân hàng. Lúc đó dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà nước chiếm đến 70%-80% tổng dư nợ cho vay của các chi nhánh ngân hàng thương mại nhà nước nhưng từ năm 2004 đến nay tình hình đã khác.
Trong nền kinh tế thị trường đang hội nhập, doanh nghiệp nhà nước ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Hoạt động của doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả, khả năng tạo ra lợi nhuận kém, hàng tồn kho tiêu thụ chậm, công nợ chưa thanh toán được. cộng thêm các cơ chế, quy chế quản lý của doanh nghiệp nhà nước cũng ngày càng trở nên bất cập với thực tiễn. khi Vì thế khi phân tích hoạt động cho vay DNNN của NHCTCNĐĐ đề tài sẽ tập trung phân tích các yếu tố vốn, cho vay, thu nợ, dư nợ, nợ xấu. Qua đó đánh giá kết quả về khả năng huy động vốn và hiệu quả sử dụng vốn của Chi nhánh trong hoạt động cho vay đối với DNNN, đồng thời đưa ra một số ý kiến góp ý nhằm nâng cao hơn nữa HQCV khối DNNN, hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở kiến thức học ở trường, kiến thức tích luỹ trong thời gian thực tập và qua sách báo, em sử dụng một số phương pháp sau đây trong việc nghiên cứu đề tài:
- Phương pháp thu thập số liệu: Báo cáo hoạt động kinh doanh của Chi nhánh, NHCTVN.
- Phương pháp phân tích thống kê.
- Phương pháp so sánh sự biến động của dãy số qua các năm.
- Phương pháp chuyên gia: Thu thập ý kiến của các chuyên gia trong các lĩnh vực liên quan.
4. Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ của NHCTĐĐ rất đa dạng và phong phú. Nhưng vì thời gian thực tập và khả năng tiếp nhận của bản thân có hạn, vì thế em không thể phân tích một cách sâu sắc các hoạt động của ngân hàng. Nên phạm vi đề tài chỉ tập trung phân tích tình hình huy động và cho vay đối với DNNN của NHCTĐĐ qua ba năm: 2005, 2006 và 2007
5. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài lời nói đầu và kết luận, nội dung của chuyên đề được chia thành 3 chương:
- Chương 1: Hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước của ngân hàng thương mại.
- Chương 2: Thực trạng hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh Đống Đa.
- Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh Đống Đa.
71 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1946 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước tại ngân hàng công thương chi nhánh Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Hệ thống NHTM VN đã có những đóng góp quan trọng cho sự ổn định và tăng trưởng kinh tế ở nước ta trong nhiều năm qua. Đó là một trong những lĩnh vực sôi động nhất trong nền kinh tế, và có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động SXKD của các ngành kinh tế khác. Những kỹ thuật nghiệp vụ trong hoạt động này rất đa dạng và phức tạp, đòi hỏi những người thực hiện phải có những kỹ năng, kiến thức và sự hiểu biết nhất định.
Trong khóa học vừa qua, cùng với các kiến thức qua các bài giảng, các môn học và sự tìm hiểu thêm ở các sách báo, tạp chí, em đã phần nào nắm bắt được những lý thuyết, những kiến thức cơ bản về hoạt động của hệ thống Ngân hàng trong nền kinh tế. Tuy nhiên, có thể thấy là trong thực tế các hoạt động đó rất đa dạng và phong phú, do đó quá trình thực tập chính là cầu nối gắn liền giữa lý thuyết và thực tiễn giúp em có thể liên hệ được những kiến thức đã học được trên lý thuyết để vận dụng vào thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng. Cũng như các sinh viên năm thứ 4 khác đang trải qua quá trình thực tập, được sự giới thiệu của Nhà trường cùng với sự giúp đỡ tạo điều kiện của Ngân hàng Công thương Chi nhánh Đống Đa (NHCTCNĐĐ), trong suốt quá trình thực tập tại đây, Em đã nắm bắt được một số hoạt động cơ bản, tìm hiểu thực tiễn tại Chi nhánh và nhận thấy rằng doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là một đối tượng khách hàng rất quan trọng đối với Ngân hàng. Bên cạnh những DNNN sản xuất kinh doanh (SXKD) hiệu quả xuất hiện một số DNNN làm ăn không hiệu quả, không có khả năng trả nợ cho Ngân hàng đã gây khó khăn cho hoạt động ngân hàng.
