Việc phát triển làng nghề là một phần của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn trong những năm đầu của thế kỷ 21. Phát triển mạnh những ngành nghề truyền thống, đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm có giá trị kinh tế cao, sử dụng được nhiều lao động địa phương là lợi thế của kinh tế làng nghề. Đời sống nông dân ở nhiều vùng nông thôn trong cả nước đã khá lên từ sản xuất nông nghiệp đồng thời với việc khôi phục và phát triển các làng nghề. Nhiều làng nghề đã nêu được bài học về làm giàu ở nông thôn. Tuy nhiên chính những nơi này đã và đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường mỗi, đặc biệt tình trạng ô nhiễm nguồn nước mặt xung quanh các làng nghề đang ngày càng trở nên trầm trọng. Nguồn nước ô nhiễm cũng chính là nguồn nước phục vụ cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của người dân trong làng, tạo ra một vòng xoắn luẩn quẩn mà không chỉ có nguồn nước gánh chịu hậu quả, mà chính người dân đang đánh mất sức khỏe của chính mình.
Nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước chính là từ các tính chất đặc thù của làng nghề như: quy mô nhỏ, công nghệ thủ công lạc hậu, phát triển không đồng bộ, chủ yếu chịu sự chi phối của các thị trường kém ổn định, chạy đua theo lợi nhuận, không nhiều kinh phí để đầu tư cho công tác xử lí nước thải thì việc xả nước thải ra nguồn nước tự nhiên mang lại hiệu quả kinh tế. Và một thực tế nữa là do hiểu biết của chính những người dân ở các làng nghề về tác động của hoạt động sản xuất đến sức khoẻ bản thân và những người xung quanh còn hạn chế.
Nhận thức được vấn đề trên em xin thực hiện chuyên đề: “ hiện trạng ô nhiễm nguồn nước mặt do nước thải từ các làng nghề ở Việt Nam” với mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng ô nhiễm nguồn nước mặt do nước thải từ làng nghề ở Việt Nam.
2. Một số giải pháp nhằm giảm tác động gây ô nhiễm nguồn nước xung quanh các làng nghề.
29 trang |
Chia sẻ: tienduy345 | Lượt xem: 3235 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hiện trạng ô nhiễm nguồn nước mặt do nước thải từ các làng nghề ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
DANH MỤC VIẾT TẮT
BOD5
XXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXX: Nhu cầu oxy sinh hóa
COD: Nhu cầu oxy hóa học
SS: Chất rắn lơ lửng
CBNSTP: Chế biến nông sản thực phẩm
N, P : Nitơ, Photpho
Pb, Zn, Fe: Chì, Kẽm, Sắt
TCCP: Tiêu chuẩn cho phép
TCVN: Tiêu chuẩn Việt Nam
BTNMT : Bộ tài nguyên môi trường
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Biểu đồ 1.2.2
Phân bố các làng nghề theo vùng miền
Bảng 1.2.3
Trình độ kỹ thuật ở các làng nghề
Bảng 1.3
Các dạng chất thải trong nước theo loại hình sản xuất
Bảng 3.1.1
Đặc trưng nước thải tại các làng nghề CBNSTP
Bảng 3.1.2
Tổng lượng nước thải và bã thải từ sản xuất tinh bột
Bảng 3.2
Phân tích môi trường nước mặt tại các làng nghề tái chế kim loại
Bảng 3.3
Phân tích môi trường nước mặt tại các làng nghề ươm tơ
Bảng 3.4.1
Chất lượng nước thải sản xuất của làng nghề sơn mài Hạ Thái-Hà Tây và Tương Bình Hiệp, Bình Dương
Bảng 3.4.2
Kết quả phân tích nước mặt tại thôn An Hoà
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc phát triển làng nghề là một phần của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn trong những năm đầu của thế kỷ 21. Phát triển mạnh những ngành nghề truyền thống, đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm có giá trị kinh tế cao, sử dụng được nhiều lao động địa phương là lợi thế của kinh tế làng nghề. Đời sống nông dân ở nhiều vùng nông thôn trong cả nước đã khá lên từ sản xuất nông nghiệp đồng thời với việc khôi phục và phát triển các làng nghề. Nhiều làng nghề đã nêu được bài học về làm giàu ở nông thôn. Tuy nhiên chính những nơi này đã và đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường mỗi, đặc biệt tình trạng ô nhiễm nguồn nước mặt xung quanh các làng nghề đang ngày càng trở nên trầm trọng. Nguồn nước ô nhiễm cũng chính là nguồn nước phục vụ cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của người dân trong làng, tạo ra một vòng xoắn luẩn quẩn mà không chỉ có nguồn nước gánh chịu hậu quả, mà chính người dân đang đánh mất sức khỏe của chính mình.
Nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước chính là từ các tính chất đặc thù của làng nghề như: quy mô nhỏ, công nghệ thủ công lạc hậu, phát triển không đồng bộ, chủ yếu chịu sự chi phối của các thị trường kém ổn định, chạy đua theo lợi nhuận, không nhiều kinh phí để đầu tư cho công tác xử lí nước thải thì việc xả nước thải ra nguồn nước tự nhiên mang lại hiệu quả kinh tế. Và một thực tế nữa là do hiểu biết của chính những người dân ở các làng nghề về tác động của hoạt động sản xuất đến sức khoẻ bản thân và những người xung quanh còn hạn chế.
Nhận thức được vấn đề trên em xin thực hiện chuyên đề: “ hiện trạng ô nhiễm nguồn nước mặt do nước thải từ các làng nghề ở Việt Nam” với mục tiêu:
Mô tả thực trạng ô nhiễm nguồn nước mặt do nước thải từ làng nghề ở Việt Nam.
Một số giải pháp nhằm giảm tác động gây ô nhiễm nguồn nước xung quanh các làng nghề.
Chương 1
TỔNG QUAN
Nước và ô nhiễm nước
Khái niệm nguồn nước mặt
Tài nguyên nước mặt: Là nước phân bố trên mặt đất, nước trong các đại dương, sông, suối, ao hồ, đầm lầy. Đặc điểm của tài nguyên nước mặt là chịu ảnh hưởng lớn từ điều kiện khí hậu và các tác động khác do hoạt động kinh tế của con người; nước mặt dễ bị ô nhiễm và thành phần hóa lý của nước thường bị thay đổi; khả năng hồi phục trữ lượng của nước nhanh nhất ở vùng thường có mưa. Tổng lượng dòng chảy sông ngòi trung bình hàng năm của nước ta bằng khoảng 847 km3, trong đó tổng lượng ngoài vùng chảy vào là 507 km3 chiếm 60% và dòng chảy nội địa là 340 km3, chiếm 40%. Nếu xét chung cho cả nước, thì tài nguyên nước mặt của nước ta tương đối phong phú, chiếm khoảng 2% tổng lượng dòng chảy của các sông trên thế giới, trong khi đó diện tích đất liền nước ta chỉ chiếm khoảng 1,35% của thế giới. Tuy nhiên, một đặc điểm quan trọng của tài nguyên nước mặt là những biến đổi mạnh mẽ theo thời gian (dao động giữa các năm và phân phối không đều trong năm) và còn phân bố rất không đều giữa các hệ thống sông và các vùng. Tổng lượng dòng chảy năm của sông Mê Kông bằng khoảng 500 km3, chiếm tới 59% tổng lượng dòng chảy năm của các sông trong cả nước, sau đó đến hệ thống sông Hồng 126,5 km3 (14,9%), hệ thống sông Đồng Nai 36,3 km3 (4,3%), sông Mã, Cả, Thu Bồn có tổng lượng dòng chảy xấp xỉ nhau, khoảng trên dưới 20 km3 (2,3 - 2,6%), các hệ thống sông Kỳ Cùng, Thái Bình và sông Ba cũng xấp xỉ nhau, khoảng 9 km3 (1%), các sông còn lại là 94,5 km3 (11,1%). Một đặc điểm quan trọng nữa của tài nguyên nước sông của nước ta là phần lớn nước sông (khoảng 60%) lại được hình thành trên phần lưu vực nằm ở nước ngoài, trong đó hệ thống sông Mê Kông chiếm nhiều nhất (447 km3, 88%). Nếu chỉ xét thành phần lượng nước sông được hình thành trong lãnh thổ nước ta, thì hệ thống sông Hồng có tổng lượng dòng chảy lớn nhất (81,3 km3) chiếm 23,9%, sau đó đến hệ thống sông Mê Kông (53 km3, 15,6%), hệ thống sông Đồng Nai (32,8 km3, 9,6%).
