Hiện nay, việc giảng dạy giáo dục giới tính cho học sinh chưa được thực hiện rộng rãi và phổ biến ở các trường trung học cơ sở (THCS) mà chỉ trên cơ sở lồng ghép vào một số môn học như giáo dục công dân, sinh học, với thời lượng vô cùng ít ỏi (1-2 tiết).
Trong khi đó, ở lứa tuổi này, tâm - sinh lí các em đã có sự thay đổi lớn: cơ quan sinh sản của các em đã phát triển, bản năng sinh dục xuất hiện một cách vô ý thức, song song đó thì bộ não của các em cũng đã phát triển khá hoàn thiện, nảy sinh tình cảm với bạn khác giới. Các em thích tìm tòi, học hỏi những gì liên quan tới sự thay đổi của cơ thể mình. Nhưng kiến thức thì vô hạn, thông tin thì đa dạng, hàng ngày các em phải tiếp xúc với nhiều môi trường, làm nhiều công việc khác nhau, trong đó sẽ có cả điều tốt xen lẫn với điều xấu, điều cần có ở các em là những kiến thức và sự nhận thức đúng đắn để các em bước vào đời vững vàng, không đi vào con đường lạc lối để ảnh hưởng tới tương lai, vì thế tôi nhận thấy rằng việc giáo dục giới tính cho học sinh THCS là rất cần thiết đối với các em.
20 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 25923 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Giáo dục giới tính cho học sinh trung học cơ sở, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
LÍ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI
Khách quan
Hiện nay, việc giảng dạy giáo dục giới tính cho học sinh chưa được thực hiện rộng rãi và phổ biến ở các trường trung học cơ sở (THCS) mà chỉ trên cơ sở lồng ghép vào một số môn học như giáo dục công dân, sinh học,… với thời lượng vô cùng ít ỏi (1-2 tiết).
Trong khi đó, ở lứa tuổi này, tâm - sinh lí các em đã có sự thay đổi lớn: cơ quan sinh sản của các em đã phát triển, bản năng sinh dục xuất hiện một cách vô ý thức, song song đó thì bộ não của các em cũng đã phát triển khá hoàn thiện, nảy sinh tình cảm với bạn khác giới. Các em thích tìm tòi, học hỏi những gì liên quan tới sự thay đổi của cơ thể mình. Nhưng kiến thức thì vô hạn, thông tin thì đa dạng, hàng ngày các em phải tiếp xúc với nhiều môi trường, làm nhiều công việc khác nhau, trong đó sẽ có cả điều tốt xen lẫn với điều xấu, điều cần có ở các em là những kiến thức và sự nhận thức đúng đắn để các em bước vào đời vững vàng, không đi vào con đường lạc lối để ảnh hưởng tới tương lai, vì thế tôi nhận thấy rằng việc giáo dục giới tính cho học sinh THCS là rất cần thiết đối với các em.
Chủ quan
Bản thân tôi là một giáo viên trẻ, thời gian công tác tại trường chưa lâu. Tuy nhiên trong năm học vừa qua, tôi đã chứng kiến một học sinh phải bỏ học vì có thai và một học sinh khác phải nghỉ học vì gia đình ép lấy chồng. Có lẽ, nếu các em được giáo dục về giới tính thì những chuyện đáng tiếc trên đã không xảy ra. Mặt khác, ở vai trò một giáo viên dạy môn sinh học kiêm công tác chủ nhiệm, tôi đã nhận được nhiều câu hỏi rất ngây ngô của học sinh như: “Có phải em bé được sinh ra từ lỗ hậu môn của mẹ không?”, “Tại sao lại sinh ra pê-đê?” Hoặc: “Em yêu bạn ấy, lúc nào cũng nghĩ đến bạn ấy, em không thể học được. Vậy em phải làm sao?... Điều đó cho thấy một thực trạng là: Kiến thức về giới tính của học sinh còn quá nghèo nàn, ít ỏi. Do vậy, việc giáo dục giới tính và cách ứng xử trong giao tiếp với bạn khác giới cho học sinh THCS là một việc cần thiết và cấp bách.
ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
Thuận lợi :
- Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và đặc biệt là công nghệ thông tin..
- Kho tư liệu phục vụ cho việc viết và báo cáo đề tài đa dạng.
- Các em học sinh sắp sửa và đang ở độ tuổi trưởng thành (từ 11 đến 16 tuổi) nên nhận thức và giáo dục về vấn đề giới tính dễ dàng hơn.
- Đa số các em có điều kiện tiếp xúc, tìm hiếu những kiến thức về giới tính khá dễ dàng từ nhiều nguồn khác nhau.
Khó khăn :
- Giáo viên và học sinh còn khá e dè, xấu hổ khi đề đập đến nội dung giới tính.
- Chương trình giáo dục giới tính chưa được thực hiện phổ biến ở trường học nhất là bậc học THCS.
- Chương trình học ngày càng nặng về kiến thức nên đòi hỏi cả giáo viên và học sinh luôn phải tập trung vào chương trình học ở trường nên không có nhiều thời gian dành cho việc tìm hiểu kiến thức về giới tính.
- Nhiều bậc cha mẹ vẫn còn cho rằng: Giáo dục giới tính là chuyện tế nhị, không nên đưa vào trường học hay phổ biến rộng rãi, đó là hành động “vẽ đường cho hươu chạy”, đến lúc rồi các em sẽ tự biết.
NỘI DUNG
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cơ sở lý luận
Khái niệm giáo dục giới tính (GDGT)?
Theo định nghĩa của ngành y tế, giáo dục giới tính là một thuật ngữ rộng miêu tả việc giáo dục về giải phẫu sinh dục, sinh sản, quan hệ tình dục, sức khoẻ sinh sản, các quan hệ tình cảm, quyền sinh sản và các trách nhiệm, tránh thai, và các khía cạnh khác của thái độ tình dục loài người. Những cách giáo dục giới tính thông thường là thông qua cha mẹ, người chăm sóc, các chương trình trường học và các chiến dịch sức khoẻ cộng đồng.
Giáo dục giới tính giúp trẻ vị thành niên có một quan điểm tích cực về tình dục, đồng thời cung cấp các thông tin và kỹ năng để trẻ vị thành niên có được thái độ và hành vi đúng, hiểu biết và có trách nhiệm về những quyết định của mình. Các chương trình giáo dục giới tính cần sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Một số quan điểm lo ngại rằng nếu cung cấp cho trẻ vị thành niên những thông tin và giúp chúng phòng ngừa việc có thai và các bệnh lây truyền qua đường tình dục sẽ vô tình thúc đẩy trẻ có hoạt động tình dục sớm và bừa bãi. Tuy nhiên, thực tế thực hiện giáo dục giới tính ở nhiều nước cho thấy hoàn toàn ngược lại. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã khảo sát 19 chương trình giáo dục giới tính trường học ở nhiều nước, tất cả đều cho thấy trẻ vị thành niên có hoạt động tình dục trễ hơn, giảm hoạt động tình dục, biết cách sử dụng các biện pháp ngừa thai một cách hiệu quả, và hoàn toàn không thúc đẩy trẻ có hoạt động tình dục sớm và nhiều hơn. Giáo dục giới tính hiệu quả nhất khi thực hiện trước khi trẻ bước vào tuổi hoạt động tình dục. Các bước tích cực này sẽ giúp khuyến khích trẻ không hoạt động tình dục sớm và biết cách sinh hoạt tình dục một cách an toàn, giảm thiểu thai ngoài ý muốn ở các em.