Trên cơ sở vốn kiến thức đã tích luỹ được cùng với việc xem xét tình hình thực tế tại Chi nhánh, được sự quan tâm giúp đỡ của cán bộ, nhân viên phòng Khách hàng 1 trong thời gian thực tập tại NHCTCNĐĐ, đặc biệt là dưới sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo Ths Lê Phong Châu, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước tại NHCTCNĐĐ”.
Mục tiêu nghiên cứu
Ngân hàng ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá để giải quyết nhu cầu phân phối vốn, nhu cầu thanh toán … , phục vụ cho phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế, cá nhân với đặc thù kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Vì vậy, hoạt động ngân hàng chứa đựng nhiều tiềm ẩn rủi ro mà chúng ta khó có thể lường trước được. Do đó việc phân tích và đánh giá hoạt động tín dụng của ngân hàng là rất cần thiết. Và một điểm đáng chú ý là nếu như chúng ta nhớ rằng chỉ cách đây một vài năm, doanh nghiệp Nhà nước vẫn là đối tượng khách hàng cạnh tranh của các ngân hàng. Lúc đó dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà nước chiếm đến 70%-80% tổng dư nợ cho vay của các chi nhánh ngân hàng thương mại nhà nước nhưng từ năm 2004 đến nay tình hình đã khác.
Trong nền kinh tế thị trường đang hội nhập, doanh nghiệp nhà nước ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Hoạt động của doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả, khả năng tạo ra lợi nhuận kém, hàng tồn kho tiêu thụ chậm, công nợ chưa thanh toán được... cộng thêm các cơ chế, quy chế quản lý của doanh nghiệp nhà nước cũng ngày càng trở nên bất cập với thực tiễn... khi Vì thế khi phân tích hoạt động cho vay DNNN của NHCTCNĐĐ đề tài sẽ tập trung phân tích các yếu tố vốn, cho vay, thu nợ, dư nợ, nợ xấu. Qua đó đánh giá kết quả về khả năng huy động vốn và hiệu quả sử dụng vốn của Chi nhánh trong hoạt động cho vay đối với DNNN, đồng thời đưa ra một số ý kiến góp ý nhằm nâng cao hơn nữa HQCV khối DNNN, hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở kiến thức học ở trường, kiến thức tích luỹ trong thời gian thực tập và qua sách báo, em sử dụng một số phương pháp sau đây trong việc nghiên cứu đề tài:
- Phương pháp thu thập số liệu: Báo cáo hoạt động kinh doanh của Chi nhánh, NHCTVN.
- Phương pháp phân tích thống kê.
- Phương pháp so sánh sự biến động của dãy số qua các năm.
- Phương pháp chuyên gia: Thu thập ý kiến của các chuyên gia trong các lĩnh vực liên quan.
4. Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ của NHCTĐĐ rất đa dạng và phong phú. Nhưng vì thời gian thực tập và khả năng tiếp nhận của bản thân có hạn, vì thế em không thể phân tích một cách sâu sắc các hoạt động của ngân hàng. Nên phạm vi đề tài chỉ tập trung phân tích tình hình huy động và cho vay đối với DNNN của NHCTĐĐ qua ba năm: 2005, 2006 và 2007
5. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài lời nói đầu và kết luận, nội dung của chuyên đề được chia thành 3 chương:
- Chương 1: Hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước của ngân hàng thương mại.
- Chương 2: Thực trạng hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh Đống Đa.
- Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh Đống Đa.
