Bất kỳmột doanh nghiệp nào muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình cần phải có m ột lượng vốn tiền tệnhất định. Đây có thểcoi là
một tiền đềcần thiết cho việc hình thành và phát triển hoạt động sản xuất kinh
doanh của một doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp hiện nay hoạt động kinh doanh trong điều kiện của nền
kinh tếmở, với xu thếquốc tếhoá ngày càng cao, sựkinh doanh trên thịtrường
ngày càng mạnh mẽ. Do vậy nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh, cho đầu tư
phát triển ngày càng lớn. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải huy động cao độ
không những nguồn vốn bên trong mà phải tìm cách huy động nguồn vốn bên
ngoài, đồng thời phải bảo đảm sửdụng vốn một cách có hiệu quảnhằm đáp ứng
với nhu cầu đầu tưvà phát triển, trên cơsởtôn trọng các nguyên tắc tài chính,
tín dụng.
Cùng với sự đổi mới của nền kinh tế đất nước, với chủtrương phát triển
nền kinh tếnhiều thành phần, có sựquản lý vĩmô của Nhà nước theo định
hướng XHCN. Các doanh nghiệp lúc này được quyền tựchủtrong hoạt động
sản xuất kinh doanh, tựchủbảo đảm vốn, đồng thời có trách nhiệm bảo toàn
vốn của mình. Nhờ đó, nhiều doanh nghiệp đã thích nghi kịp thời với tình hình
mới, hiệu quảsản xuất kinh doanh tăng lên rõ rệt. Nhưng, bên cạnh đó có không
ít các doanh nghiệp lúng túng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, làm ăn thua
lỗ, kéo dài, doanh thu không đủbù chi phí bỏra, không bảo toàn được vốn dẫn
tới phá sản. Thực tếnày là do nhiều nguyên nhân, một trong các nguyên nhân
quan trọng là công tác tổchức và sửdụng vốn của doanh nghiệp còn nhiều hạn
chế, hiệu quảsửdụng vốn còn quá thấp.
Xuất phát từvấn đềthực tiễn bức thiết đặt ra cho các doanh nghiệp hiện
nay là phải xác định và đáp ứng được nhu cầu vốn thường xuyên, cần thiết, tối
thiểu, phải xác định được doanh nghiệp mình hiện nay đang thừa hay thiếu vốn,
hiệu quảsửdụng vốn ra sao? Các giải pháp nào cần thực hiện đểnâng cao hiệu
quảsửdụng vốn của doanh nghiệp mình. Đây là vấn đềnóng bỏng có tính thời
sựkhông những được các nhà quản lý doanh nghiệp quan tâm mà còn thu hút
được sựchú ý của các nhà đầu tưtrong lĩnh vực tài chính vào doanh nghiệp.
Qua thời gian thực tập tại công ty Vật liệu xây dựng Cầu Đuống được sự
giúp đỡtận tình của thầy giáo hướng dẫn và ban lãnh đạo công ty, cùng với
những kiến thức, lý luận đã được trang bịtrong Nhà trường em đã từng bước
vận dụng vào tìm hiểu tình hình thực tếcủa công ty Vật liệu xây dựng Cầu
Đuống, đồng thời từnhững thực tế đó bổxung và rút ra kinh nghiệm quý báu
cho bản thân. Qua đó càng thấy rõ được tầm quan trọng và bức thiết của vấn đề
quản lý và nâng cao hiệu quảsửdụng vốn của các doanh nghiệp nói chung và
của công ty Vật liệu xây dựng Cầu Đuống nói riêng. Em đã mạnh dạn đi sâu tìm
hiểu nghiên cứu vấn đề:
"Giải pháp nâng cao hiệu quảsửdụng vốn
tại công ty Vật liệu xây dựng Cầu Đuống - SởXây dựng Hà Nội"
Chuyên đề được kết cấu thành 3 chương:
Chương I:Vốn và hiệu quảsửdụng vốn của doanh nghiệp trong cơ
chếthịtrường.
Chương II:Thực trạng hiệu quảsửdụng vốn tại công ty Vật liệu
xây dựng Cầu Đuống.
Chương III:Giải pháp nâng cao hiệu quảsửdụng vốn tại công ty Vật
liệu xây dựng Cầu Đuống.