Cuộc sống hoàn toàn không dễ dàng đối với trẻ vị thành niên, nhất là trong hoàn cảnh kinh tế xã hội hiện nay, đặc biệt đối với những trẻ không được chuẩn bị đầy đủ để đối mặt với các vấn đề đặc thù của lứa tuổi. Thực trạng hiện nay đã và đang cho thấy điều đó. Nếu chúng ta mong đợi trẻ vị thành niên những quyết định đúng đắn, có trách nhiệm trước những cạm bẫy và thách thức của xã hội, chúng ta phải đảm bảo trẻ vị thành niên được cung cấp đầy đủ thông tin, kỹ năng và phương tiện để quyết định và các giá trị chúng cần tôn trọng và thực hiện. Chúng ta cần nhận thức rằng đã đến lúc để đặt kế hoạch cho tương lai và chúng ta hoàn toàn có thể thực hiện được điều đó.
Giáo dục giới tính có sự khác biệt nào với giáo dục tình dục?
Mục tiêu của GDGT là chuẩn bị cho tuổi mới lớn về tâm lý trước phát triển sinh lý, về nhận thức để định hình nhân cách, tạo sức mạnh nội tâm đề kháng trước những bùng nổ giới tính của bản năng có thể gây hại cho bản thân, xung quanh.
Giáo dục những hiểu biết về tâm lý, sinh lý, vệ sinh tuổi dậy thì, những biến đổi và khác biệt về tính cách em trai em gái do các hocmon từ các tuyến sinh dục gây ra; giáo dục kỹ năng giao tiếp ứng xử trong quan hệ giữa bạn trai, bạn gái ở tuổi vị thành niên với cha mẹ, anh em trong gia đình; hiểu biết sâu sắc các giá trị của tình bạn, tình yêu, hiểu biết những thất bại tâm lý và các nguy hại lâu dài phải gánh chịu nếu vượt qua trái cấm; giáo dục bạn trai biết tự trọng, tôn trọng bảo vệ bạn gái, có bản lĩnh biết tự kiềm chế để chứng minh cho một tình yêu lành mạnh nếu nó chớm nở; giáo dục kỹ năng phòng vệ trước các áp lực nội tại đến từ hai phía, đặc biệt giáo dục kỹ năng phòng vệ cho các em gái, và rất nhiều nội dung khác xoay quanh tâm lý giới tính tuổi mới lớn giúp các em tự tin, tự chủ, tự hoàn thiện nhân cách, tự nhận thức để thay đổi hành vi, vững vàng nói “không” trước cám dỗ của bản năng ở độ tuổi phát dục.
Như vậy GDGT và giáo dục tình dục tiếp cận giới trẻ ở hai độ tuổi khác nhau nên nội dung khác biệt rất lớn, khiến không thể thay thế hay lồng ghép vào nhau được.
Tại sao phải giáo dục giới tính cho học sinh Trung học cơ sở?
Các nhà nghiên cứu từ nhiều năm nay đều cho rằng, học sinh ngày càng năng động, thông minh hơn do điều kiện dinh dưỡng tốt, nhiều điều kiện thiết bị bổ trợ dẫn đến nhu cầu nhận thức về mọi mặt vượt khung chương trình giảng dạy trong nhà trường, đặc biệt là về lĩnh vực giới tính.
Tuổi dậy thì của các em đến sớm hơn so với trước đây. Ở nữ, tuổi dậy thì bắt đầu từ 9-14, ở nam từ 12-15, nghĩa là giai đoạn các em đang ở bậc học Trung học cơ sở. Vì vậy khi một học sinh lớp 6 đã hỏi về vấn đề tình dục, một số em nữ học lớp 5 đã có kinh nguyệt, thì mãi đến lớp 8 các em mới được giới thiệu về những vấn đề này là quá muộn.