Khái niệm ô nhiễm nước
Mỗi mục đích sử dụng cần có tiêu chuẩn và phương pháp đánh giá riêng về mức độ phù hợp cho nhu cầu sử dụng. Để xem xét liệu nguồn nước có đạt yêu cầu sử dụng cho từng mục đích hay không ta cần so sánh với tiêu chuẩn chất lượng nước do các tổ chức chuyên môn quốc tế hoặc do nhà nước qui định. Trong các tiêu chuẩn chất lượng nước người ta chọn lọc mét sè thông số lí, hóa, sinh đặc trưng. Mỗi một thông số được qui định một giá trị tối đa cho phepsao cho có mặt của các tác nhân đó trong nguồn nước ở nồng độ không gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người, sự phát riển của tôm cá, hoặc sự phát triển của cây trồng.
Cùng với sụ phát triỉen của loài người, con người đã và đang làm cho môi trường nước bị ô nhiễm.Ô nhiễm môi trường nước được chia thành hai dạng: tự nhiên và nhân tạo và được định nghĩa như là sù thay đổi chất lượng nước làm cho nước độc hại và không sử dụng được. Theo luật Tài nguyên nước của nước CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM thì ô nhiễm nguồn nước là sự thay đổi tính chất vật lý. Hóa học và thành phần sinh học của nước vi phạm tiêu chuẩn cho phép.
Sự ô nhiễm nước là sự có mặt của nhiều hay mét chất lạ trong môi trưòng nước dù chất đó có độc hại hay không bới vì khi vượt quá ngưỡng chịu đựng của sinh vật thì chất đó sẽ trở nên độc hại.
Ô nhiễm nước tự nhiên do các yếu tố tự nhiên( núi lửa, bão, lũ lụt) có thể nghiêm trọng nhưng không thường xuyên và không phải là nguyên nhân chính gây suy thoái chất lượng nước toàn cầu.
Ô nhiễm nhân tạo là nguyên nhân quan trọng và phổ biến nhất được phân thành các loại:
Ô nhiễm chất hữu cơ: đó là sự có mặt của các chất tiêu thụ ôxy trong nước. Các chỉ tiêu để đánh giá ô nhiễm chất hữu cơ là: DO, BOD, COD
Ô nhiễm các chất vô cơ: là có nhiều chất vô cơ gây ô nhiễm nước, tuy nhiên có một số nhóm điển hình như: các loại phân bón chất vô cơ (là các hợp chất vô cơ mà thành phần chủ yếu là cacbon, hydro và oxy, ngoài ra chúng còn chứa các nguyên tố như N, P, K cùng các nguyên tố vi lượng khác), các khoáng axit, cặn, các nguyên tố vết.
Ô nhiễm các chất phú dưỡng: phú dưỡng là sự gia tăng hàm lượng Nito, Photpho trong nước nhập vào các thuỷ vực dẫn đến sự tăng trưởng của các thực vật bậc thấp (rong, tảo,). Nó tạo ra những biến đổi lớn trong hệ sinh thái nước, làm giảm oxy trong nước. Do đó làm chất lượng nước bị suy giảm và ô nhiễm.
Ô nhiễm do kim loại nặng và các hoá chất khác: thường gặp trong các thuỷ vực gần khu công nghiệp, khu vực khai khoáng, các thành phố lớn. Ô nhiễm kim loại nặng và các chất nguy hại khác có tác động rất trầm trọng tới hoạt động sống của con người và sinh vật. Chúng chậm phân huỷ và sẽ tích luỹ theo chuỗi thức ăn vào cơ thể động vật và con người.