65 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2238 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty vật liệu xây dựng Cầu Đuống - Sở xây dựng Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Lời nói đầu
Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình cần phải có một lượng vốn tiền tệ nhất định. Đây có thể coi là
một tiền đề cần thiết cho việc hình thành và phát triển hoạt động sản xuất kinh
doanh của một doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp hiện nay hoạt động kinh doanh trong điều kiện của nền
kinh tế mở, với xu thế quốc tế hoá ngày càng cao, sự kinh doanh trên thị trường
ngày càng mạnh mẽ. Do vậy nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh, cho đầu tư
phát triển ngày càng lớn. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải huy động cao độ
không những nguồn vốn bên trong mà phải tìm cách huy động nguồn vốn bên
ngoài, đồng thời phải bảo đảm sử dụng vốn một cách có hiệu quả nhằm đáp ứng
với nhu cầu đầu tư và phát triển, trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tài chính,
tín dụng.
Cùng với sự đổi mới của nền kinh tế đất nước, với chủ trương phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần, có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định
hướng XHCN. Các doanh nghiệp lúc này được quyền tự chủ trong hoạt động
sản xuất kinh doanh, tự chủ bảo đảm vốn, đồng thời có trách nhiệm bảo toàn
vốn của mình. Nhờ đó, nhiều doanh nghiệp đã thích nghi kịp thời với tình hình
mới, hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng lên rõ rệt. Nhưng, bên cạnh đó có không
ít các doanh nghiệp lúng túng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, làm ăn thua
lỗ, kéo dài, doanh thu không đủ bù chi phí bỏ ra, không bảo toàn được vốn dẫn
tới phá sản. Thực tế này là do nhiều nguyên nhân, một trong các nguyên nhân
quan trọng là công tác tổ chức và sử dụng vốn của doanh nghiệp còn nhiều hạn
chế, hiệu quả sử dụng vốn còn quá thấp.
Xuất phát từ vấn đề thực tiễn bức thiết đặt ra cho các doanh nghiệp hiện
nay là phải xác định và đáp ứng được nhu cầu vốn thường xuyên, cần thiết, tối
thiểu, phải xác định được doanh nghiệp mình hiện nay đang thừa hay thiếu vốn,
hiệu quả sử dụng vốn ra sao? Các giải pháp nào cần thực hiện để nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn của doanh nghiệp mình. Đây là vấn đề nóng bỏng có tính thời
sự không những được các nhà quản lý doanh nghiệp quan tâm mà còn thu hút
được sự chú ý của các nhà đầu tư trong lĩnh vực tài chính vào doanh nghiệp.
2
Qua thời gian thực tập tại công ty Vật liệu xây dựng Cầu Đuống được sự
giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn và ban lãnh đạo công ty, cùng với
những kiến thức, lý luận đã được trang bị trong Nhà trường em đã từng bước
vận dụng vào tìm hiểu tình hình thực tế của công ty Vật liệu xây dựng Cầu
Đuống, đồng thời từ những thực tế đó bổ xung và rút ra kinh nghiệm quý báu
cho bản thân. Qua đó càng thấy rõ được tầm quan trọng và bức thiết của vấn đề
quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp nói chung và
của công ty Vật liệu xây dựng Cầu Đuống nói riêng. Em đã mạnh dạn đi sâu tìm
hiểu nghiên cứu vấn đề:
"Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
tại công ty Vật liệu xây dựng Cầu Đuống - Sở Xây dựng Hà Nội"
Chuyên đề được kết cấu thành 3 chương:
Chương I: Vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong cơ
chế thị trường.
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Vật liệu
xây dựng Cầu Đuống.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Vật
liệu xây dựng Cầu Đuống.
3
Chương I
VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
I. VỐN VÀ VAI TRÒ CỦA VỐN ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP
1. Khái niệm về vốn:
* Theo quan điểm của Marx, vốn (tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng dư,
là một đầu vào của quá trình sản xuất.
* Theo các nhà kinh tế học hiện đại: Vốn là biểu hiện bằng tiền, là giá trị
của tài sản mà doanh nghiệp đang nắm giữ. Vốn và tài sản là hai mặt giá trị và
hiện vật của một bộ phận nguồn lực sản xuất mà doanh nghiệp huy động vào
quá trình sản xuất kinh doanh của mình.
* Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vốn được quan niệm là toàn bộ
những giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh
nghiệp.
Như vậy, vốn là yếu tố số một của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, nó
đòi hỏi các doanh nghiệp phải quản lý và sử dụng có hiệu quả để bảo toàn và
phát triển vốn, đảm bảo cho doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh. Vì vậy các
doanh nghiệp cần thiết phải nhận thức đầy đủ hơn về vốn cũng như những đặc
trưng của vốn.
2. Các đặc trưng cơ bản của vốn.
- Vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định: Có nghĩa là vốn được
biểu hiện bằng giá trị của tài sản hữu hình và tài sản vô hình của doanh nghiệp.
- Vốn phải vận động sinh lời, đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Vốn phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định mới có thể
phát huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
- Vốn có giá trị về mặt thời gian.
4
- Vốn phải được gắn liền với chủ sở hữu nhất định, không thể có đồng vốn
vô chủ.
- Vốn được quan niệm như một hàng hoá và là một hàng hoá đặc biệt có
thể mua bán quyền sử dụng vốn trên thị trường.
3. Phân loại vốn
Trong quá trình sản xuất kinh doanh để quản lý và sử dụng vốn một cách
có hiệu quả các doanh nghiệp đều tiến hành phân loại vốn.
Tuỳ vào mục đích và loại hình của từng doanh nghiệp mà mỗi doanh
nghiệp phân loại vốn theo các tiêu thức khác nhau.
3.1. Phân loại vốn theo nguồn hình thành.
3.1.1. Vốn chủ sở hữu
a. Vốn pháp định:
Vốn pháp định là số vốn tối thiểu phải có để thành lập doanh nghiệp do
pháp luật quy định đối với từng ngành nghề. Đối với doanh nghiệp Nhà nước,
nguồn vốn này do ngân sách Nhà nước cấp hoặc có nguồn gốc từ ngân sách Nhà
nước.
b. Vốn tự bổ xung:
Vốn tự bổ xung là vốn chủ yếu do doanh nghiệp được lấy một phần từ lợi
nhuận để lại doanh nghiệp, nó được thực hiện dưới hình thức lấy một phần từ
quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính. Ngoài ra, đối với doanh nghiệp
Nhà nước còn được để lại toàn bộ khấu hao cơ bản tài sản cố định để đầu tư,
thay thế, đổi mới tài sản cố định. Đây là nguồn tự tài trợ cho nhu cầu vốn của
doanh nghiệp.
3.1.2. Vốn huy động của doanh nghiệp.
Đối với một doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường, vốn chủ
sở hữu có vai trò rất quan trọng nhưng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn
vốn. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh doanh nghiệp phải tăng
cường huy động các nguồn vốn khác dưới hình thức vay nợ, liên doanh liên kết,
phát hành trái phiếu và các hình thức khác.
a. Vốn vay:
5
Doanh nghiệp có thể vay ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các cá nhân, đơn
vị kinh tế để tạo lập hoặc tăng thêm nguồn vốn.
* Vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng rất quan trọng đối với các
doanh nghiệp. Nguồn vốn này đáp ứng đúng thời điểm các khoản tín dụng ngắn
hạn và dài hạn tùy theo nhu cầu của doanh nghiệp trên cơ sở các hợp đồng tín
dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp.
* Vốn vay trên thị trường chứng khoán:
Doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu, đây là một công cụ tài chính
quan trọng dễ sử dụng vào mục đích vay dài hạn đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất
kinh doanh. Việc phát hành trái phiếu cho phép doanh nghiệp có thể thu hút
rộng rãi số tiền nhàn rỗi trong xã hội để mở rộng hoạt động kinh doanh của
mình.
b. Vốn liên doanh liên kết:
Doanh nghiệp có thể liên doanh, liên kết, hợp tác với doanh nghiệp khác để
huy động thực hiện mở rộng hoạt động sản xuất - kinh doanh.
c. Vốn tín dụng thương mại:
Tín dụng thương mại là các khoản mục chịu từ người cung cấp hoặc ứng
trước của khách hàng mà doanh nghiệp tạm thời chiếm dụng. Đây là phương
thức tài trợ tiện lợi, linh hoạt trong kinh doanh và nó còn tạo khả năng mở rộng
các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Tuy nhiên các khoản tín dụng
thương mại thường có thời hạn ngắn nhưng nếu doanh nghiệp biết quản lý một
cách có khoa học có thể đáp ứng phần nào nhu cầu vốn lưu động cho doanh
nghiệp.
d. Vốn tín dụng thuê mua:
Đây là phương thức tài trợ thông qua hợp đồng thuê giữa người thuê và
người cho thuê. Người thuê được sử dụng tài sản và phải trả tiền cho người cho
thuê theo thời hạn mà hai bên thoả thuận, người cho thuê là người sở hữu tài sản
và nhận được tiền cho thuê tài sản.
Tín dụng thuê mua có hai phương thức giao dịch chủ yếu là thuê vận hành
và thuê tài chính.
* Thuê vận hành:
6
Phương thức thuê vận hành hay còn gọi là thuê hoạt động là một hình thức
thuê ngắn hạn tài sản.
* Thuê tài chính:
Thuê tài chính là một phương thức tài trợ tín dụng trung hạn và dài hạn
theo hợp đồng. Theo phương thức này, người cho thuê thường mua tài sản, thiết
bị mà người thuê cần và đã thương lượng từ trước các điều kiện mua tài sản từ
người cho thuê.
Trên đây là cách phân loại vốn theo nguồn hình thành, nó là cơ sở để doanh
nghiệp lựa chọn nguồn tài trợ phù hợp theo loại hình sở hữu, ngành nghề kinh
doanh, quy mô, trình độ quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật cũng như chiến lược
phát triển và chiến lược đầu tư của doanh nghiệp. Bên cạnh đó đối với việc quản
lý vốn ở doanh nghiệp trọng tâm cần đề cập là hoạt động luân chuyển của vốn,
sự ảnh hưởng qua lại của các hình thái khác nhau của tài sản và hiệu quả quay
vòng vốn. Do đó doanh nghiệp cần phân loại vốn theo phương thức chu chuyển.
3.2. Phân loại vốn theo phương thức chu chuyển.
3.2.1. Vốn cố định của doanh nghiệp
Trong doanh nghiệp việc mua sắm hay lắp đặt các tài sản cố định đều phải
thanh toán chi trả bằng tiền. Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay
lắp đặt tài sản cố định hữu hình hay vô hình gọi là vốn cố định của doanh
nghiệp. Nói cách khác, vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn
đầu tư ứng trước về tài sản cố định của doanh nghiệp. Số vốn này nếu được sử
dụng có hiệu quả sẽ không mất đi, doanh nghiệp sẽ thu hồi lại được sau khi tiêu
thụ sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ của mình. Quy mô của vốn cố định nhiều
hay ít sẽ qui định đến quy mô của tài sản cố định, ngược lại những đặc điểm vận
động của tài sản cố định trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định,
chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển vốn cố định.
Đặc thù về sự vận động của vốn cố định trong quá trình sản xuất kinh doanh:
- Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm. Có đặc điểm
này là do tài sản cố định tham gia trực tiếp hay gián tiếp và phát huy tác dụng
trong nhiều chu kỳ sản xuất. Vì vậy vốn cố định là hình thái biểu hiện bằng tiền
của tài sản cố định cùng tham gia vào các chu kỳ tương ứng.
- Vốn cố định được luân chuyển giá trị dần dần từng phần trong các chu kỳ
sản xuất. Khi tham gia vào quá trình sản xuất tài sản cố định không bị thay đổi
7
hình thái hiện vật ban đầu nhưng tính năng và công suất của nó bị giảm dần tức
là nó bị hao mòn và cùng với sự giảm dần về giá trị sử dụng thì giá trị của nó
cũng bị giảm đi theo đó, vốn cố định được tách thành hai bộ phận:
+ Bộ phận thứ nhất tương ứng với phần hao mòn của tài sản cố định được
luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm dưới hình thức chi phí khấu
hao và được tích luỹ thành quỹ khấu hao, sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu
thụ, quỹ khấu hao này sẽ được sử dụng để tái sản xuất tài sản cố định nhằm duy
trì năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
+ Bộ phận thứ hai đó chính là phần còn lại của vốn cố định được gọi là giá
trị còn lại của tài sản cố định.
