Tính tất yếu của đề tài
Được biết đến là một cường quốc kinh tế hàng đầu trên thế giới. Với dân số đông, diện tích địa lý trải rộng, môi trường đa văn hoá, đa chủng tộc. Kim ngạch nhập khẩu hàng năm lên tới 1750 tỷ USD chiếm 20% tổng kim ngạch nhập khẩu toàn thế giới. Thị trường Hoa Kỳ thực sự hấp dẫn với bất kì doanh nghiệp nào: Thu nhập Quốc dân GDP luôn duy trì ở mức cao, thu nhập bình quân đầu người cao, nhu cầu tiêu dùng đối với các loại hàng hoá là rất đa dạng – Đây là thị trường khổng lồ đối với các loại hàng hoá mà trong đó chứa đựng hầu hết các loại hàng hoá Việt Nam có thể xuất khẩu.
Việt Nam là quốc gia đang bước trên tiến trình hội nhập Kinh tế quốc tế, chủ trương phát triển kinh tế theo đuổi chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, đa dạng hoá thị trường cũng như mặt hàng xuất khẩu. Và Hoa Kỳ là thị trường có tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược phát triển xuất khẩu của Việt Nam. Quan hệ Việt - Hoa Kỳ đã được chính thức bình thường hoá từ năm 1995. Sau hơn mười năm tái thiết lập quan hê, việc bình thường hoá đã khép lại quá khứ và mở ra tương lai có lợi cho cả hai bên. Thực tế là kim ngạch xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ đã tăng nhanh chóng qua các năm và tính đến tháng 2/2007 Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu của Việt Nam với kim ngạch là 1.339.565 nghìn USD tăng 35.41% so với cùng kì năm 2006. Năm 2006 đã đánh dấu bước phát triển cao hơn trong quan hệ hai nước khi quy chế PNTR cho Việt Nam đã được Hoa Kỳ thông qua. Bên cạnh đó do tác động của BTA mang lại, hàng hoá Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ được cạnh tranh bình đẳng hơn, mức thuế áp dụng đối với các mặt hàng nhập khẩu của ta đã giảm xuống khiến cho sự cạnh tranh về giá cả phát huy được hiệu quả, Tuy nhiên, trong quan hệ thương mại với các đối tác Hoa Kỳ, doanh nghiệp Việt Nam vẫn gặp nhiều khó khăn khi quy mô của các doanh nghiệp nội địa là nhỏ trong khi nhu cầu thị trường là lớn, các đơn đặt hàng từ phía Hoa Kỳ thường yêu cầu với số lượng lớn, thời gian giao hàng nhanh, điều này là vượt quá khả năng của doanh nghiệp. Những trở ngại trong hàng rào phi thuế quan của Hoa Kỳ (Việc ban hành thuế chống bán phá giá đối với hàng dệt may đang được xem xét); tính phức tạp trong hệ thống luật pháp Hoa Kỳ, cạnh tranh của hàng hoá Trung quốc,. đang tạo ra những rào cho xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ.
Năm 2006 là dấu mốc quan trọng khi Việt Nam trở thành thành viên WTO, thị trường được mở rộng cùng với mức độ cạnh tranh gay gắt hơn buộc các doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực hết mình để có thể cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài. Đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập mới, doanh nghiệp Việt Nam vừa đạt được mục tiêu chiếm lĩnh thị trường, vừa gia tăng sự ảnh hưởng trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ, mặt khác chúng ta có thể tiếp cận được những công nghệ hiện đại, những nguồn lực kỹ thuật quan trọng cần thiết cho phát triển kinh tế nội địa.
Trong điều kiện mới hiện nay, để có được một vị trí ổn định vững chắc cũng như đẩy mạnh hơn nữa việc xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, phía Nhà nước, các doanh nghiệp và cả nền kinh tế còn phải làm rất nhiều việc. Từ những vấn đề đó, em đã chọn: “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”
Chuyên đề gồm có 3 Chương chính:
Chương 1: Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa và sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Đối tượng nghiên cứu
Thị trường Hoa Kỳ với nhu cầu tiêu dùng, môi trường văn hoá kinh doanh, các đối tác Hoa Kỳ, các quy định đối với hàng hoá nhập khẩu vào thị trường này, và hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường này.
Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ từ khi hai nước chính thức bình thường hoá quan hệ thương mại từ năm 1995 đến nay.
Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, nghiên cứu các số liệu thống kê và những phân tích thực tế những vấn đề liên quan, kết hợp với phân tích dự báo
73 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1862 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Tính tất yếu của đề tài
Được biết đến là một cường quốc kinh tế hàng đầu trên thế giới. Với dân số đông, diện tích địa lý trải rộng, môi trường đa văn hoá, đa chủng tộc. Kim ngạch nhập khẩu hàng năm lên tới 1750 tỷ USD chiếm ( 20% tổng kim ngạch nhập khẩu toàn thế giới. Thị trường Hoa Kỳ thực sự hấp dẫn với bất kì doanh nghiệp nào: Thu nhập Quốc dân GDP luôn duy trì ở mức cao, thu nhập bình quân đầu người cao, nhu cầu tiêu dùng đối với các loại hàng hoá là rất đa dạng – Đây là thị trường khổng lồ đối với các loại hàng hoá mà trong đó chứa đựng hầu hết các loại hàng hoá Việt Nam có thể xuất khẩu.
Việt Nam là quốc gia đang bước trên tiến trình hội nhập Kinh tế quốc tế, chủ trương phát triển kinh tế theo đuổi chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, đa dạng hoá thị trường cũng như mặt hàng xuất khẩu. Và Hoa Kỳ là thị trường có tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược phát triển xuất khẩu của Việt Nam. Quan hệ Việt - Hoa Kỳ đã được chính thức bình thường hoá từ năm 1995. Sau hơn mười năm tái thiết lập quan hê, việc bình thường hoá đã khép lại quá khứ và mở ra tương lai có lợi cho cả hai bên. Thực tế là kim ngạch xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ đã tăng nhanh chóng qua các năm và tính đến tháng 2/2007 Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu của Việt Nam với kim ngạch là 1.339.565 nghìn USD tăng 35.41% so với cùng kì năm 2006. Năm 2006 đã đánh dấu bước phát triển cao hơn trong quan hệ hai nước khi quy chế PNTR cho Việt Nam đã được Hoa Kỳ thông qua. Bên cạnh đó do tác động của BTA mang lại, hàng hoá Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ được cạnh tranh bình đẳng hơn, mức thuế áp dụng đối với các mặt hàng nhập khẩu của ta đã giảm xuống khiến cho sự cạnh tranh về giá cả phát huy được hiệu quả,…Tuy nhiên, trong quan hệ thương mại với các đối tác Hoa Kỳ, doanh nghiệp Việt Nam vẫn gặp nhiều khó khăn khi quy mô của các doanh nghiệp nội địa là nhỏ trong khi nhu cầu thị trường là lớn, các đơn đặt hàng từ phía Hoa Kỳ thường yêu cầu với số lượng lớn, thời gian giao hàng nhanh, điều này là vượt quá khả năng của doanh nghiệp. Những trở ngại trong hàng rào phi thuế quan của Hoa Kỳ (Việc ban hành thuế chống bán phá giá đối với hàng dệt may đang được xem xét); tính phức tạp trong hệ thống luật pháp Hoa Kỳ, cạnh tranh của hàng hoá Trung quốc,.. đang tạo ra những rào cho xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ.
Năm 2006 là dấu mốc quan trọng khi Việt Nam trở thành thành viên WTO, thị trường được mở rộng cùng với mức độ cạnh tranh gay gắt hơn buộc các doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực hết mình để có thể cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài. Đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập mới, doanh nghiệp Việt Nam vừa đạt được mục tiêu chiếm lĩnh thị trường, vừa gia tăng sự ảnh hưởng trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ, mặt khác chúng ta có thể tiếp cận được những công nghệ hiện đại, những nguồn lực kỹ thuật quan trọng cần thiết cho phát triển kinh tế nội địa.