Ô nhiễm vi sinh vật: thường gặp ở các thuỷ vực nhận nước thải sinh hoạt, đặc biệt là nước thải bệnh viện. Các loại vi khuẩn, ký sinh trùng, sinh vật gây bệnh sẽ theo nguồn nước lan truyền bệnh cho người và động vật.
Ô nhiễm nguồn nước mặt bởi dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hoá học: trong quá trình sử dụng, một lượng lớn thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa học bị đẩy vào vực nước ruộng, ao, hồ, đầm, Chúng sẽ lan truyền và tích luỹ trong môi trường đất, nước và các sản phẩm nông nghiệp thâm nhập vào cơ thể người và động vật theo chuỗi thức ăn.
Một số đặc điểm sự phát triển làng nghề tại Việt Nam
Các làng nghề chính ở Việt Nam
- Làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm và chăn nuôi: có số lượng lớn,chiếm 20% tổng số làng nghề, phân bố khá đều trên cả nước, phần nhiều sử dụng lao động lúc nông nhàn, không yêu cầu trình độ cao, hình thức sản xuất thủ công và gần như ít thay đổi về quy trình sản xuất so với thời điểm khi hình thành nghề. Phần lớn các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm nước ta là các làng nghề thủ công truyền thống nổi tiếng như nấu ruợu, làm bánh đa, đậu phụ, miến dong, bún
- Làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da: nhiều làng có từ lâu đời, có các sản phẩm mang tính lịch sử, văn hoá, mang đậm nét địa phương. Những sản phẩm như lụa tơ tằm, thổ cẩm, dệt may không chỉ là những sản phẩm có giá trị mà còn là những tác phẩm nghệ thuật đuợc đánh giá cao. Quy trình sản xuất không thay đổi nhiều, với nhiều lao động có tay nghề cao. Tại các làng nghề nhóm này, lao động nghề thường là lao động chính.
- Làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá: hình thành từ hàng trăm năm nay, tập trung ở những vùng có khả năng cung cấp nguyên liệu cơ bản cho hoạt động xây dựng. lao động gần như thủ công hoàn toàn, quy trình công nghệ thô sơ, tỷ lệ cơ khí hoá thấp, ít thay đổi.
- Làng nghề tái chế phế liệu: chủ yếu là các làng nghề mới hình thành, số lượng ít nhưng lại phát triển nhanh về quy mô và loại hình tái chế (chất thải, kim loại, giấy, nhựa, vải đã qua sử dụng. Đa số các làng nghề tái chế nằm ở phía Bắc, công nghệ sản xuất được cơ khí hoá một phần.
- Làng nghề thủ công mỹ nghệ: bao gồm các làng nghề gốm, sành sứ, thuỷ tinh mỹ nghệ, sơn mài, làm nón, dệt chiếu, thêu ren. Đây là nhóm làng nghề chiếm tỷ trọng lớn về số lượng (gần 40% tồng số làng nghề), có truyền thống lâu đời, sản phẩm có giá trị cao, mang đậm nét văn hoá, và đặc điểm địa phương, dân tộc. Quy trình sản xuất gần như không thay đổi, lao động thủ công, nhưng đòi hỏi tay nghề cao, chuyên môn hoá, tỉ mỉ và sáng tạo.
- Các nhóm ngành khác: bao gồm các làng nghề chế tạo nông cụ thô sơ như cày bừa, cuốc xẻng, mộc gia dụng, đóng thuyền, làm quạt giấy, dây thừng, đan vó, đan lưới Những làng nghề nhóm này xuất hiện từ lâu, sản phẩm phục vụ trực tiếp cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của địa phương. Lao động phần lớn là thủ công với số lượng và chất lượng ổn định.
Phân bố làng nghề trên cả nước
Với các chỉ tiêu đã đề ra, cho nay, Việt Nam có khoảng 2017 làng nghề, thuộc 11 nhóm ngành nghề khác nhau, trong đó gồm 1,4 triệu hộ tham gia sản xuất (cả hộ kiêm), thu hút hơn 11 triệu lao động. Nhiều tỉnh có số lượng các làng nghề lớn như Hà Tây (cũ) với 280 làng nghề, Bắc Ninh (187), Hải Dương (65), Hưng Yên (48) với hàng trăm ngành nghề khác nhau, phương thức sản xuất đa dạng. Tuy nhiên, sự phân bố và phát triển các làng nghề lại không đồng đều trong cả nước. Các làng nghề ở miền Bắc phát triển hơn ở miền Trung và miền Nam, chiếm gần 70% số lượng các làng nghề trong cả nước (1594 làng nghề), trong đó tập trung nhiều nhất và mạnh nhất là ở vùng đồng bằng sông Hồng. Miền Trung có khoảng 111 làng nghề, còn lại ở miền Nam hơn 300 làng nghề [Hiệp Hội làng nghề Việt Nam, 2009].
Biểu đồ 1.2.2 : phân bố các làng nghề theo vùng miền
Đặc điểm của làng nghề làm gia tăng ô nhiễm môi trường
Quy mô sản xuất nhỏ, phần lớn ở quy mô hộ gia đình (chiếm 72% cơ sở sản xuất)
Nếp sống tiểu nông của người chủ sản xuất nhỏ có nguồn gốc nông dân đã ảnh hưởng mạnh đến sản xuất tại làng nghề, làm tăng mức độ ô nhiễm môi trường.
Quan hệ sản xuất mang đặc thù của quan hệ gia đình, dòng tộc, làng xã.
Công nghệ sản xuất và thiết bị phần lớn ở trình độ lạc hậu, chắp vá.
Vốn đầu tư của các cơ sở sản xuất tại các làng nghề thấp, khó có điều kiện phát triển và đổi mới công nghệ theo hướng thân thiện với môi trường.
Trình độ lao động chủ yếu là lao động thủ công, học nghề, văn hoá thấp nên hạn chế nhận thức đối với công tác bảo vệ môi trường. Phần lớn kỹ thuật - công nghệ của làng nghề còn lạc hậu, chủ yếu vẫn sử dụng các thiết bị thủ công, bán cơ khí hoặc đã đã được cải tiến một phần không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật và điều kiện làm việc cho người lao động. Công nghệ sản xuất đơn giản (đôi khi còn lạc hậu)
Nhiều làng nghề chưa quan tâm đến xây dựng hạ tầng kỹ thuật cho bảo vệ môi trường.
Bảng 1.2.3: Trình độ kỹ thuật ở các làng nghề
ĐVT: %
Trình độ kỹ thuật
Chế biến nông, lâm, thuỷ sản
Thủ công mỹ nghệ và vật liệu xây dựng
Các ngành dịch vụ
Các ngành khác
Thủ công, bán cơ khí
61.51
70.69
43.90
59.44
Cơ khí
38.49
29.31
56.10
40.56
Tự động hoá
0
0
0
0
(Nguồn: Đề tài KC 08 – 09, 2005)
Thấy trình độ kĩ thuât làng nghề chủ yếu là thủ công, học nghề chiếm 60- 70%, không có làng nghề nào áp dụng tự động hóa, dây truyền hiện đại, cơ khí chiếm khoảng 30-40% nhưng chủ yếu kĩ thuật lạc hậu. Đây là một trong những yếu tố gây nhiễm môi trường làng nghề.
Đặc điểm ô nhiễm môi trường trong các làng nghề.
Ô nhiễm môi trường làng nghề nói chung
Các chất thải phát sinh từ nhiều làng nghề đã và đang làm suy thoái môi trường nghiêm trọng, tác động trực tiếp đến sức khoẻ người dân và ngày càng trở thành vấn đền bức xúc. Ô nhiễm môi trường làng nghề có một số đặc điểm sau:
Ô nhiễm môi trường làng nghề là dạng ô nhiễm phân tán trong phạm vi một khu vực (nông thôn, làng, xã). Do quy mô sản xuất nhỏ, phân tán, đan xen với khu sinh hoạt nên đây là loại hình ô nhiễm khó quy hoạch và kiểm soát.
Ô nhiễm môi trường tại làng nghề mang đậm nét đặc thù của hoạt động sản xuất theo ngành nghề và loại hình sản phẩm và tác động trực tiếp đến môi trường nước, đất, khí trong khu vực.
Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề thường khá cao tại khu vực sản xuất và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của người lao động.
Ô nhiễm môi trường nước
Khối lượng và đặc trưng nước thải sản xuất ở các làng nghề phụ thuộc chủ yếu vào công nghệ và nguyên liệu dùng trong sản xuất. Chê biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi, giết mổ gia súc, gia cầm, ươm tơ, dệt nhuộm là những ngành sản xuất có nhu cầu nước rất lớn và cũng xả thải ra khối lượng lớn nước thải với mức độ ô nhiễm hữu cơ cao đến rất cao. Ngược lại, một số ngành như tái chế, chế tác kim loại, đúc đồng, nhôm nhu cầu nước không lớn nhưng nước thải bị ô nhiễm các chất rất độc hại như các hoá chất axit, muối kim loại, xyanua và các kim loại nặng như Hd, Pb, Cr, Zn, Cu
Các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ: khối lượng nước thải sản xuất rất lớn với thải lượng các chất ô nhiễm hữu cơ cao
Các làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da: nước thải sản xuất có độ màu cao, chứa nhiều hoá chất, độ muối cao.
Các làng nghề tái chế phế liệu: nước thải sản xuất chứa nhiều hoá chất độc hại
Các làng nghề thủ công mỹ nghệ: nước thải sản xuất của một số làng nghề sơn mài và mây tre đan chứa nhiều loại hoá chất độc.
Các làng nghề thủ công mỹ nghệ: nước thải sản xuất của một số làng nghề sơn mài và mây tre đan chứa nhiều loại hoá chất độc.
Bảng 1.3: các dạng chất thải trong nước theo loại hình sản xuất
Loại hình sản xuất
Các dạng chất thải trong môi trường nước
1. Chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi, giết mổ
BOD, COD, chất rắn lơ lửng, tổng N, Tổng P, Coliform
2. Dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da
BOD, COD, độ màu, Tổng N, hoá chất, thuốc tẩy, Cr6+ (thuộc da)
3. Thủ công mỹ nghệ, thêu ren
- Gốm sứ
- Sơn mài, gỗ mỹ nghệ, chế tác đá.
BOD, COD, chất rắn lơ lửng, độ màu, dẫu mỡ công nghiệp
4. Tái chế
- Tái chế giấy
- Tái chế kim loại
- Tái chế nhựa
- pH, BOD5, COD, tổng N, tổng P, độ màu
- COD, dầu mỡ, CN-, kim loại
- BOD, COD, tổng N, tổng P, dẫu mỡ, độ màu
5. Vật liệu xây dựng, khai thác đá
Chất rắn lơ lửng, Si, Cr
(trích nguồn: Báo cáo môi trường quốc gia năm 2008)
1.4. Ô nhiễm môi trường làng nghề tác động đến sức khoẻ cộng đồng
Ô nhiễm môi trường làng nghề làm gia tăng tỷ lệ người mắc bệnh đang lao động và sinh sống tại chính làng nghề đó. Tỷ lệ này đang có xu hướng tăng trong những năm gần đây.
Theo các nghiên cứu của Viện BHLĐ, sức khỏe dân cư tại các làng nghề tái sinh kim loại là có nhiều vấn đề nhất. Kết quả điều tra sức khỏe tại làng tái sinh chì Đông Mai (Hưng Yên) cho Triệu chứng chủ quan về hô hấp (tức ngực, khó thở) chiếm 65,6%, suy nhược thần kinh chiếm 71,8%, đa khớp mãn chiếm 46,9%, tỷ lệ hồng cầu giảm chiếm 19,4%, tỷ lệ HST giảm chiếm 44,8% (kết quả về tỷ lệ hồng cầu và HST thông qua xét nghiệm máu và ALA niệu cho 32 đối tượng trong làng) và 5 trường hợp nhiễm độc chì (trong đó có 3 trẻ em). Tại làng nghề Văn Môn: Bệnh đường hô hấp chiếm 64,4%, suy nhược thần kinh 54,5%, bệnh ngoài da 23,1%. Tại làng nghề Vân Mai, Bắc Ninh: Bệnh đường hô hấp chiếm 44,4%, bệnh da liễu 68,5%, bệnh đường ruột 58,8%. Trong một nghiên cứu của Viện BHLĐ năm 2005, điều tra về tình hình mắc bệnh trong vòng 2 tháng gần nhất, 17,73% đối tượng trả lời rằng mình có bị ốm trong thời gian đó. Trong số mắc bệnh nhiều nhất là các bệnh về đường hô hấp (viêm họng: 30,56%, viêm phế quản: 25%), sau đó là các bệnh cơ xương khớp (đau khớp xương: 15,28%, đau dây thần kinh: 9,72%), thấp hơn là các bệnh về mắt (11,11%), bệnh về tiêu hóa, bệnh về da, v.v. Theo những người bị bệnh, 50,8% cho rằng bệnh mà mình mắc có liên quan đến công việc, 33,3% khác cho là không liên quan đến công việc và 15,9% không biết là bệnh mà mình mắc có liên quan đến công việc hay không. Tại các làng nghề truyền thống, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, mặt bằng sản xuất chật chội và tổ chức sản xuất thiếu khoa học. Điều kiện và môi trường lao động rất đáng lo ngại, NLĐ thường xuyên phải tiếp xúc với bụi, nhiệt, hóa chất; nguy cơ tai nạn lao động cao và thiếu phương tiện bảo vệ cá nhân. Môi trường sống đang có nguy cơ bị ô nhiễm do chất thải sản xuất không được xử lý mà thải trực tiếp vào môi trường xung quanh, gây ô nhiễm không khí, nước và đất. Sức khỏe NLĐ và dân cư đang bị đe dọa do ô nhiễm môi trường[4].
Chương 3
HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM NGUỒN NƯỚC MẶT DO NƯỚC THẢI TẠI LÀNG NGHỀ VIỆT NAM
Hiện nay, tình trạng phổ biến của các hộ, cơ sở sản xuất nghề ở nông thôn là sử dụng ngay diện tích ở làm nơi sản xuất. Khi quy mô sản xuất tăng lên hoặc sử dụng thiết bị, hóa chất đã làm cho môi trường sống bị ô nhiễm nặng nề, nhất là ở các làng nghề tái chế phế liệu và chế biến thực phẩm. Cho đến nay, phần lớn nước thải tại các làng nghề đều thải thẳng ra ngoài không qua bất kỳ khâu xử lý nào. Đây chính là nguyên nhân khiến cho tình trạng ô nhiễm nguồn nước tại các làng nghề ngày càng tồi tệ hơn.
Ô nhiễm nguồn nước mặt tại làng nghề chế biến nông sản thực phẩm
Vấn đề ô nhiễm nước tại các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm ngày càng trầm trọng. Chế biến nông sản thực phẩm là loại hình sản xuất có nhu cầu lớn về sử dụng nước và đồng thời cũng thải ra một lượng nước không nhỏ. Nước thải của các làng nghề này có đặc tính chung là rất giàu chất hữu cơ, dễ phân huỷ sinh học. Tùy theo quy trình chế biến, nước thải chế biến nông sản thực phẩm có BOD5 lên tới 2500 - 5000mg/l, COD 13300 - 20000mg/l (nước tách bột đen trong sản xuất tinh bột sắn). Nước thải cống chung của các làng nghề này đều vượt quy chuẩn cho phép từ 5 - 32 lần[2]. Theo khảo sát thực trạng môi trường sản xuất thạch dừa khô tại phường 7, tx Bến Tre, tỉnh Bến Tre của . kết quả phân tích các thông số ô nhiễm đặc trưng nhất bao gồm pH, DO, COD, BOD5, SS, NTổng, PTổng, Coliform trong nước thải của các cơ sở sản xuất thạch dừa tại phường 7 so sánh với cột B của QCVN 24:2009/BTNMT đều vượt qua tiêu chuẩn cho phép như chỉ số COD gấp 40-160 lần tiêu chuẩn, BOD gấp 40 lần, chỉ số SS, Nitơ, photpho, coliform gấp gần 10 lần tiêu chuẩn cho phép[6].
Theo “Đánh giá hiện trạng ô nhiễm môi trường phục vụ