Sau mỗi một chu kỳ sản xuất phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản
phẩm dần tăng lên, song phần vốn đầu tư ban đầu vào tài sản cố định lại dần
giảm xuống tương ứng với mức giảm dần giá trị sử dụng của tài sản cố định. Kết
thúc quá trình vận động đó cũng là lúc tài sản cố định hết thời gian sử dụng giá
trị của nó được dịch chuyển hết vào giá trị sản phẩm đã sản xuất, và khi đó vốn
cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Trong các doanh nghiệp, vốn cố định là bộ phận quan trọng và chiếm tỷ
trọng tương đối lớn trong vốn đầu tư nói riêng, vốn sản xuất kinh doanh nói
chung. Do ở một vị trí then chốt và đặc điểm luân chuyển của nó lại tuân theo
quy luật riêng, nên việc quản lý vốn cố định đòi hỏi phải luôn gắn liền với việc
quản lý hình thái hiện vật của nó là các tài sản cố định vì điều này sẽ có ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Bên cạnh các tư liệu lao động mà bộ phận quan trọng nhất là tài sản cố định
để tiến hành sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp còn cần có các đối tượng lao
động. Khác với tư liệu lao động, các đối tượng lao động chỉ tham gia vào một
chu kỳ sản xuất và không giữ nguyên hình thái hiện vật ban đầu, giá trị của nó
được dịch chuyển toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm.
Vậy nếu xét về hình thái hiện vật thì các đối tượng lao động trên gọi là các
tài sản lưu động, còn về hình thái giá trị thì được gọi là vốn lưu động của doanh
nghiệp.
3.2.2. Vốn lưu động của doanh nghiệp
Vốn lưu động của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn sản xuất kinh
doanh ứng trước về tài sản lưu động sản xuất và nó nhằm đảm bảo cho quá trình
8
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành một cách thường xuyên liên
tục.
Là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động, nên đặc điểm vận động của
vốn lưu động luôn chịu sự chi phối bởi những đặc điểm của tài sản lưu động.
Trong các doanh nghiệp tài sản lưu động bao gồm các loại nguyên nhiên vật
liệu, phụ tùng thay thế, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang,... đang trong quá
trình dự trữ sản xuất hoặc chế biến còn tài sản lưu động ở khâu lưu thông bao
gồm các sản phẩm, thành phẩm chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, các tài
khoản vốn trong thanh toán, các khoản chi phí chờ kết chuyển, chi phí trả
trước,... Trong quá trình sản xuất kinh doanh các tài sản lưu động luôn vận động
thay thế hoặc đổi chỗ cho nhau đảm bảo cho quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh được tiến hành thuận lợi.
Khác với tài sản cố định trong quá trình sản xuất kinh doanh tài sản lưu
động của doanh nghiệp luôn luôn thay đổi hình thái biểu hiện để tạo ra sản phẩm
hàng hoá và do đó phù hợp với đặc điểm của tài sản lưu động, vốn lưu động của
doanh nghiệp cũng không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh
doanh: dự trữ sản xuất, sản xuất và lưu thông. Quá trình này được diễn ra liên
tục và thường xuyên lặp lại theo chu kỳ và được gọi là quá trình tuần hoàn của
vốn lưu động.
Trong quá trình vận động luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần,
qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh, vốn lưu động lại thay đổi hình thái
biểu hiện từ hình thái tiền tệ ban đầu chuyển sang vốn hình thái vật tư hàng hoá
dự trữ. Qua giai đoạn sản xuất, vật tư được đưa vào chế tạo thành các bán thành
phẩm và thành phẩm sau khi sản phẩm được liên tục, vốn lưu động lại trở về
hình thái tiền tệ như điểm xuất phát ban đầu của nó. Sau mỗi chu kỳ tái sản xuất,
vốn lưu động mới hoàn thành một vòng chu chuyển. Có thể thấy, trong cùng
một lúc vốn lưu động của doanh nghiệp được phân bố trên khắp các giai đoạn
luân chuyển và chuyển hoá hình thái của vốn trong quá trình luân chuyển được
thuận lợi doanh nghiệp phải có đủ vốn lưu động đầu tư vào các hình thái khác
nhau.
4. Vai trò của vốn đối với các doanh nghiệp
Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh dù với bất kỳ quy mô nào cũng
cần phải có một lượng vốn nhất định, nó là điều kiện tiền đề cho sự ra đời và
phát triển của các doanh nghiệp.