Do thời gian và điều kiện thực hiện chuyên đề còn hạn chế, mặt khác vốn hiểu biết các nghiệp vụ này còn ở phạm vi quan sát là chủ yếu, nên chắc chắn chuyên đề còn có những thiếu sót rất mong nhận được sự góp ý, chỉnh sửa của Thầy, Cô để em có thể nắm vững kiến thức phục vụ cho công việc sau này. Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Chu Thị Thu Quyên
CHƯƠNG I
HIỆU QUẢ CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động cho vay của NHTM đối với DNNN
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại DNNN
a. Khái niệm
Trong những năm trước đây, ở nước ta nền kinh tế phát triển dựa trên quan niệm về mô hình kinh tế xã hội chủ yếu bao gồm hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể. Chúng ta thường có quan niệm về các xí nghiệp quốc doanh, mậu dịch quốc doanh…đó là những tổ chức do nhà nước: đầu tư vốn (100%), quyết định thành lập, quyết định phương hướng hoạt động, quyết định bộ máy quản lý và tuyển dụng người lao động theo chế độ biên chế ổn định. Mỗi DN đều trực thuộc một cơ quan chủ quản nhất định. DN quốc doanh thường được hiểu là đồng nhất với thành phần kinh tế quốc doanh, một bộ phận kinh tế chủ yếu giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế XHCN. Người lao động làm việc trong các DNNN và các tổ chức cơ quan Nhà nước khác đều nhận thức mình là những cán bộ công nhân viên chức Nhà nước trong biên chế, ít có sự phân biệt khác nhau về quyền lợi, chế độ phân phối, đãi ngộ.
Quá trình đổi mới những năm vừa qua, chúng ta đã hoàn thiện dần về quan niệm DNNN. Điều này thể hiện rõ trong các văn bản pháp quy: nhiều luật, nghị định đều có đề cập đến khái niệm DNNN. Tiêu biểu như Luật DNNN được Quốc hội thông qua, ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2003.
Điều 1 của Luật quy định: “DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”.
DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ các hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do DN quản lý. DNNN có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam.
Tóm lại, DNNN là một thực thể kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước, ra đời và hoạt động kinh doanh độc lập chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. DNNN là một tổ chức kinh tế khác với tổ chức hành chính và tổ chức sự nghiệp nhà nước, không chỉ lấy hoạt động kinh doanh, hoạt động công ích làm chủ yếu. Điều cơ bản là DNNN phải chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn, các nguồn lực do Nhà nước là chủ sở hữu giao cho DN.
b. Đặc điểm
Định nghĩa trên cho thấy DNNN có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, DNNN là tổ chức kinh tế được Nhà nước thành lập để thực hiện những mục tiêu do Nhà nước giao.
Hai là, DNNN do Nhà nước đầu tư vốn cho nên tài sản trong Doanh nghiệp là thuộc sở hữu Nhà nước, doanh nghiệp quản lý, sử dụng tài sản theo quy định của chủ sở hữu là Nhà nước
Ba là, DNNN có tư cách pháp nhân vì có đủ các điều kiện của pháp nhân theo quy định của pháp luật.
Bốn là, DNNN là doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn, nghĩa là nó tự chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số tài sản do Doanh nghiệp quản lý.
c. Phân loại
DNNN có thể được phân loại theo các tiêu chí pháp lý khác nhau
* Theo mục đích hoạt động của DN thì có thể chia làm 2 loại:
- DNNN hoạt động công ích:
Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích là DNNN độc lập hoặc DNNN thành viên hạch toán độc lập của Tổng công ty nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ công cộng theo chính sách của Nhà nước, do Nhà nước giao kế hoạch hoặc đặt hàng và theo giá, khung giá hoặc phí do Nhà nước quy định, hoạt động chủ yếu không vì mục tiêu lợi nhuận.
DNNN hoạt động kinh doanh:
Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh là DNNN hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận.
* Theo sở hữu có thể chia làm 4 loại:
- DNNN chỉ có một chủ sở hữu duy nhất là Nhà nước.
- DNNN có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó Nhà nước nắm giữ không dưới 50% vốn.
- DNNN có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó phần sở hữu của Nhà nước ít nhất gấp 2 lần cổ phần của các cổ đông lớn nhất khác trong DN.
- DNNN có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó Nhà nước sở hữu cổ phần đặc biệt để nắm giữ quyền quyết định một số vấn đề quan trọng của DN theo thoả thuận được ghi trong Điều lệ DN.