Ở giai đoạn dậy thì, các em phải trải qua những biến đổi to lớn về cơ thể cũng như về tâm lí. Thậm chí có thể khiến các em bị khủng hoảng nếu không có sự chuẩn bị về tâm lí, sự chỉ bảo của người lớn. Khi đó các em sẽ tự tìm hiểu, tự thể nghiệm theo những thông tin trên sách báo, tivi, internet, …Tuy nhiên, các nguồn thông tin này không được kiểm soát và thường chứa nhiều điểm đen, lệch lạc. Điều này đã gây ra nhiều hậu quả đáng buồn như quan hệ tình dục quá sớm, có thai khi còn ngồi trên ghế nhà trường, phá thai, bỏ học,…
Trẻ mới lớn cần chỉ dẫn về giới tính và các mối quan hệ. Nhưng ai sẽ là người các em tìm tới khi gặp vấn đề về giới tính? Rất nhiều trẻ ngại nói chuyện với bố mẹ về tình yêu, tình dục vì sợ bố mẹ có thể không chấp nhận quan điểm của mình. Nhiều trẻ quay sang hỏi bạn bè và điều này có thể tạo nguy cơ cho trẻ vì những thông tin trẻ nhận được không phải bao giờ cũng đúng. Người duy nhất có thể cung cấp nhiều thông tin nhất cho trẻ là thầy cô giáo vì giáo viên (GV) là những người kề cận nhất với học sinh (HS) tại trường học và hiểu HS nhất trong vấn đề giới tính.
Trong khi đó vấn đề giáo dục giới tính trong các nhà trường hiện còn khá sơ sài, mang nặng tính hình thức khiến các em càng tò mò.
Thực tế này đặt ra vấn đề: Làm thế nào cung cấp cho thanh thiếu niên những kiến thức, hiểu biết đúng đắn về tình bạn, tình yêu và sức khỏe sinh sản? Đáng tiếc là đến thời điểm hiện tại, những chương trình tuyên truyền, địa chỉ tư vấn về vấn đề này còn dè dặt và thiếu định hướng...
Cơ sở thực tiễn
Giáo dục giới tính trên thế giới
Ở các nước Âu Mỹ, giáo dục giới tính đã được đưa vào chương trình giáo dục từ rất sớm và được xem như những bài học bắt buộc đối với học sinh.
Tại Pháp, giáo dục giới tính đã là một phần của chương trình học trong trường từ năm 1973.
Tại Đức, giáo dục giới tính đã là một phần của chương trình học từ năm 1970. Từ năm 1992 giáo dục giới tính được luật pháp quy định là trách nhiệm của chính phủ.
Hầu hết học sinh Hoa Kỳ đều nhận được một hình thức giáo dục giới tính ít nhất một lần trong khoảng từ lớp 7 đến lớp 12; nhiều trường bắt đầu đề cập tới một số chủ đề ngay từ lớp 5 hay lớp 6. Một cuộc điều tra về tình dục của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) liên quan tới thói quen của thanh niên châu Âu năm 2006 cho thấy, tuy có lối sống khá thoáng nhưng tỉ lệ sinh trong độ tuổi vị thành niên và tỉ lệ nạo phá thai ở các nước này rất thấp.
Sự xuất hiện và lan rộng khủng khiếp của căn bệnh thế kỷ AIDS đã mang lại một ý nghĩa khẩn cấp mới cho chủ đề giáo dục giới tính. Tại nhiều nơi ở Châu Phi, nơi AIDS đã trở thành bệnh dịch, giáo dục giới tính được coi là một chiến lược sống còn để bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.
Khảo sát các chương trình giáo dục giới tính ở Châu Á cũng đang có những mức độ phát triển rất khác nhau. Indonesia, Mông Cổ, Hàn Quốc có khung chính sách hệ thống về việc giảng dạy giới tính trong các trường học. Malaysia, Philippines và Thái Lan đánh giá các nhu cầu sức khoẻ sinh sản thanh niên. Ấn Độ có các chương trình với mục tiêu hướng tới trẻ em từ chín tới mười sáu tuổi. Tại Nhật Bản, giáo dục giới tính là bắt buộc từ 10 hay 11 tuổi, chủ yếu đề cập tới các chủ đề sinh học như kinh nguyệt và xuất tinh. Tại Trung Quốc và Sri Lanka, giáo dục giới tính truyền thống gồm đọc về đoạn sinh sản trong các cuốn sách giáo khoa sinh học.
