1. Lý do lựa chọn đề tài
Để thực hiện đề án cơ cấu lại hệ thống NHTM QD và hệ thống NHTM CP theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ năm 2001. Cùng với việc trở thành thành viên thứ 150 của Việt Nam trong ngôi nhà chung WTO ngày 07/11/2006 đến nay các NHTM Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp để hoàn thành tốt đề án của Thủ tướng Chính phủ, các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của mình như: tăng vốn điều lệ, cơ cấu lại nợ, làm sạch bảng cân đối, đổi mới công tác quản trị, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đầu tư công nghệ .Bên cạnh đó, sự xâm nhập ngày càng sâu rộng của ngân hàng nước ngoài vào thị trường Việt Nam, cũng như những cam kết về mở cửa khu vực ngân hàng trong tiến trình hội nhập ngày một gần kề đã làm cho cuộc cạnh tranh giữa các NHTM tại Việt Nam ngày càng trở nên gây gắt và khốc liệt hơn.
Ngân Hàng Phát Triển Nhà Tp. Hồ Chí Minh (HDBank) cũng không nằm ngoài chủ trương và xu thế đó. HDBank dù đã có những lợi thế trong cạnh tranh so với các NHTM khác. Thế nhưng, HDBank cũng còn tồn tại không ít những yếu kém, cũng như đang phải đối mặt với những khó khăn và thách thức phía trước. Để tận dụng tốt những lợi thế của mình trên cơ sở xác định những điểm yếu, lợi dụng cơ hội mà WTO mang lại để vượt qua những thách thức.
Em đã chọn đề tài “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân Hàng Phát Triển Nhà Tp. Hồ Chí Minh (HDBank)” để nghiên cứu là đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của HDBank trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu
-Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của NHTM, các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh và các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của một NHTM.
- Phân tích và đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của HDBank từ đó đánh giá năng lực cạnh tranh của Ngân Hàng Phát Triển Nhà Tp. Hồ Chí Minh
-Đề ra các giải pháp và kiến nghị nhằm năng cao năng lực cạnh tranh của Ngân Hàng Phát Triển Nhà Tp. Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập.
3. Nội dung nghiên cứu
-Những lý luận cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của ngân hang thương mại
-Xu thế cạnh tranh của các NHTM và thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân Hàng Phát Triển Nhà Tp. Hồ Chí Minh giai đọan 2005_ 2008
-Giải pháp và những kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân Hàng Phát Triển Nhà Tp. Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu: Hoạt động của Ngân Hàng Phát Triển Nhà Tp. Hồ Chí Minh
-Phạm vi thời gian: Thực trạng của HDBank 2005-2008
Giải pháp của HDBank 20090-2010
-Đối tượng nghiên cứu: chuyên đề nghiên cứu kết quả hoạt động của HDBank TP. Hồ Chí Minh
80 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2716 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng phát triển nhà TP Hồ Chí Minh (HDBank), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
***
1. Lý do lựa chọn đề tài
Để thực hiện đề án cơ cấu lại hệ thống NHTM QD và hệ thống NHTM CP theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ năm 2001. Cùng với việc trở thành thành viên thứ 150 của Việt Nam trong ngôi nhà chung WTO ngày 07/11/2006 đến nay các NHTM Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp để hoàn thành tốt đề án của Thủ tướng Chính phủ, các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của mình như: tăng vốn điều lệ, cơ cấu lại nợ, làm sạch bảng cân đối, đổi mới công tác quản trị, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đầu tư công nghệ….Bên cạnh đó, sự xâm nhập ngày càng sâu rộng của ngân hàng nước ngoài vào thị trường Việt Nam, cũng như những cam kết về mở cửa khu vực ngân hàng trong tiến trình hội nhập ngày một gần kề đã làm cho cuộc cạnh tranh giữa các NHTM tại Việt Nam ngày càng trở nên gây gắt và khốc liệt hơn.
Ngân Hàng Phát Triển Nhà Tp. Hồ Chí Minh (HDBank) cũng không nằm ngoài chủ trương và xu thế đó. HDBank dù đã có những lợi thế trong cạnh tranh so với các NHTM khác. Thế nhưng, HDBank cũng còn tồn tại không ít những yếu kém, cũng như đang phải đối mặt với những khó khăn và thách thức phía trước. Để tận dụng tốt những lợi thế của mình trên cơ sở xác định những điểm yếu, lợi dụng cơ hội mà WTO mang lại để vượt qua những thách thức.