* Dựa vào quy mô và hình thức tổ chức của doanh nghiệp, có thể chia DNNN thành 3 loại:
- Tổng công ty Nhà nước:
Tổng công ty Nhà nước được phân biệt thành Tổng công ty 90 và Tổng công ty 91.Là DN có quy mô lớn, được thành lập và hoạt động trên cơ sở liên kết của nhiều đơn vị thành viên, có mối quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, cung ứng, tiêu thụ…Tổng công ty Nhà nước có thể có các loại đơn vị thành viên như: đơn vị hạch toán độc lập, đơn vị hạch toán phụ thuộc, đơn vị sự nghiệp.
- Doanh nghiệp Nhà nước độc lập:
Là DNNN không nằm trong cơ cấu tổ chức của DN khác. DNNN độc lập còn được phân biệt thành DNNN độc lập có qui mô lớn và DN vừa và nhỏ.
- Doanh nghiệp Nhà nước thành viên:
Là DN nằm trong cơ cấu của Tổng công ty Nhà nước.
* Theo cấp chủ quản (đầu mối quản lý), có 3 nhóm:
- DNNN do các Bộ quản lý.
- DNNN do Địa phương quản lý.
- DNNN do các tổ chức đoàn thể quản lý.
* Theo quy mô kinh doanh có thể chia thành 3 nhóm:
- DNNN quy mô lớn: vốn Nhà nước trên 10 tỷ, doanh thu trên 100 tỷ.
- DNNN quy mô vừa: vốn Nhà nước từ 5 – 10 tỷ, doanh thu từ 50 – 100 tỷ.
- DNNN quy mô nhỏ: vốn Nhà nước dưới 5 tỷ, doanh thu dưới 50 tỷ.
* Theo các ngành kinh tế kỹ thuật có thể phân loại theo nhóm các ngành kinh tế kỹ thuật sau đây:
- DNNN thuộc các ngành sản xuất nông, lâm nghiệp và phục vụ sản xuất nông, lâm nghiệp.
- DNNN thuộc các ngành công nghiệp – xây dựng và phục vụ sản xuất công nghiệp.
- DNNN thuộc các ngành thương mại, dịch vụ, vận tải, thông tin liên lạc.
- DNNN thuộc các ngành còn lại.
* Dựa vào hình thức quản lý hay cơ cấu tổ chức quản lý, DNNN có các loại hình:
- DNNN có hội đồng quản trị (HĐQT): hình thức này chỉ áp dụng đối với các Tổng công ty Nhà nước và các DNNN độc lập có quy mô lớn. Đối với loại hình này, HĐQT là cơ quan quản lý cao nhất của DN, thực hiện chức năng quản lý mọi hoạt động của DN. HĐQT chịu trách nhiệm trước Chính phủ hoặc cơ quan quản lý nhà nước được Chính phủ uỷ quyền về sự phát triển của DN theo mục tiêu mà Nhà nước giao phó.
- DNNN không có HĐQT: Được áp dụng đối với DNNN không phải là Tổng công ty hoặc DNNN độc lập có quy mô vừa và nhỏ. Cơ cấu tổ chức quản lý theo mô hình này bao gồm Giám đốc và bộ máy giúp việc. Giám đốc là người có quyền điều hành cao nhất trong DN, là người đại diện theo pháp luật của DN, chịu trách nhiệm trước người bổ nhiệm mình và trước pháp luật về hoạt động SXKD của DN.
Việc phân loại DNNN theo các tiêu chí khác nhau có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động cho vay của ngân hàng bởi với mỗi loại hình DN khác nhau ngân hàng sẽ có những yêu cầu khác nhau về hồ sơ pháp lý, tình hình tài chính, SXKD và các biện pháp bảo đảm tiền vay…khi xét duyệt cho vay hay các hoạt động tín dụng khác.