Thực trạng giáo dục giới tính ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề đưa chương trình giáo dục giới tính (GDGT) cho học sinh vào chính khóa đã được nhắc đi nhắc lại trong nhiều năm qua, nhưng ngành giáo dục vẫn chưa có những "động thái" cần thiết để thực hiện yêu cầu trên. Những giờ học về giới tính ở các trường học còn rất hiếm hoi. Trong gia đình, ít bậc cha mẹ nào giảng giải cho con cái mình những kiến thức về giới tính, tình dục. Chính vì thế mà giới trẻ phải tìm hiểu những điều đó từ sách báo, mạng Internet, phim ảnh và cả những kênh không chính thống…và tất nhiên bằng những hình thức đó các em sẽ tiếp cận luôn cả những vấn đề không phù hợp lứa tuổi. Điều này đã dẫn đến những hậu quả hết sức đau lòng.
Trẻ vị thành niên (từ 10-17 tuổi) ở nước ta có khoảng 23,8 triệu người, chiếm 31% dân số. Theo thống kê của Hội Kế hoạch hóa gia đình thì Việt Nam là một trong ba nước có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới (1,2-1,6 triệu ca mỗi năm), trong đó 20% thuộc lứa tuổi vị thành niên, thậm chí có em mới... 12 tuổi. Thống kê của bệnh viện Phụ sản Từ Dũ TP.HCM cho thấy, trong năm 2002 có 224 trường hợp nạo phá thai ở độ tuổi từ 11 đến 16, tăng hai, ba lần so với năm 2001. Bên cạnh đó, mỗi năm bệnh viện còn tiếp nhận hơn 10 sản phụ tuổi từ 12 đến 14. Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam cho thấy, 7.6% trong độ tuổi này có quan hệ tình dục trước hôn nhân.
Bên cạnh đó, tỉ lệ thanh thiếu niên phạm pháp về các tội hiếp dâm, giết người vì ghen tuông,… ngày càng tăng. Số lượng trẻ em bị xâm hại tình dục do thiếu hiểu biết về giới tính tăng đến mức báo động. Từ năm 2008 đến nay, trung bình mỗi năm có trên 1.000 trẻ em Việt Nam bị xâm hại tình dục. (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội công bố tại Tại hội thảo quốc gia “Phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em” năm 2010).
Nguyễn Bảo Tùng- Học sinh lớp 9 Trường THCS Hương Khê - Hà Tĩnh
Thủ phạm hiếp dâm một bé gái 8 tuổi
Hậu quả của việc xem phim đồi trụy.
Hai học sinh lớp 9- THCS Tràng Định –Lạng Sơn
Thủ phạm hãm hiếp và giết người. Chỉ vì mê muội những trang web đen
Học sinh THCS đâm chết bạn vì ghen tuông
Những "yêu râu xanh" tuổi vị thành niên.
Học sinh THCS hãm hiếp tập thể trẻ 14 tuổi vì xem phim đồi trụy.
Những con số trên và tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS đang ngày càng gia tăng đã đặt ra một nhiệm vụ cấp bách đó là cần tiến hành giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản cho học sinh ngay từ cấp THCS.
Giáo dục giới tính cho học sinh không phải là việc của riêng một cá nhân, tập thể mà là việc của toàn gia đình, nhà trường và xã hội. Tuy nhiên, thực tế địa phương cho thấy đa số các bậc phụ huynh có trình độ dân trí chưa cao, còn bảo thủ về vấn đề giáo dục giới tính. Vì vậy, nhà trường phải nắm vai trò chủ đạo trong việc này.