9
* Về mặt pháp lý: Mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện đầu
tiên doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó tối thiểu phải
bằng lượng vốn pháp định, khi đó địa vị pháp lý của doanh nghiệp mới được xác
lập. Trường hợp trong quá trình hoạt động kinh doanh, vốn của doanh nghiệp
không đạt điều kiện mà pháp luật qui định doanh nghiệp sẽ bị tuyên bố chấm dứt
hoạt động như phá sản, giải thể, sát nhập,... Như vậy vốn có thể được xem là
một trong những cơ sở quan trọng nhất để đảm bảo sự tồn tại tư cách pháp nhân
của một doanh nghiệp trước pháp luật.
* Về kinh tế: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là một trong những
yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp. Vốn không
những đảm bảo khả năng mua sắm máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ để
phục vụ cho quá trình sản xuất mà còn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh
doanh diễn ra thường xuyên, liên tục.
Vốn là yếu tố quan trọng quyết định đến năng lực sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Điều này
càng thể hiện rõ trong nền kinh tế thị trường hiện nay với sự cạnh tranh ngày
càng gay gắt, các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đầu
tư hiện đại hoá công nghệ,... tất cả những yếu tố này muốn thành đạt được thì
đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đủ lớn.
Vốn cũng là yếu tố quyết định đến việc mở rộng phạm vi hoạt động của
doanh nghiệp. Để có thể tiến hành tái sản xuất mở rộng thì sau một chu kỳ kinh
doanh vốn của doanh nghiệp phải sinh lời tức là hoạt động kinh doanh phải có
lãi đảm bảo vốn của doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển. Đó là cơ sở để
doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mở rộng phạm vi sản xuất, thâm nhập vào thị
trường tiềm năng từ đó mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao uy tín của doanh
nghiệp trên thương trường.
Nhận thức được vai trò quan trọng của vốn như vậy thì doanh nghiệp mới
có thể sử dụng vốn tiết kiệm, có hiệu quả hơn và luôn tìm cách nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn.
II. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
1. Quan điểm về hiệu quả sử dụng vốn.
Để đánh giá trình độ quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của
mỗi doanh nghiệp, người ta sử dụng thước đo là hiệu quả sản xuất kinh doanh
10
của doanh nghiệp đó. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá trên hai giác
độ: Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Trong phạm vi quản lý doanh nghiệp,
người ta chủ yếu quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Đây là một phạm trù kinh tế
phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả
cao nhất với chi phí hợp lý nhất. Do vậy các nguồn lực kinh tế đặc biệt là nguồn
vốn của doanh nghiệp có tác động rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Vì thế việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu mang tính
thường xuyên và bắt buộc đối với doanh nghiệp. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
sẽ giúp ta thấy được hiệu quả của hoạt động kinh doanh nói chung và quản lý sử
dụng vốn nói riêng.
Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh
trình độ khai thác, sử dụng và quản lý nguồn vốn làm cho đồng vốn sinh lời tối
đa nhằm mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản của
chủ sở hữu.
Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hoá thông qua hệ thống các chỉ tiêu về
khả năng hoạt động, khả năng sinh lời, tốc độ luân chuyển vốn,... Nó phản ánh
quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua
thước đo tiền tệ hay cụ thể là mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí
bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Kết quả thu được càng cao so
với chi phí vốn bỏ ra thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn có hai phương pháp để phân tích tài
chính cũng như phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp đó là phương
pháp so sánh và phương pháp phân tích tỷ lệ.
* Phương pháp so sánh:
Để áp dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện so sánh
được của các chỉ tiêu tài chính (thống nhất về không gian, thời gian, nội dung,
tính chất và đơn vị hạch toán,...) và theo mục đích phân tích để chọn gốc so
sánh. Gốc so sánh được chọn là gốc về thời gian hoặc không gian, kỳ phân tích
được chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được chọn là số
tuyệt đối, số tương đói, hoặc số bình quân.
* Phương pháp tỷ lệ:
Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài
chính trong các quan hệ tài chính. Sự biến đổi các tỷ lệ cố nhiên là sự biến đổi
của các đại lượng tài chính. Về nguyên tắc phương pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác
11
định được các ngưỡng, các định mức để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính
của doanh nghiệp, trên c