1.1.2. Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế Thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước, Đảng ta luôn nhấn mạnh KTNN là thành phần giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để Nhà nước địng hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trong đó DNNN giữ vai trò then chốt, là lực lượng mở đường, hỗ trợ và định hướng cho các thành phần kinh tế khác phát triển theo mục tiêu Kinh tế - Xã hội, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình CNH – HĐH, giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước
Ở nước ta những năm vừa qua, DNNN đã thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sản phẩm xã hội, đóng góp nguồn thu lớn cho Ngân sách Nhà nước, giải quyết nhiều việc làm, ổn định kinh tế vĩ mô và góp phần giữ vững định hướng XHCN. Hội nghị TW khoá IX đã nhận định: “DNNN vẫn giữ được vị trí trọng yếu trong nền kinh tế, tiếp tục đóng góp lớn nhất vào nguồn thu nội địa của Ngân sách”
* Vai trò kinh tế
Với một quốc gia đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vấn đề quyết định là đưa nền kinh tế từ trình độ lạc hậu nhanh chóng chuyển lên trình độ tiên tiến hiện đại có quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Trong mô hình cũ về chủ nghĩa xã hội, kinh tế XHCN được quy về phát triển 2 thành phần: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Hệ thống kinh tế quốc doanh, thường được hiểu là đồng nhất với việc xây dựng phát triển nhiều DN quốc doanh. Điều này dẫn đến những sai lầm của mô hình kinh tế cũ, là cơ cấu kinh tế thiếu năng động, hạn chế huy động các nguồn lực của xã hội… Chúng ta thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó KTNN vẫn giữ vai trò chủ đạo, điều tiết, định hướng cho các thành phần khác. Như vậy trong hệ thống DN của nền kinh tế nhiều thành phần, DNNN có vai trò là một bộ phận cấu thành của KTNN. KTNN và DNNN vẫn nắm giữ vai trò chủ đạo để thúc đẩy nền kinh tế phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đặc điểm của các nước chậm phát triển là cơ cấu kinh tế bất hợp lý, công nghiệp chưa phát triển, nông nghiệp lạc hậu, thị trường giao lưu trao đổi hàng hoá hạn hẹp, tổ chức sản xuất phân tán manh mún. Mức thu nhập bình quân của người dân thấp. Để thực hiện chiến lược tăng tốc, rút ngắn và tạo dựng cơ sở kinh tế của Nhà nước XHCN theo mô hình mới, Nhà nước tất yếu phải lựa chọn giải pháp phát triển các DNNN, tăng cường KTNN. Ở đây, việc lựa chọn này không mang tính chủ quan, mà là một tất yếu lịch sử trong phát triển nền kinh tế của mỗi quốc gia đang ở trình độ kinh tế chậm phát triển.
Trong nền KTTT hiện đại ở các nước công nghiệp phát triển, DNNN không thể hiện rõ vai trò của một công cụ để chính phủ can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế. Nhưng ở các nước chậm phát triển, hệ thống DN còn kém phát triển, đặc biệt là khu vực DN tư nhân còn nhỏ bé, lực lượng kinh tế vĩ mô của Nhà nước còn hạn chế thì việc phát triển hệ thống DNNN với nhiều DN quy mô lớn, trình độ công nghệ cao…là một giải pháp có tính quyết định đến việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng nhiều thành phần và mở cửa hội nhập. DNNN có thể trở thành những công cụ trực tiếp để tham gia khắc phục những hạn chế của KTTT khi nó đủ khả năng cung cấp những hàng hoá và dịch vụ công cộng có ý nghĩa đặc biệt đối với sinh hoạt chung của xã hội mà tư nhân và các thành phần kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng đầu tư. Phát triển DNNN để tạo kết cấu hạ tầng dịch vụ cho nền kinh tế, góp phần nâng cao hiệu quả và phát triển bền vững lâu dài nền kinh tế.
* Vai trò chính trị
Đối với một nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, DNNN có ý nghĩa chính trị đặc biệt. Nó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế và củng cố chủng quyền quốc gia.
Đây là vai trò rất quan trọng của DNNN ở các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Sự tồn tại của DNNN trong nhiều lĩnh vực then chốt của nền kinh tế đảm bảo cho Chính phủ đứng vững trước các sức ép kinh tế của các Quốc gia khác, cũng như sức ép của các DN khác khi đứng trước sự cần thiết phải thay đổi hoặc điều chỉnh chính sách cũng như cơ cấu kinh tế. Trong thực tế của nhiều quốc gia, do có những DNNN mạnh trong những lĩnh vực kinh tế quan trọng nên các nhóm chính trị cầm quyền đã đứng vững được trước sức ép từ phía các công ty đa quốc gia cũng như sự chi phối của các quốc gia khác.