Từ những cơ sở trên, tôi khẳng định: “Trong thời đại phát triển như hiện nay, việc đưa nội dung giáo dục giới tính vào giảng dạy cho học sinh ngay từ bậc học THCS là vấn đề rất cần thiết và cấp bách”.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối với đề tài này, tôi đã tiến hành nghiên cứu theo các phương pháp sau:
Phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Đối tượng giáo dục giới tính
Học sinh THCS, từ 11- 16 tuổi.
Mục đích của chuyên đề Giáo dục giới tính cho học sinh THCS
Mục đích của chuyên đề này là cung cấp cho học sinh THCS hệ thống kiến thức cơ bản, chính xác, hữu ích về giới tính. Từ đó, giúp các em hình thành nhận thức đúng đắn về vấn đề này, có trách nhiệm trong các mối quan hệ, tránh được những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra. Như vậy, các em sẽ bước vào đời vững vàng hơn, tránh những con đường sai lầm ảnh hưởng đến tương lai.
Vấn đề không dừng lại ở việc giáo dục để các em hiểu sự phát triển tự nhiên của bản thân mình và người khác giới, những điều có thể xảy ra trong quan hệ tình dục hay hậu quả tai hại của việc mang thai sớm mà còn phải giáo dục để các em nhận thức sâu sắc giá trị cao đẹp của tình bạn, tình yêu, giáo dục những khía cạnh đạo đức về giới tính và hình thành những phẩm chất đặc trưng cho phái tính ở các em.
Nội dung giáo dục giới tính
Theo Thạc sĩ tâm lý Đinh Đoàn, Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng khoa học về giới tính - gia đình - phụ nữ và vị thành niên (CSAGA) lập luận: “10, 11 tuổi là thời kỳ tiền dậy thì, nên cung cấp những kiến thức như các em học sinh nữ thời gian tới sẽ phải đón nhận hiện tượng kinh nguyệt như thế nào, để khoảng lớp 6, 7 khi có kinh thì các em đã biết. Đối với học sinh nam 12, 13 tuổi thì khi phát triển hệ lông hoặc tinh trùng thì các em không phải lo lắng. Các em nên ăn mặc thế nào, ứng xử với các bạn khác giới ra sao... Còn quá trình thụ thai, trứng và tinh trùng đã kết hợp với nhau như thế nào? Phụ nữ có thai nên và không nên làm gì? nên dành cho học sinh tuổi 14, 15.”
Như vậy, căn cứ vào đặc điểm phát triển của lứa tuổi, giáo dục giới tính cần phải được tiến hành từ lớp 6 đến lớp 9 với nội dung tương ứng như sau:
Học sinh khối lớp 6, 7 (Độ tuổi 11 – 14)
Giáo dục về tuổi dậy thì, những biến đổi tâm-sinh lí tuổi dậy thì; hiện tượng kinh nguyệt, phóng tinh; cách vệ sinh thân thể và bộ phận sinh dục; những biến đổi và khác biệt về tính cách em trai em gái do các hocmon từ các tuyến sinh dục gây ra; giáo dục kỹ năng giao tiếp ứng xử trong quan hệ giữa bạn trai, bạn gái ở tuổi vị thành niên với cha mẹ, anh em trong gia đình.
Học sinh khối lớp 8, 9 (Độ tuổi 14 – 16)
Giáo dục về sự thụ tinh; phân biệt tình bạn và tình yêu, hiểu biết sâu sắc các giá trị của tình bạn, tình yêu; hiểu biết những thất bại tâm lý và các nguy hại lâu dài phải gánh chịu nếu quan hệ tình dục sớm, tảo hôn; giáo dục bạn trai biết tự trọng, tôn trọng bảo vệ bạn gái, có bản lĩnh biết tự kiềm chế để chứng minh cho một tình yêu lành mạnh nếu nó chớm nở; giáo dục kỹ năng phòng vệ trước các áp lực nội tại đến từ hai phía, đặc biệt giáo dục kỹ năng phòng vệ cho các em gái, và rất nhiều nội dung khác xoay quanh tâm lý giới tính tuổi mới lớn giúp các em tự tin, tự chủ, tự hoàn thiện nhân cách, tự nhận thức để thay đổi hành vi, vững vàng nói “không” trước cám dỗ của bản năng ở độ tuổi phát dục.
Hình thức giáo dục giới tính
Không nhất thiết phải đưa “ giáo dục giới tính” thành 1 môn học chính khóa mà nên phát triển thành nội dung, chủ đề chính của một số tiết học hoạt động ngoài giờ lên lớp, tiết sinh hoạt ngoại khóa. Với mỗi độ tuổi dẫ đề cập ở trên, nên tổ chức 2 buổi/1 năm học với thời gian 60 – 90 phút.
Do các em thường có tâm lí e ngại nên giờ giáo dục giới tính cần được tổ chức như tiết sinh hoạt ngoại khóa để các em mạnh dạn nói lên suy nghĩ, thắc mắc của mình.
Cần xen kẽ các trò chơi, phối hợp nhiều hoạt động linh hoạt tạo cảm giác thoải mái, hứng thú cho học sinh. Nếu có điều kiện, giáo viên cần tim tòi một số hình ảnh, phim, kịch tình huống minh họa để giờ học sinh động hơn.
Việc giảng dạy về nội dung giáo dục giới tính đòi hỏi người giảng dạy phải nắm rõ thực tiễn và các kiến thức giới tính chính xác, hình ảnh hay ví dụ minh họa rõ ràng gần gũi với đối tượng cần giảng dạy vì thế việc tổ chức một tiết dạy đòi hỏi sự chuẩn bị trước. Giáo viên có thể thực hiện từng bước: một buổi truyền đạt kiến thức, thông tin về giới tính rồi sau đó cho các em tạo nhóm, tìm hiểu một số tình huống trong đời sống và tạo dựng các vở kịch trình diễn ở những tiết sau, cho các nhóm khác đặt các câu hỏi tình huống để nhóm trình diễn trả lời, kết thúc các tiết mục thì giáo viên sẽ nhận xét và tư vấn những thiếu sót cho các em rút kinh nghiệm.
Một số lưu ý đối với giáo viên dạy giáo dục giới tính
Giáo dục giới tính không chỉ là nói về tình dục
Giáo dục giới tính bao gồm nhiều vấn đề, từ khía cạnh sinh lý học và giải phẫu học, các cơ quan sinh sản và chức năng của chúng, sinh sản, vai trò của hai giới, những bệnh lây truyền qua đường tình dục, tình yêu và các mối quan hệ tình dục, cuộc sống hôn nhân, mang thai và phòng tránh thai.
Nên giáo dục giới tính từ sớm, nhưng không được vội vã
Có thể bắt đầu giảng những kiến thức cơ bản như đặc trưng giới tính, sự khác nhau giữa nam và nữ, chức năng của cơ quan sinh sản, kinh nguyệt và mang thai ở các trường tiểu học khi học sinh lên 10 tuổi hoặc khi các em đã đủ lớn để hiểu những chủ đề này. Nếu các em chưa sẵn sàng tiếp nhận, giáo viên không nên “nhồi nhét” quá nhiều thông tin liên quan đến giới tính vì điều này có thể “lợi bất cập hại”.
Có thái độ tích cực về tình dục
Giáo viên cần làm cho học sinh hiểu tình dục không phải chuyện cấm kỵ mà là một phần tự nhiên của con người mà mọi người phải học. Đừng cho rằng giáo dục giới tính sẽ khiến một đứa trẻ ngây thơ lầm đường. Ngày nay trẻ có nhiều nguồn tin hơn là chúng ta nghĩ, bao gồm mạng Internet, video và sách, và nhiều thông tin trong số này là thông tin sai lệch. Giáo viên cần đảm bảo rằng những giờ học về giới tính sẽ cho học sinh kiến thức đúng đắn và an toàn hơn những nguồn này. Khi học sinh