Trong điều kiện mới hiện nay, để có được một vị trí ổn định vững chắc cũng như đẩy mạnh hơn nữa việc xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, phía Nhà nước, các doanh nghiệp và cả nền kinh tế còn phải làm rất nhiều việc. Từ những vấn đề đó, em đã chọn: “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”
Chuyên đề gồm có 3 Chương chính:
Chương 1: Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa và sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Đối tượng nghiên cứu
Thị trường Hoa Kỳ với nhu cầu tiêu dùng, môi trường văn hoá kinh doanh, các đối tác Hoa Kỳ, các quy định đối với hàng hoá nhập khẩu vào thị trường này,…và hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường này.
Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ từ khi hai nước chính thức bình thường hoá quan hệ thương mại từ năm 1995 đến nay.
Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, nghiên cứu các số liệu thống kê và những phân tích thực tế những vấn đề liên quan, kết hợp với phân tích dự báo
Chương 1: Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa
và sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa
1.1.1.Khái niệm và vai trò
1.1.1.1.Khái niệm
Thế giới đã bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên hội nhập và phát triển. Để thành công trong nền kinh tế toàn cầu này đòi hỏi các quốc gia cũng như các nhà kinh doanh phải hiểu rõ về kinh doanh quốc tế. Kinh doanh quốc tế là một lĩnh vực rộng lớn liên quan đến nhiều vấn đề: con người, văn hóa, kinh tế, chính trị và nhiều yếu tố khác liên quan đến môi trường xung quanh mà chủ thể trực tiếp của các hoạt động này là các công ty kinh doanh trên trường quốc tế, thực hiện giao dịch buôn bán với nhau. Trên thực tế các công ty có thể tiến hành giao dịch với nhau qua nhiều hình thức nhưng phổ biến nhất là thông qua hoạt động xuất nhập khẩu.
Một cách cơ bản nhất có thể định nghĩa: Xuất khẩu là hoạt động đưa hàng hóa dịch vụ từ quốc gia này sang quốc gia khác.
Trong chiến lược kinh doanh quốc tế, doanh nghiệp cần xác định được một trong những yếu tố quan trọng mang lại thành công cho chiến lược của mình đó là cách thức thâm nhập thị trường. Xuất khẩu được đánh giá là hình thức thâm nhập thị trường ít rủi ro với chi phí thấp so với các hình thức khác. Nếu xét dưới góc độ kinh doanh thì xuất khẩu là việc bán hàng hóa dịch vụ từ quốc gia này sang quốc gia khác, còn xét dưới góc độ phi kinh doanh (quà tặng, viện trợ) thì hoạt động xuất khẩu là việc lưu chuyển hàng hóa dịch vụ qua biên giới một quốc gia.
1.1.1.2.Vai trò của xuất khẩu
Thứ nhất, xuất khẩu để tạo ra nguồn vốn quan trọng thỏa mãn nhu cầu nhập khẩu và tích lũy sản xuất nhằm phục vụ đắc lực cho quá trình công nghiệp hóa đất nước. Trong hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia luôn diễn ra đồng thời hai hoạt động cơ bản là xuất khẩu và nhập khẩu, xuất khẩu luôn đi kèm nhập khẩu, hai mặt không thể tách rời nhau trong một quan hệ gắn bó hỗ trợ lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, nhập khẩu là mục đích còn xuất khẩu là phương tiện để đạt được mục đích đó. Mọi hoạt động xuất khẩu đều hướng tới cái đích cuối cùng là bán được nhiều nhất các loại hàng hóa dịch vụ mà quốc gia mình có khả năng để thu được một lượng ngoại tệ phục vụ trở lại cho việc nhập khẩu các thiết bị, công nghệ hiện đại, các dịch vụ, các mặt hàng mà quốc gia mình còn thiếu vừa để phục vụ nhu cầu tiêu dùng vừa để sản xuất đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế.
Thứ hai, xuất khẩu là yếu tố quan trọng để kích thích tăng trưởng kinh tế. Đẩy mạnh xuất khẩu chính là việc tạo điều kiện thuận lợi để bán được nhiều nhất những hàng hóa mà một quốc gia có lợi thế. Khi doanh số bán hàng tăng lên, lượng hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài nhiều hơn, nó sẽ tác động trở lại, đó là nhu cầu mở rộng sản xuất, đẩy nhanh quá trình tạo ra sản phẩm, quy mô sản xuất của từng mặt hàng, từng ngành nghề lĩnh vực cũng như quy mô toàn bộ nền kinh tế được mở rộng, khi đó xuất hiện hiệu ứng tính kinh tế nhờ quy mô. Khi quy mô sản xuất phát triển sẽ kéo theo sự ra đời của nhiều ngành hàng mới vừa để bổ trợ cho các ngành xuất khẩu chính, vừa để khai thác những tiềm năng của đất nước, GDP của nền kinh tế không ngừng được tăng lên, quốc gia đạt được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định.
Thứ ba, xuất khẩu kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất. Xuất khẩu tăng, nhu cầu thị trường đối với sản phẩm nhiều hơn, doanh nghiệp khi đó phải tìm cách để nâng cao năng suất lao động sao cho tạo ra nhiều sản phẩm nhất có thể. Cách thức nhanh chóng và hiệu quả nhất để thực hiện mục tiêu đó là cải tiến các trang thiết bị máy móc, cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như hoàn thiện dần quy trình sản xuất. Ngược lại, khi hoạt động xuất khẩu luôn duy trì ở mức cao tức là lượng hàng hóa bán ra liên tục tăng, làm tăng doanh số bán hàng, lợi nhuận tăng lên, khi đó doanh nghiệp có nhiều điều kiện để quan tâm, đầu tư nhiều hơn vào việc hiện đại hóa dây chuyền sản xuất của mình.
Thứ tư, xuất khẩu tác động mạnh tới cơ cấu kinh tế của toàn bộ nền kinh tế cũng như tác động tới cơ cấu của ngành theo hướng sử dụng có hiệu quả nhất lợi thế so sánh. Mỗi quốc gia đều có những ưu thế nhất định về một hoặc một vài chủng loại sản phẩm. Trong thương mại quốc tế, các quốc gia luôn phải cạnh tranh với nhau vì thế để thu được lợi ích cao nhất buộc mỗi quốc gia phải tìm một hướng đi đúng cho mình, phải tìm kiếm và khai thác tối đa những thế mạnh của riêng mình. Khi đã biết được mình có điểm mạnh gì, các quốc gia sẽ chuyên biệt hóa, đầu tư nhiều hơn tới việc phát triển thế mạnh của mình, nghĩa là cơ cầu của nền kinh tế dần chuyển đổi theo hướng ưu tiên cho các ngành, các mặt hàng mang lại giá trị và hiệu quả kinh tế tốt hơn.
Thứ năm, xuất khẩu có tác động tích cực và trực tiếp tới việc nâng cao mức sống của người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo. Khi kim ngạch xuất khẩu của một mặt hàng, ngành hàng nào đó không ngừng tăng lên, quy mô sản xuất của ngành đó sẽ được mở rộng. Sản xuất mở rộng, nhu cầu về lao động tăng, số lượng việc làm nhiều hơn, điều đó đồng nghĩa là sẽ có thêm một bộ phận lao động trong xã hội có việc làm, thu nhập người dân ổn định hơn, cuộc sống của họ được đảm bảo, khi đó họ sẽ có nhiều điều kiện để nâng cao điều kiện sống cho gia đình, tỷ lệ đói nghèo sẽ dần giảm bớt.
Thứ sáu, xuất khẩu giúp mở rộng và làm sâu sắc thêm các mối quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia với nhau. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại lẫn nhau: xuất khẩu là một trong những lĩnh vực của kinh tế đối ngoại, xuất khẩu có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển như quan hệ về tín dụng, quan hệ đầu tư, quan hệ vận tải…Xuất khẩu tạo tiền đề cho hợp tác quốc tế trong những lĩnh vực này, ngược lại khi quan hệ quốc tế của những lĩnh vực này tốt đẹp sẽ kích thích cho xuất khẩu trao đổi buôn bán giữa các quốc gia phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Xét một cách tổng thể, trong quá trình phát triển của một quốc gia không thể không có hoạt động thương mại quốc tế, đó là mối quan hệ vừa hợp tác vừa cạnh tranh lẫn nhau và trong cuộc cạnh tranh đó, quốc gia nào cũng muốn và cố gắng đến tối đa để hoạt động xuất khẩu mang lại hiệu quả cao nhất. Chỉ khi xuất khẩu phát triển, quốc gia mới có điều kiện để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và một phần cho tích lũy, điều đó có nghĩa là, xuất khẩu là chìa khóa quan trọng để phát triển kinh tế và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.1.2.Các hình thức xuất khẩu
Trong thương mại quốc tế, xuất khẩu của một quốc gia thường diễn ra dưới hai hình thức cơ bản là xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu gián tiếp. Đây là hai hình thức, đồng thời cũng là hai công cụ chủ yếu được các chủ thể kinh tế sử dụng trong quá trình thâm nhập thị trường nước ngoài qua con đường xuất khẩu hàng hóa.
1.1.2.1.Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hoạt động bán hàng trực tiếp của một chủ thể kinh tế cho các khách hàng của mình ở thị trường nước ngoài. Hình thức này thường được các công ty có kinh nghiệm quốc tế sử dụng, khách hàng của họ không chỉ đơn thuần là người tiêu dùng mà bao gồm tất cả những đối tượng có nhu cầu, đã, đang và sẽ tiêu dùng sản phẩm của công ty. Xuất khẩu trực tiếp thường được tiến hành qua hai hình thức cơ bản:
Đại diện bán hàng
Đại diện bán hàng là hình thức bán hàng không mang danh nghĩa của mình mà lấy danh nghĩa của người ủy thác nhằm nhận lương và một phần hoa hồng trên cơ sở giá trị của khối lượng hàng hóa bán được. Xét về bản chất, hoạt động của đại diện bán hàng chính là hoạt động của nhân viên bán hàng của công ty ở thị trường nước ngoài, thông qua hình thức này công ty sẽ tiến hành ký kết các hợp đồng trực tiếp với khách hàng tại thị trường mà người đại diện bán hàng đang hiện diện.
Đại lý phân phối
Đại diện phân phối là người đứng ra mua hàng của công ty để bán theo kênh tiêu thụ tại khu vực đã được quy định. Theo hình thức này, công ty là người khống chế phạm vi giới hạn hoạt động của người phân phối đồng thời đặt hoạt động của các kênh phân phối này trong sự kiểm soát của mình. Mặc dù nằm dưới sự kiểm soát của công ty ủy thác nhưng đại lý phân phối phải chịu trách nhiệm, chấp nhận toàn bộ rủi ro liên quan đến việc bán hàng của công ty ủy thác trên thị trường đã được phân định và sẽ được hưởng phần lợi nhuận thu được từ chênh lệch giá mua và giá bán hàng hóa.
1.1.2.2.Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là hình thức bán hàng hóa, dịch vụ của công ty ra thị trường nước ngoài thông qua trung gian (qua người thứ ba). Nếu trong loại hình xuất khẩu trực tiếp thì người mua tìm tới người bán, người bán tìm gặp người mua, giữa hai bên tiến hành trao đổi gặp gỡ trao đổi thông tin hàng hóa cho nhau một cách trực tiếp thì trong loại hình xuất khẩu gián tiếp, việc thiết lập quan hệ người mua – người bán cũng như các điều kiện liên quan đến giao dịch mua bán hàng hóa được thực hiện thông qua người thứ ba được gọi là trung gian mua bán. Các trung gian mua bán này không chiếm hữu hàng hóa của người ủy thác mà chỉ đóng vai trò người trợ giúp, là cầu nối đưa hàng hóa của người xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Xuất khẩu gián tiếp có các hình thức chủ yếu sau:
Đại lý
Đại lý là tự nhiên nhân hay pháp nhân tiến hành một hoặc nhiều hành vi theo sự ủy thác của người ủy thác, quan hệ giữa người ủy thác và đại lý là quan hệ hợp đồng đại lý. Trên thực tế đại lý chỉ thực hiện một công việc nhất định nào đó cho người ủy thác và nhận được khoản thù lao của mình, đại lý không chiếm hữu và sở hữu hàng hóa mà chỉ là người thiết lập quan hệ hợp đồng giữa người xuất khẩu và khách hàng ở thị trường nước ngoài.
Công ty quản lý xuất khẩu
Là công ty nhận ủy thác và quản lý công tác xuất khẩu hàng hóa. Công ty quản lý xuất khẩu hoạt động dựa trên danh nghĩa của người ủy thác với chức năng cơ bản là thực hiện các hoạt động cũng như hoàn thiện các thủ tục xuất khẩu và thu phí dịch vụ xuất khẩu. Xét về bản chất, các công ty quản lý xuất khẩu là trung gian thực hiện các dịch vụ đại lý cho người ủy thác và nhận được một khoản thù lao định mức từ các hoạt động của mình.
c) Công ty kinh doanh xuất khẩu
Là loại hình công ty hoạt động như nhà phân phối độc lập với chức năng cơ bản là kết nối các khách hàng tại thị trường nước ngoài với công ty xuất khẩu của quốc gia mình, từ đó tạo điều kiện đưa các hàng hóa trong nước ra nước ngoài tiêu thụ. Hoạt động của các công ty kinh doanh xuất khẩu là thực hiện tất cả các hoạt động dịch vụ xuất khẩu từ những hoạt động trực tiếp liên quan đến xuất khẩu cho tới các hoạt động gián tiếp liên quan như thiết lập và mở rộng kênh phân phối, tài trợ cho các dự án thương mại và đầu tư cho tới trực tiếp tham gia một công đoạn sản xuất bổ trợ nào đó cho quá trình sản xuất sản phẩm…Trên thực tế, các công ty kinh doanh xuất khẩu đều là những công ty có tiềm lực và sự đảm bảo về tài chính cũng như có kinh nghiệm chuyên sâu về một mảng thị trường nào đó với những chuyên gia làm dịch vụ xuất khẩu. Chi phí hoạt động của công ty kinh doanh xuất khẩu là nguồn vốn của công ty và thu hồi lại từ các dịch vụ xuất khẩu mà công ty thực hiện.
d) Đại lý vận tải
Là các công ty thực hiện dịch vụ thuê vận chuyển và những hoạt động có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hóa: khai báo hải quan, áp biểu thuế quan, thực hiện giao nhận chuyên chở và bảo hiểm. Các đại lý vận tải cũng thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu và phát triển nhiều loại hình dịch vụ giao nhận đến tận tay người nhận. Khi các công ty xuất khẩu thông qua các đại lý vận tải hay các công ty chuyển phát hàng thì các đơn vị này cũng làm các dịch vụ xuất nhập khẩu liên quan đến hàng hóa của công ty. Như vây, thực chất hoạt động của các đại lý vận tải cũng chính là hoạt động của các công ty kinh doanh giao nhận vận chuyển và dịch vụ xuất nhập khẩu, thậm chí nó còn đi sâu hơn khi bao gồm cả dịch vụ bao gói hàng hóa cho phù hợp với phương thức vận chuyển và mua bảo hiểm cho hàng hóa xuất khẩu trong phạm vi hoạt động, quyền hạn của mình.
1.1.3.Nội dung xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu hàng hóa có hai khâu liên hệ mật thiết với nhau đó là thu mua, huy động hàng xuất khẩu từ các đơn vị kinh tế trong nước và tiến hành ký kết, thực hiện hợp đồng xuất khẩu với nước ngoài. Trong hai khâu đó, thu mua hàng xuất khẩu là tiền đề vật chất của xuất khẩu hàng hóa.
1.1.3.1.Thu mua, cung ứng hàng xuất khẩu
Khi doanh nghiệp tiến hành hoạt động xuất khẩu, trước hết doanh nghiệp phải có được nguồn hàng và phải biết được những quy định của Nhà nước đối với mặt hàng đó. Đối với các doanh nghiệp thương mại, để có nguồn hàng xuất khẩu doanh nghiệp phải tiến hành hoạt động thu mua. Để tổ chức tốt việc thu mua, bên cạnh việc quán triệt tốt quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về khuyến khích phát triển sản xuất hàng xuất khẩu thì doanh nghiệp còn phải làm tốt việc quản lý nguồn hàng xuất khẩu của mình một cách chủ động, có biện pháp phát triển nguồn hàng đó cũng như phương thức huy động thích hợp.
Đối với phân loại nguồn hàng xuất khẩu, có ba chỉ tiêu phân loại:
Thứ nhất theo chế độ phân cấp quản lý bao gồm nguồn hàng thuộc chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước và nguồn hàng ngoài kế hoạch
Thứ hai phân loại nguồn hàng theo đơn vị giao hàng gồm: từ các xí nghiệp, các cơ sở sản xuất, các hợp tác xã…
Thứ ba phân loại theo phạm vi phân công của đơn vị kinh doanh xuất khẩu bao gồm nguồn hàng trong địa phương và nguồn hàng ngoài địa phương.
Việc nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu, đây là công việc bắt buộc để doanh nghiệp có thể khai thác và phát triển nguồn hàng. Thông qua nghiên cứu nguồn hàng doanh nghiệp có thể nắm được khả năng cung cấp hàng xuất khẩu của từng đơn vị nguồn hàng đồng thời nó là cơ sở đảm bảo chắc chắn cho doanh nghiệp tiến hành ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Có hai phương pháp nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu:
Thứ nhất, lấy mặt hàng làm đơn vị nghiên cứu. Phương pháp này chủ yếu nghiên cứu tình hình và khả năng cung ứng cũng như tiêu thụ của một mặt hàng từ đó có quyết định kinh doanh xuất khẩu mặt hàng đó không.
Thứ hai, lấy cơ sở sản xuất làm đơn vị nghiên cứu. Theo phương pháp này người ta theo dõi năng lực sản xuất và cung ứng sản phẩm của từng cơ sở sản xuất thông qua các chỉ tiêu: số lượng và chất lượng hàng cung cấp hàng năm, giá thành, tình hình trang thiết bị, trình độ kỹ thuật, số lượng công nhân, trình độ tổ chức và quản lý.
1.1.3.2.Ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Với tư cách là doanh nghiệp ngoại thương kinh doanh hàng xuất khẩu, sau khi đã có được nguồn hàng xuất khẩu, doanh nghiệp tiến hành ký kết hợp đồng ngoại thương. Song song với ký hợp đồng ngoại, doanh nghiệp cũng phải tiến hành đồng thời việc lưu kho hàng xuất khẩu tiếp nhận từ các đơn vị nguồn hàng, việc lưu kho nhằm mục đích đóng gói bảo quản hàng hóa trong thời gian hoàn tất thủ tục xuất hàng và sau khi đã hoàn tất các thủ tục, trong thời gian thỏa thuận của hợp đồng, doanh nghiệp tiến hành xuất kho hàng hóa cho người nhập khẩu. Việc xuất hàng cho đối tác phải dựa trên cơ sở hợp đồng đã ký kết, người xuất khẩu phải có trách nhiệm đóng gói, phân lô phân loại, bảo đảm về số lượng và chất lượng hàng hóa cho đến khi làm biên bản giao nhận với người nhập khẩu, khi đó người xuất khẩu mới hết trách nhiệm.
Sau khi giao hàng, tùy theo thỏa thuận của hai bên mà hàng hóa có thể được bảo hành trong phạm nhất định của người xuất khẩu. Còn người nhập khẩu sau khi nhận hàng phải có trách nhiệm thanh toán đầy đủ tiền hàng cũng như những chi phí được hai bên thỏa thuận. Sau khoảng thời gian được quy định trong hợp đồng mà hai bên không có bất cứ khiếu kiện nào thì hoạt động xuất khẩu được thực hiện hoàn tất.
1.1.4.Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất kh