Em đã chọn đề tài “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân Hàng Phát Triển Nhà Tp. Hồ Chí Minh (HDBank)” để nghiên cứu là đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của HDBank trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu
-Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của NHTM, các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh và các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của một NHTM.
- Phân tích và đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của HDBank từ đó đánh giá năng lực cạnh tranh của Ngân Hàng Phát Triển Nhà Tp. Hồ Chí Minh
-Đề ra các giải pháp và kiến nghị nhằm năng cao năng lực cạnh tranh của Ngân Hàng Phát Triển Nhà Tp. Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập.
3. Nội dung nghiên cứu
-Những lý luận cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của ngân hang thương mại
-Xu thế cạnh tranh của các NHTM và thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân Hàng Phát Triển Nhà Tp. Hồ Chí Minh giai đọan 2005_ 2008
-Giải pháp và những kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân Hàng Phát Triển Nhà Tp. Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu: Hoạt động của Ngân Hàng Phát Triển Nhà Tp. Hồ Chí Minh
-Phạm vi thời gian: Thực trạng của HDBank 2005-2008
Giải pháp của HDBank 20090-2010
-Đối tượng nghiên cứu: chuyên đề nghiên cứu kết quả hoạt động của HDBank TP. Hồ Chí Minh
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Trang
Biểu đồ 1: Tăng trưởng vốn huy động của HDBank 2006-2008 25
Bảng 1: Vốn huy động của HDBank có từ các nguồn 26
Bảng 2 : Nguồn vốn của HDBank theo kỳ hạn huy động 29
Bảng 3: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo các loại tiền 31
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Tiếng Việt
HDBank : Ngân hàng thương mại cổ phần phát triển nhà TP.Hồ Chí Minh
BHXH : Bảo hiểm xã hội
CSTT : Chính sách tiền tệ
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHTM : Ngân hàng Thương mại
TCTC : Tổ chức tài chính
TCTD : Tổ chức tín dụng
Tiếng Anh
ATM : Máy rút tiền tự động
FDI : Vốn đầu tư trực tiếp
WTO : Tổ chức Thương mại Thế giới
WB : Ngân hàng Thế giới
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CẠNH TRANH CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Các khái niệm
1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh
Trong Thế kỷ XX, nhiều lý thuyết cạnh tranh hiện đại ra đời như lý thuyết của Micheal Porter, J.B.Barney, P.Krugman…v.v.. Trong đó, phải kể đến lý thuyết “lợi thế cạnh tranh” của Micheal Porter, ông giải thích hiện tượng khi doanh nghiệp tham gia cạnh tranh thương mại quốc tế cần phải có “lợi thế cạnh tranh” và “ lợi thế so sánh”. Ông phân tích lợi thế cạnh tranh tức là sức mạnh nội sinh của doanh nghiệp, của quốc gia, còn lợi thế so sánh là điều kiện tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, môi trường tạo cho doanh nghiệp, quốc gia thuận lợi trong sản xuất cũng nhưng trong thương mại. Ông cho rằng lợi thế cạnh tranh và lợi thế so sánh có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau, lợi thế cạnh tranh phát triển dựa trên lợi thế so sánh, lợi thế so sánh phát huy nhờ lợi thế cạnh tranh.
Qua quan điểm của lý thuyết cạnh tranh trên cho thấy, cạnh tranh không phải là sự triệt tiêu lẫn nhau của các chủ thể tham gia, mà cạnh tranh là động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp. Cạnh tranh góp phần cho sự tiến bộ của khoa học, cạnh tranh giúp cho các chủ thể tham gia biết qúy trọng hơn những cơ hội và lợi thế mà mình có được, cạnh tranh mang lại sự phồn thịnh cho đất nước..
Thông qua cạnh tranh, các chủ thể tham gia xác định cho mình những điểm mạnh, điểm yếu cùng với những cơ hội và thách thức trước mắt và trong tương lai, để từ đó có những hướng đi có lợi nhất cho mình khi tham gia vào quá trình cạnh tranh.Vậy cạnh tranh là sự tranh đua giữa những cá nhân, tập thể, đơn vị kinh tế có chức năng như nhau thông qua các hành động, nỗ lực và các biện pháp để giành phần thắng trong cuộc đua, để thỏa mãn các mục tiêu của mình. Các mục tiêu này có thể là thị phần, lợi nhuận, hiệu quả, an toàn, danh tiếng….
Tuy nhiên, không phải tất cả các hành vi cạnh tranh là lành mạnh, hoàn hảo và nó giúp cho các chủ thể tham gia đạt được tất cả những gì mình mong muốn. Trong thực tế, để có lợi thế trong kinh doanh các chủ thể tham gia đã sử dụng những hành vi cạnh tranh không lành mạnh để làm tổn hại đến đối thủ tham gia cạnh tranh với mình. Cạnh tranh không mang ý nghĩa triệt tiêu lẫn nhau, nhưng kết quả của cạnh tranh mang lại là hoàn toàn trái ngược.
1.1.2 Khái niệm về năng lực cạnh tranh
Thuật ngữ “năng lực cạnh tranh” đã được sử dụng từ lâu. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về thuật ngữ này. Khái niệm năng lực cạnh tranh được đề cập đầu tiên ở Mỹ vào đầu những năm 1990. Theo Aldington Report (1985): “Doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh là doanh nghiệp có thể sản xuất sản phẩm và dịch vụ với chất lượng vượt trội và giá cả thấp hơn các đối thủ khác trong nước và quốc tế. Khả năng cạnh tranh đồng nghĩa với việc đạt được lợi ích lâu dài của doanh nghiệp và khả năng bảo đảm thu nhập cho người lao động và chủ doanh nghiệp”. Định nghĩa này cũng được nhắc lại trong “Sách trắng về năng lực cạnh tranh của Vương quốc Anh” (1994). Năm 1998, Bộ thương mại và Công nghiệp Anh đưa ra định nghĩa “Đối với doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh là khả năng sản xuất đúng sản phẩm, xác định đúng giá cả và vào đúng thời điểm. Điều đó có nghĩa là đáp ứng nhu cầu khách hàng với hiệu suất và hiệu quả hơn các doanh nghiệp khác”
Từ những quan điểm trên cùng với quan điểm của Michael Porter, về cơ bản có thể hiểu năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng đáp ứng và chống chọi lại các đối thủ trong cung cấp sản phẩm một cách lâu dài và có lợi nhuận. Một doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh khi nó có một số các ưu thế khác biệt so với đối thủ của nó.
1.2 Các đặc thù trong cạnh tranh của NHTM
NHTM cũng là một loại hình doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của NHTM là: khả năng duy trì một cách có ý thức trên thị trường, trên cơ sở thiết lập mối quan hệ bền vững với khách hàng để đạt được những mục tiêu phát triển mà ngân hàng đã đề ra (lợi nhuận, chống lại sức ép của các lực lượng cạnh tranh...)
Cần phải hiểu trong lĩnh vực ngân hàng, cạnh tranh không phải là đối đầu, chiến thắng tuyệt đối đối thủ của mình mà cạnh tranh là để hợp tác và phát triển. Bởi chỉ cần một NHTM trong hệ thống lung lay, sụp đổ cũng làm ảnh hưởng đến các NHTM khác thậm chí dẫn đến sụp đổ hàng loạt.Chính vì vậy, cạnh tranh của các ngân hàng thương mại có các đặc thù sau:
Thứ nhất, lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng có liên quan trực tiếp đến tất cả các ngành, các mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Do đó:
NHTM cần có hệ thống sản phẩm đa dạng, mạng lưới chi nhánh rộng và liên thông với nhau để phục vụ mọi đối tượng khách hàng và ở bất kỳ vị trí địa lý nào.
NHTM phải xây dựng được uy tín, tạo được sự tin tưởng đối với khách hàng vì bất kỳ một sự khó khăn nào của NHTM cũng có thể dẫn đến sự suy sụp của nhiều chủ thể có liên quan.
Thứ hai, lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng là dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ có liên quan đến tiền tệ. Đây là một lĩnh vực nhạy cảm nên năng lực của đội ngũ nhân viên ngân hàng là yếu tố quan trọng nhất thể hiện chất lượng của sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Yêu cầu đối với đội ngũ nhân viên ngân hàng là phải tạo được sự tin tưởng với khách hàng bằng kiến thức, phong cách chuyên nghiệp, sự am hiểu nghiệp vụ, khả năng tư vấn và đôi khi cả yếu tố hình thể. Dịch vụ của ngân hàng phải nhanh chóng, chính xác, thuận tiện, bảo mật và đặc biệt quan trọng là có tính an toàn cao đòi hỏi ngân hàng phải có cơ sở hạ tầng vững chắc, hệ thống công nghệ hiện đại. Hơn nữa, số lượng thông tin, dữ liệu của khách hàng là cực kỳ lớn nên yêu cầu NHTM phải có hệ thống lưu trữ, quản lý toàn bộ các thông tin này một cách đầy đủ mà vẫn có khả năng truy xuất một cách dễ dàng.
Năng lực của đội ngũ nhân viên ngân hàng là yếu tố quan trọng nhất thể hiện chất lượng của sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Yêu cầu đối với đội ngũ nhân viên ngân hàng là phải tạo được sự tin tưởng với khách hàng bằng kiến thức, phong cách chuyên nghiệp, sự am hiểu nghiệp vụ, khả năng tư vấn và đôi khi cả yếu tố hình thể.
Dịch vụ của ngân hàng phải nhanh chóng, chính xác, thuận tiện, bảo mật và đặc biệt quan trọng là có tính an toàn cao đòi hỏi ngân hàng phải có cơ sở hạ tầng vững chắc, hệ thống công nghệ hiện đại. Hơn nữa, số lượng thông tin, dữ liệu của khách hàng là cực kỳ lớn nên yêu cầu NHTM phải có hệ thống lưu trữ, quản lý toàn bộ các thông tin này một cách đầy đủ mà vẫn có khả năng truy xuất một cách dễ dàng.
Ngoài ra, do dịch vụ tiền tệ ngân hàng có tính nhạy cảm nên để tạo được sự tin tưởng của khách hàng chọn lựa sử dụng dịch vụ của mình, ngân hàng phải xây dựng được uy tín và gia tăng giá trị thương hiệu theo thời gian.
Thứ ba, để thực hiện kinh doanh tiền tệ, NHTM phải đóng vai trò tổ chức trung gian huy động vốn trong xã hội. Nguồn vốn để kinh doanh của ngân hàng chủ yếu từ vốn huy động được và chỉ một phần từ vốn tự có của ngân hàng. Do đó yêu cầu ngân hàng phải có trình độ quản lý chuyên nghiệp, năng lực tài chính vững mạnh cũng như có khả năng kiểm soát và phòng ngừa rủi ro hữu hiệu để đảm bảo kinh doanh an toàn, hiệu quả.
-Cuối cùng, chất liệu kinh doanh của ngân hàng là tiền tệ, mà tiền tệ là một công cụ được Nhà nước sử dụng để quản lý vĩ mô nền kinh tế. Do đó, chất liệu này được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ. Hoạt động kinh doanh của NHTMngòai tuân thủ các quy định chung của pháp luật còn chịu sự chi phối bởi hệ thống luật pháp riêng cho NHTM và chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.
1.3 Các tiêu chí để đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM
Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi. Thực tế, rất nhiều tổ chức tài chính - bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác.
Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ mà các ngân hàng cung cấp. Theo quan điểm của các nhà kinh tế hiện đại: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Ở Việt Nam, theo Luật các tổ chức tín dụng, ngân hàng là: “loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”, mà trong đó tổ chức tín dụng là “doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Các tiêu chí để đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM được thể hiện qua các yếu tố sau:
1.3.1 Năng lực tài chính:
Về mặt lý thuyết, vốn điều lệ và vốn tự có đang đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động ngân hàng. Vốn điều lệ cao sẽ giúp ngân hàng tạo được uy tín trên thị trường và tạo lòng tin nơi công chúng. Vốn tự có thấp đồng nghĩa với sức mạnh tài chính yếu và khả năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng thấp. Theo qui định của Ủy ban Bassel, vốn tự có của NHTM phải đạt tối thiểu 8% trên tổng tài sản có rủi ro chuyển đổi của ngân hàng đó. Đó là điều kiện đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.3.2. Khả năng huy động vốn
Huy động vốn là một trong những hoạt động tạo vốn quan trọng hàng đầu của các ngân hàng thương mại. Với chức năng và nhiệm vụ của mình, các ngân hàng thương mại đã thu hút, tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng của các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư vào ngân hàng. Mặt khác, trên cơ sở nguồn vốn huy động được, ngân hàng sẽ tiến hành hoạt động cho vay phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất, cho các mục tiêu phát triển kinh tế của vùng, ngành kinh tế, các thành phần kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn của xã hội, nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Với hoạt động huy động vốn, các ngân hàng thương mại đã thực sự huy động được sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế vào quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá. Nếu như không có ngân hàng thương mại, việc huy động của cải xã hội vào quá trình sản xuất kinh doanh, tiêu dùng sẽ chậm đi rất nhiều. Nhờ hoạt động này của ngân hàng thương mại, tiền tiết kiệm của cá nhân, đoàn thể, các tổ chức kinh tế được huy động vào quá trình vận động của nền kinh tế. Nó chuyển của cải, tài nguyên xã hội từ nơi chưa sử dụng, còn tiềm tàng vào quá trình sử dụng phục vụ cho sản xuất kinh doanh nâng cao mức sống xã hội.
Hoạt động huy động vốn của ngân hàng ngày càng mở rộng, uy tín và vị thế của ngân hàng sẽ càng được khẳng định, ngân hàng sẽ chủ động trong hoạt động kinh doanh, mở rộng quan hệ với các thành phần kinh tế, tổ chức, dân cư. Điều quan trọng là ngân hàng cần phải căn cứ vào chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế của từng vùng, từng ngành trong cả nước,… để từ đó đưa ra các loại hình huy động vốn phù hợp, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM:
NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà mục đích là tìm kiếm lợi nhuận, với điều kiện là phải đảm bảo tính thanh khoản cao và an toàn hoạt động của mình. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào nguồn vốn. Nguồn vốn có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
* Vốn đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì các hoạt động và đảm bảo khả năng phát triển lâu dài của ngân hàng.
Vốn đóng vai trò là cơ sở nền tảng giúp chống lại rủi ro phá sản, vì vốn được sử dụng để trang trải những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ cho tới khi ban lãnh đạo ngân hàng có thể tập trung giải quyết các vấn đề và đưa ngân hàng trở lại hoạt động sinh lời.
Vốn là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy phép tổ chức và hoạt động. Một ngân hàng mới thành lập luôn cần vốn ban đầu để mua đất, xây dựng cơ sở hạ tầng, trang bị những điều kiện làm việc, thuê nhân viên thậm chí ngay cả trước ngày hoạt động chính thức.
Vốn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển các hình thức dịch vụ mới, cho những chương trình và trang thiết bị mới. Khi một ngân hàng phát triển, nó cần vốn bổ sung để thúc đẩy tăng trưởng và chấp nhận rủi ro gắn với sự ra đời những dịch vụ mới và những trang thiết bị mới. Hầu hết các ngân hàng đều mở rộng và phát triển cơ sở vật chất so với lúc đầu, và sự bổ sung vốn sẽ cho phép ngân hàng mở rộng trụ sở, xây dựng thêm những văn phòng chi nhánh để theo kịp với sự phát triển của thị trường và tăng cường chất lượng phục vụ khách hàng.
Vốn còn được xem như một phương tiện điều tiết sự tăng trưởng, giúp đảm bảo sự tăng trưởng của một ngân hàng có thể được duy trì ổn định, lâu dài. Các cơ quan quản lý đều đòi hỏi rằng vốn ngân hàng cần phải được phát triển tương ứng với sự tăng trưởng của danh mục cho vay và của những tài sản rủi ro khác. Luật pháp các nước quy định mức tổng tài sản tối đa ngân hàng có thể có so với vốn chủ sở hữu, hoặc hạn chế khả năng huy động tiền gửi, khả năng hùn vốn, mua chứng khoán công ty của một ngân hàng trên cơ sở nguồn vốn tự có của nó.
* Nguồn vốn có quan hệ với rủi ro thanh khoản của ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản là loại rủi ro xảy ra khi ngân hàng không còn đủ tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng hay cho vay bằng tiền mặt. Trong trường hợp ngân hàng không thể tăng nguồn tiền mặt kịp thời để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, nó có thể sẽ mất niềm tin của khách hàng, khách hàng rút tiền và chuyển sang gửi tại ngân hàng khác, do đó yêu cầu quản lý rủi ro thanh khoản là sức ép rất lớn đối với các NHTM.
Ngày nay, việc cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh ngân hàng ngày một gia tăng, các khách hàng có rất nhiều cơ hội lựa chọn ngân hàng họ gửi tiền hay quan hệ giao dịch lâu dài, do đó các ngân hàng phải quản lý các thành phần nguồn vốn chặt chẽ hơn. Nguồn vốn ngắn hạn của ngân hàng thường rất nhạy cảm với lãi suất, khả năng xuất hiện các dòng tiền ra lớn nên rủi ro về thanh toán là rất lớn, vì vậy các ngân hàng cạnh tranh với nhau để có được nguồn vốn có kỳ hạn dài và ổn định.
* Nguồn vốn ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của ngân hàng.
Sự thay đổi trong cơ cấu và chi phí nguồn vốn có ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của ngân hàng. Một ngân hàng có nguồn vốn lớn sẽ dễ dàng đáp ứng được nhu cầu tín dụng của khách hàng, danh mục tài sản đầu tư cũng đa dạng hơn, do đó phân tán được rủi ro hơn so với các ngân hàng có vốn nhỏ. Ngân hàng có nguồn vốn huy động trung dài hạn lớn sẽ cho vay được các dự án lớn, thời gian dài, do đó các khoản cho vay trung, dài hạn với khách hàng có khả năng cao hơn các ngân hàng khác, tạo cho ngân hàng nguồn thu lớn từ lãi cho vay. Như vậy, quy mô, cơ cấu của các loại tài sản đầu tư của ngân hàng được xác định một phần căn cứ vào quy mô, cơ cấu nguồn vốn của nó.
Mặt khác, sự ổn định về chi phí và thời hạn của nguồn vốn quy định số tiền phải dự trữ, là cơ sở để cân nhắc đầu tư bao nhiêu vào chứng khoán ngắn hạn, nên cho vay với thời hạn nào, lãi suất bao nhiêu để phù hợp với nguồn vốn. Những ngân hàng có nguồn vốn với chi phí gia tăng do phải đi vay để bù đắp khoản tiền gửi bị rút ra, không thể ấn định lãi suất cho vay cao hơn một cách tương ứng đối với các khoản tín dụng tốt. Dẫn đến hiện tượng chênh lệch lãi suất đầu vào - đầu ra xấu đi. Thay vì việc chênh lệch lãi suất xấu đi, một số ngân hàng thực hiện cho vay với lãi suất cạnh tranh cho những khách hàng, những dự án đáng tin cậy hơn. Điều đó cho phép ngân hàng thu được lợi nhuận mong đợi, song rủi ro tín dụng gia tăng do chất lượng tài sản bị sụt giảm.
* Nguồn vốn ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng.
Tài sản mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng, còn nguồn vốn liên quan tới chi phí chủ yếu của ngân hàng, chi phí trả lãi. Quy mô huy động càng tăng, tài sản càng tăng, khả năng sinh lời có thể càng lớn hoặc ngược lại. Nếu dùng chỉ tiêu chênh lệch thu, chi từ lãi để đo mối liên hệ sinh lời giữa nguồn vốn và tài sản, thì sinh lời tăng khi lãi suất bình quân của tài sản phải lớn hơn lãi suất bình quân của nguồn vốn. Do đó, khi nguồn vốn gia tăng với quy mô và cấu trúc nhất định, cần được phân bổ thành các tài sản sinh lời thích hợp. Việc gia tăng cho vay và đầu tư với mức rủi ro thấp chính là điều kiện để gia tăng sinh lời.
Ngân hàng có thể theo đuổi lãi suất huy động cao để tìm kiếm các nguồn tiền với quy mô lớn kéo theo phải cho vay với lãi suất cao, ho