*Vai trò xã hội
Trong nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường, việc giải quyết các vấn đề xã hội không thể có một lực lượng tư nhân nào có thể đảm đương được. Chính thực tế đó đòi hỏi Nhà nước với trách nhiệm là người đảm bảo sự ổn định xã hội, tạo tiền đề để mỗi người có thể phát triển toàn diện, phải làm trụ cột và lực lượng chính trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Và DNNN sẽ là lực lượng vật chất và công cụ để Nhà nước hoàn thành nhiệm vụ này.
Giảm nghèo là vai trò được các quốc gia đang phát triển kỳ vọng nhât từ các DNNN. Mang tính xã hội cao, nắm giữ những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, được Nhà nước bao cấp nhiều mặt nên DNNN cần phải trở thành động lực của việc xoá đói giảm nghèo. Đối với những vùng kinh tế kém phát triển của một quốc gia nếu không có sự hoạt động của các DNNN với tư cách là những động lực tì việc phát triển kinh tế, xoá dần sự cách biệt về nghèo đói khó có thể thực hiện được.
1.1.3. NHTM và tín dụng Ngân hàng
a. Khái niệm NHTM
Ngân hàng bắt nguồn từ một công việc rất đơn giản là giữ các đồ vật quý cho những người sở hữu nó tránh mất mát, đổi lại người chủ sở hữu phải trả cho người cầm giữ hộ một khoản tiền công. Khi xã hội phát triển, thương mại phát triển, nhu cầu về tiền ngày càng lớn thì ngân hàng trở thành nơi giữ tiền cho những người có tiền và cung cấp tiền cho những người cần tiền. Ngân hàng là một định chế tài chính trung gian, sẽ huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội và dùng chính tiền đó cho các cá nhân và tổ chức vay lại, và rất hiếm khi có tình trạng cùng một lúc tất cả chủ tiền gửi đến đòi nợ ngân hàng, đó chính là nguyên tắc cơ bản đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng. Căn cứ vào chức năng, ngân hàng được chia làm hai loại: ngân hàng thương mại và ngân hàng Nhà nước.
Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan thiếu. Hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm mục đích kinh doanh một hàng hóa đặc biệt đó là "vốn- tiền", trả lãi suất huy động vốn thấp hơn lãi suất cho vay vốn, và phần chênh lệch lãi suất đó chính là lợi nhuận của ngân hàng thương mại.. Hoạt động của ngân hàng thương mại phục vụ cho mọi nhu cầu về vốn của mọi tầng lớp dân chúng, loại hình doanh nghiệp và các tổ chức khác trong xã hội.
Tại các nước đang phát triển như Việt Nam, ngân hàng thương mại thực sự đóng một vai trò rất quan trọng, vì nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu (dòng vốn) của nền kinh tế được lưu thông và có vậy mới góp phần bôi trơn cho hoạt động của một nền kinh tế thị trường còn non yếu. Năm 2005-2006 Việt Nam đã tích cực đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá các ngân hàng thương mại Nhà nước với mục đích quan trọng nhất là nâng cao năng lực tài chính của các tổ chức này. Tính đến tháng 2-2007 đã có 34 ngân hàng thương mại hoàn tất việc cổ phần hóa với tổng số vốn điều lệ trên 21.000 tỷ đồng .
b. Tín dụng Ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa hai chủ thể trong đó có sự chuyển giao tạm thời một lượng giá trị từ chủ thể này sang chủ thể khác theo các điều kiện mà hai bên đã thoả thuận. Như vậy, trong quan hệ này đối tượng của sự chuyển nhượng có thể dưới hình thức hiện vật, hàng hoá hoặc tiền tệ, điều kiện mà hai bên thoả thuận bao gồm khối lượng giá trị được chuyển nhượng, thời hạn sử dụng của người vay, thu nhập mà người cho vay được hưởng và những điều kiện khác ràng buộc về nghĩa vụ hoàn trả của người đi vay.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa m