Chăn nuôi heo ở Việt Nam có từ lâu đời. Theo một số tài liệu của khảo cổ học, nghề chăn nuôi heo ở Việt Nam có từ thời đồ đá mới, cách đây khoảng 1 vạn năm. Từ khi, con người biết sử dụng công cụ lao động là đồ đá, họ đã săn bắn, hái lượm và bắt được nhiều thú rừng, trong đó có nhiều heo rừng. Khi đó, họ bắt đầu có ý thức trong việc tích trữ thực phẩm và lương thực cho những ngày không săn bắn và hái lượm được và họ đã giữ lại những con vật đã săn bắt được và thuần dưỡng chúng. Cũng từ đó nghề chăn nuôi heo đã được hình thành. Vào khoảng cuối thế kỷ XVIII, khi có trao đổi văn hóa giữa Trung Quốc và Việt Nam, chăn nuôi heo được phát triển. Dân cư phía Bắc đã nhập các giống heo Lang Trung Quốc vào nuôi tại các tỉnh miền Đông Bắc bộ. Trong thời kỳ Pháp thuộc, khoảng 1925, Pháp bắt đầu cho nhập các giống heo châu Âu vào nước ta như giống heo Yorkshire, Berkshire và cho lai tạo với các giống heo nội nước ta như heo Móng Cái, heo Ỉ, heo Bồ Xụ Cùng với việc tăng nhanh về số lượng, chất lượng đàn heo cũng không ngừng được cải thiện. Các phương pháp nhân giống thuần chủng và các phép lai được thực hiện. Trong thời gian từ 1960, chúng ta đa nhập nhiều giống heo cao sản thông qua sự giúp đỡ của các nước XHCN. Trong những năm qua, chăn nuôi heo nước ta đạt được những thành tựu đáng kể. Nhiều trang trạị chăn nuôi heo có qui mô lớn, qui trình chăn nuôi công nghiệp khép kín mang lạị hiệu quả kinh tế cao. Nhưng đứng trước yêu cầu phát triển kinh tế hiện nay, ngành chăn nuôi heo ở Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức lớn: Giá thức ăn cao, chất lượng thức ăn chưa được kiểm soát. Năng suất chăn nuôi heo còn thấp, hệ thống giống heo chưa hình thành, tình trạng thiếu nghiêm trọng các nguyên liệu dùng làm thức ăn cho heo, thị trường tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi heo vẫn còn gặp nhiều khó khăn Đặc biệt là mối đe dọa nghiêm trọng từ dịch bệnh đến chăn nuôi heo. Nước ta là một nước nhiệt đới, nơi xuất phát của nhiều dịch bệnh có tính chất khu vực như các bệnh truyền nhiễm: Lở mồm long móng, Tụ huyết trùng, Phó thương hàn, Đáng chú ý là “Bệnh dịch Heo tai xanh” đã và đang hoành hành hiện nay tại một số địa phương trong cả nước. Được sự cho phép và sự hướng dẫn của giáo viên bộ môn Th.S Nhóm sinh viên chúng em đã tiến hành tìm hiểu và thực hiện Chuyên đề báo cáo về:
22 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2575 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở heo - Dịch bệnh heo tai xanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN ÁN TỐT NGHIỆP
Chuyên đề
Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở heo - Dịch bệnh heo tai xanhMỤC LỤC
CHƯƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăn nuôi heo ở Việt Nam có từ lâu đời. Theo một số tài liệu của khảo cổ học, nghề chăn nuôi heo ở Việt Nam có từ thời đồ đá mới, cách đây khoảng 1 vạn năm. Từ khi, con người biết sử dụng công cụ lao động là đồ đá, họ đã săn bắn, hái lượm và bắt được nhiều thú rừng, trong đó có nhiều heo rừng. Khi đó, họ bắt đầu có ý thức trong việc tích trữ thực phẩm và lương thực cho những ngày không săn bắn và hái lượm được và họ đã giữ lại những con vật đã săn bắt được và thuần dưỡng chúng. Cũng từ đó nghề chăn nuôi heo đã được hình thành. Vào khoảng cuối thế kỷ XVIII, khi có trao đổi văn hóa giữa Trung Quốc và Việt Nam, chăn nuôi heo được phát triển. Dân cư phía Bắc đã nhập các giống heo Lang Trung Quốc vào nuôi tại các tỉnh miền Đông Bắc bộ. Trong thời kỳ Pháp thuộc, khoảng 1925, Pháp bắt đầu cho nhập các giống heo châu Âu vào nước ta như giống heo Yorkshire, Berkshire và cho lai tạo với các giống heo nội nước ta như heo Móng Cái, heo Ỉ, heo Bồ Xụ…Cùng với việc tăng nhanh về số lượng, chất lượng đàn heo cũng không ngừng được cải thiện. Các phương pháp nhân giống thuần chủng và các phép lai được thực hiện. Trong thời gian từ 1960, chúng ta đa nhập nhiều giống heo cao sản thông qua sự giúp đỡ của các nước XHCN. Trong những năm qua, chăn nuôi heo nước ta đạt được những thành tựu đáng kể. Nhiều trang trạị chăn nuôi heo có qui mô lớn, qui trình chăn nuôi công nghiệp khép kín mang lạị hiệu quả kinh tế cao. Nhưng đứng trước yêu cầu phát triển kinh tế hiện nay, ngành chăn nuôi heo ở Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức lớn: Giá thức ăn cao, chất lượng thức ăn chưa được kiểm soát. Năng suất chăn nuôi heo còn thấp, hệ thống giống heo chưa hình thành, tình trạng thiếu nghiêm trọng các nguyên liệu dùng làm thức ăn cho heo, thị trường tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi heo vẫn còn gặp nhiều khó khăn…Đặc biệt là mối đe dọa nghiêm trọng từ dịch bệnh đến chăn nuôi heo. Nước ta là một nước nhiệt đới, nơi xuất phát của nhiều dịch bệnh có tính chất khu vực như các bệnh truyền nhiễm: Lở mồm long móng, Tụ huyết trùng, Phó thương hàn,…Đáng chú ý là “Bệnh dịch Heo tai xanh” đã và đang hoành hành hiện nay tại một số địa phương trong cả nước. Được sự cho phép và sự hướng dẫn của giáo viên bộ môn Th.S ………………………Nhóm sinh viên chúng em đã tiến hành tìm hiểu và thực hiện Chuyên đề báo cáo về:
Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở heo - Dịch bệnh heo tai xanh
(Porcine Reproductive and Respiratory Syndrome)
CHƯƠNG 2
NỘI DUNG
2.1 LỊCH SỬ VÀ TÊN GỌI CỦA BỆNH HEO TAI XANH
Bệnh dịch Heo tai xanh còn có tên gọi là Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản, viết tắt là PRRS (Porcine Reproductive and Respiratory Syndrome). Bệnh được ghi nhận lần đầu tiên ở Mỹ vào khoảng năm 1987, vào thời điểm đó, do chưa xác định được căn nguyên bệnh nên được gọi là “Bệnh bí hiểm ở lợn” (MDS), một số người căn cứ theo triệu chứng gọi là bệnh “Bệnh tai xanh ở lợn”. Sau đó bệnh lây lan rộng trên toàn thế giới và được gọi bằng nhiều tên: Hội chứng hô hấp và vô sinh của lợn (SIRS), bệnh bí hiểm ở lợn (MDS) như ở châu Mỹ hay Hội chứng hô hấp và sảy thai ở lợn (PEARS), Hội chứng hô hấp và sinh sản ở lợn (PRRS) như ở châu Âu. Năm 1992, Hội nghị quốc tế về bệnh này được tổ chức tại St. Paul, Minnesota đã nhất trí dùng tên PRRS là tên duy nhất cho bệnh này và đã được Tổ chức Thú y Thế giới công nhận.
2.2 ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỂ HỌC
Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn (PRRS), còn gọi là bệnh tai xanh là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, lây lan nhanh, làm ốm và chết nhiều lợn nhiễm bệnh. Hội chứng lần đầu tiên được phát hiện ở Mỹ vào năm 1987, sau đó ở Châu Âu và Châu Á vào những năm 90. Đến nay chưa có nước nào trên thế giới khẳng định là đã thanh toán được bệnh.
Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi của lợn, nhưng tập trung chủ yếu ở lợn nái mang thai và lợn con theo mẹ. Đặc trưng của PRRS là sảy thai, thai chết lưu ở lợn nái chửa giai đoạn cuối; lợn ốm có triệu chứng điển hình như sốt cao trên 40oC, viêm phổi nặng, đặc biệt là ở lợn con cai sữa. Bệnh có tốc độ lây lây nhanh, trong vòng 3-5 ngày cả đàn có thể bị nhiễm bệnh, thời gian nung bệnh khoảng 5-20 ngày. Lợn bệnh thường bị bội nhiễm bởi những bệnh kế phát khác như: dịch tả lợn, phó thương hàn, tụ huyết trùng, E. Coli, Streptococuss suis, Mycoplasma spp., Salmonella, vv... đây là những nguyên nhân kế phát gây chết nhiều lợn bệnh.
Ở Việt Nam, dịch PRRS đã xuất hiện lần đầu tiên vào tháng 3/2007 và gây ra 02 đợt bệnh chính tại 18 tỉnh, thành trong phạm vi cả 3 miền Bắc, Trung và Nam, làm ốm và phải tiêu huỷ hàng chục ngàn lợn mắc bệnh.
Dịch xảy ra chủ yếu ở các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán, không áp dụng các biện pháp an toàn sinh học, chưa quản lý tốt việc vận chuyển buôn bán lợn,... nên nguy cơ dịch tái phát hoặc xuất hiện ở bất cứ địa phương nào, ở bất cứ thời điểm nào là rất lớn, đặc biệt khi thời tiết thay đổi tạo thuận lợi cho vi rút PRRS và các mầm bệnh khác phát triển gây bệnh.
Dịch lây lan nhanh chủ yếu là do phát hiện chậm, thú y cơ sở chữa trị âm thầm không có hiệu quả, người chăn nuôi bán lợn ốm, do không kiểm soát được vận chuyển lợn ốm từ vùng có dịch sang vùng không có dịch.
2.3 ĐẶC ĐIỂM CỦA VIRUS GÂY BỆNH
2.3.1 NHẬN DIỆN VIRUS GÂY BỆNH
Lúc đầu, người ta cho rằng bệnh heo tai xanh (PRRS) do một số virus như Parvovirus, virus giả dại (Pseudorabies), virus cúm lợn(Porcine enterovirus), đặc biệt virus gây viêm não - cơ tim (Encephalomyocarditis) gây nên. Sau đó, thông qua phân tích gene virus phân lập được từ khắp nơi trên thế giới, các nhà khoa học đã xác định được hai phân type chính của virus PRRS là: Type I là các virus xuất hiện ở châu Âu (virus Lelystad) và type II gồm các virus chủng Bắc Mỹ đã gây bùng phát dịch ở Châu Á (Trung Quốc và Việt Nam...).
Hình 1: Virus PRRS
Virus có cấu trúc ARN, thuộc giống Arterivirus, họ Togaviridae và bộ Nidovirales, gần giống với virus gây viêm khớp ở ngựa (EAV), Lactic Dehydrogenase virus của chuột (LDH) và virus gây sốt xuất huyết trên khỉ (SHF). Có ba đặt tính quan trọng đáng lưu ý của giống Artervirus nói chung và virus PRRS nói riêng là:
- Nhân lên bên trên trong các đại thực bào.Virus rất thích hợp với đại thực bào đặc biệt là đại thực bào hoạt động ở vùng phổi. Bình thường, đại thực bào sẽ tiêu diệt tất cả vi khuẩn, virus xâm nhập vào cơ thể, riêng đối với virus PRRS, virus có thể nhân lên trong đại thực bào, sau đó phá huỷ và giết chết đại thực bào (tới 40%)
Hình 2: Đại thực bào ở heo trước và sau khi bị virus PRRS tấn công
- Gây nhiễm trùng dai dẳng mà không thể hiện triệu chứng. Do vậy, khi đã xuất hiện trong đàn, chúng thường có xu hướng duy trì sự tồn tại và hoạt động âm thầm. Đại thực bào bị giết sẽ làm giảm chức năng của hệ thống bảo vệ cơ thể và làm tăng nguy cơ bị nhiễm các bệnh kế phát
- Có khả năng biến đổi gien rất lớn.
2.3.2 HÌNH THÁI VIRUS PRRS
Hình 3: Hình thái virus PRRS
Hình thái của virus là hình cầu, kích thước 40-60 nm, bề mặt nhẵn, lõi nucleocapsid hình khối với đường kính 25 -35 nm. Vỏ bọc của virus cấu tạo bởi hai lớp màng Lipid được lấy từ tế bào vật chủ và mang hai loại protein chủ yếu ( protein màng M và protein vỏ E) và bốn loại protein thứ yếu Glycosylate Protein (GP) GP2, GP3, GP4 và GP5 các loại protein này được mã hóa bởi khung tín hiệu mở (ORF) 2, 3, 4 và 5. Gene của virus có chiều dài 15 kb và chứa 08 khung tín hiệu mở trong đó chiếm 80% của gene là ORF 1a và 1b mã hóa những protein không cấu trúc của virus. Những protein được mã hóa bởi các khung tín hiệu mở ORF từ 2 – 7 chiếm 20% còn lại của gien gọi là các protein cấu trúc.
Hình 4: Gene cấu tạo của virus PRRS
2.3.3 SỨC ĐỀ KHÁNH CỦA VIRUS PRRS
- Virus PRRS tồn tại được trong thời gian dài ( khoảng vài tháng đến 01 năm hoặc hơn) ở - 70oC đến -20oC. Khoảng 90% virus mất khả năng gây nhiễm trong vòng 01 tuần ở 4oC nhưng một số ít vẫn tồn tại được đến 30 ngày.
Virus PRRS không bền với nhiệt, ánh sáng và pH, dễ bị phân hủy bởi các chất sát trùng thông thường. Virus PRRS bất hoạt hoàn toàn ở 37oC trong 48h và 45 phút ở 56oC.
- Virus PRRS chịu đựng được pH 6,5 – 7,5 nhưng khả năng gây nhiễm của virus sẽ mất một cách nhanh chóng ở pH7.
- Virus PRRS dễ bị diệt và vô hoạt trong dung môi như Cholorofrom, ether, tia cực tím. Trong thịt đông lạnh ở 4OC virus PRRS tồn tại tới 48h. Tồn tại 9 ngày trong nước giếng và 11 ngày trong nước máy. Virus PRRS bất hoạt rất nhanh trong đều kiện khô hạn.
Virus PRRS không gây ngưng kết hồng cầu động vật hữu nhũ như hồng cầu của người, cừu, dê, trâu, bò ngựa...
2.3.4 ĐƯỜNG LÂY TRUYỀN CỦA VIRUS PRRS
Virus PRRS có trong dịch mũi, nước bọt tinh dịch (trong giai đoạn nhiễm trùng máu), phân, nước tiểu của heo ốm hoặc mang trùng và phát tán ra môi trường. Ở heo mẹ mang trùng, virus có thể lây nhiễm cho bào thai từ giai đoạn giữa thai kỳ trở đi và virus cũng được bài thải qua nước bọt và sữa. Heo trưởng thành có thể bài thải virus trong vòng 14 ngày trong khi đó lợn con và lợn sau cai sữa bài thải virus tới 1-2 tháng. Virus có thời gian tồn tại ở heo mang trùng và được bài thải ra ngoài môi trường tương đối dài, từ vài tuần đến vài tháng. Ở heo bệnh hoặc heo mang trùng, virus tập trung chủ yếu ở phổi, hạch amidan, hạch lympho, lách, tuyến ức và ở huyết thanh. Virus có thể phát tán, lây lan thông qua các hình thức:
- Lây lan trực tiếp: tiếp xúc với lợn ốm, lợn mang trùng, các nguồn có chứa virus như: phân , nước tiểu, bụi, nước bọt, thụ tinh nhân tạo và một số loài chim hoang (vịt trời)
- Lây lan gián tiếp: qua dụng cụ chăn nuôi và dụng cụ bảo hộ lao động nhiễm trùng. Hình thức phát tán qua không khí (từ phân, các hạt bụt chứa virus có thể theo gió đi xa tới 3 km, chất thải mang vi rút) được xem là mối nguy hiểm ở trong các vùng có dịch bệnh xảy ra.
Hình 5: Sự lây truyền của virus PRRS
2.3.5 TÍNH GÂY BỆNH CỦA VIRUS PRRS
Virus PRRS xâm nhập vào cơ thể heo và nhân lên trong các tế bào đại thực bào. Virus PRRS có ái lực với đại thực bào ở phổi, chúng không bị tiêu diệt bởi đại thực bào như những mầm bệnh khác mà có khả năng nhân bản, sinh sôi làm hư hại đại thực bào.Do vậy khi xuất hiện trong đàn, chúng thưồng có xu hướng duy trì sự tồn tại và hoạt động âm thầm. Số lượng đại thực bào trong phổi bị virus phá hủy có thể lên tới 40% sẽ làm giảm chức năng miễn dịch không đặc hiệu tạo điều kiện cho các loại mầm bệnh khác xâm nhập gây bệnh kế phát ở hệ hô hấp như vi khuẩn Pasteurella, Bordetella, Haemophillus, Streptococcus, Actinobacillus, Mycoplasma. Đây là những tác nhân gây bệnh Dịch tả heo, Tụ huyết trùng, Phó thương hàn, E. Coli, Streptococuss suis, Mycoplasma spp., Salmonella, v.v…
2.4 TRIỆU CHỨNG BỆNH HEO TAI XANH
Khi mầm bệnh xâm nhập vào đàn heo, khoảng 6-12 tuần sẽ có biểu hiện bệnh. Căn cứ vào sự biểu hiện các triệu chứng của bệnh, người ta có thể chia thành hai giai đoạn khác nhau:
* Giai đoạn một là biểu hiện các triệu chứng rối loạn sinh sản đối với heo nái.
* Giai đoạn hai là sự biểu hiện của các triệu chứng hô hấp.
Các triệu chứng trong giai đoạn một hay các triệu chứng sinh sản bao gồm: Sốt trên 40o C, bỏ ăn, mệt mỏi, giảm tỷ lệ thụ thai và số con đẻ ra , sảy thai (tỷ lệ này có thể đến 50% trong các đàn mới bị nhiễm virus), giảm tiết sữa hoặc mất sữa hoàn toàn, thai khô (thai gỗ), chết thai, đẻ non, chậm động dục hoặc không động dục trở lại, rối loạn sinh sản có thể kéo dài đến vài tháng. Các triệu chứng ở heo con trong giai đoạn một: Tỷ lệ chết trước cai sữa, heo gầy yếu, bỏ ăn.
Giai đoạn biểu hiện các triệu chứng hô hấp: Loạn hô hấp, heo biểu hiện đau khi thở. Các triệu chứng thuộc giai đoạn hai ở lợn con: Hắt hơi, tăng tần số hô hấp, thở khó, thở đứt quãng, gầy, yếu, phù mắt, các nốt phồng rộp trên da, ti êu chảy, đi không vững và run, đứng choãi chân.
Các biểu hiện lâm sàng cụ thể ở các loại heo: heo nái mang thai, heo con sơ sinh, heo lứa và heo lớn…
Hình 6: Hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp (PRRS) - Tai heo bệnh viêm xuất huyết
- Heo nái hậu bị và nái mang thai(chửa): Sốt nhẹ, biếng ăn, heo nái hậu bị lên giống (động đực) lại sau 21 -35 ngày phối giống, nái mang thai(chửa) không hoặc chậm động dục trở lại sau khi đẻ, có dấu hiệu của bệnh viêm phổi. Heo nái hậu bị có thể sinh sản kém, đẻ sớm, tăng tỷ lệ sảy thai (2-3%), bỏ ăn giai đoạn sinh con. Pha cấp tính này kéo dài trong đàn tới 6 tuần, điển hình là đẻ non, tăng tỷ lệ thai chết hoặc yếu, tăng số thai gỗ, chết lưu trong giai đoạn 3 tuần cuối trước khi sinh, ở một vài đàn, con số này có thể tới 30% tổng số lợn con sinh ra.
Hình 7: Heo nái gầy yếu, không lên giống
Heo đẻ non, tỷ lệ thai chết cao
Hình 8: Thai chết trong khi đẻ
- Heo nái đẻ : Giảm ăn uống, đẻ sớm 2-3 ngày, viêm vú và mất sữa. Da nhợt nhạt, một số nái có biểu hiện của bệnh hô hấp, tỉ lệ thai gỗ tăng, heo con chết ngay khi sinh đến 30%, khoảng 5% heo con tai chuyển màu xanh và duy trì trong vài giờ. Sau 5 - 7 ngày thì thấy một số nái chết, heo con đẻ ra nhợt nhạt rất yếu, trong đó có một số con chết từ trước (thai khô).
- Heo nái giai đoạn nuôi con và cạn sữa: Biếng ăn, lười uống nước, mất sữa và viêm vú (triệu chứng điển hình), Rối loạn sinh sản có thể kéo dài 4-8 tháng trước khi trở lại bình thường.
Hình 9: Heo con chết ngay khi sinh
- Heo con theo mẹ: Heo con có thể chết đến 70% sau 3- 4 tuần. Số heo con sống sót ngơ ngác, có nhiều ghèn quanh mí mắt, trên da có vết phồng rộp. Heo tiêu chảy nhiều, đi loạng choạng không linh hoạt, chân bẹt rộng ra, run rẩy, đứng không vững, mệt mỏi, lờ đờ và kèm theo sự khó thở và sốt khoảng 40oC – 41oC. Thể trạng gầy yếu, nhanh chóng rơi vào trạng thái tụt đường huyết do không bú được, mắt có dử màu nâu, tiêu chảy nhiều
Hình 10: Heo cai sữa biếng ăn, ho nhẹ, lông xác xơ
- Heo cai sữa, heo lứa và heo thịt: Biếng ăn, ho nhẹ, lông xác xơ. Khi ghép với bệnh khác có thể thấy viêm phổi nặng khi xua đuổi thì heo nhanh mệt và ngồi thở kiểu chó ngồi rất giống bệnh suyễn, tim đập nhanh, mạnh và heo dễ bị chết do trụy hô hấp, gầy yếu, da xanh, tiêu chảy, chảy nước mắt, thở nhanh, tỷ lệ chết có thể tới 15%. Heo nhiễm bệnh sốt từ 40 - 410C và chỉ sốt 1 -2 ngày đầu hoặc sốt ngắt quãng,da ửng đỏ (phát ban). Đặc biệt là rìa tai và chỏm tai, sau vài ngày rìa tai và chỏm tai có màu xanh tím do đó bệnh được một số người gọi là bệnh tai xanh. Hiện tượng viêm tím xanh tai đã dẫn đến hoại tử quăn tai gầy tò mò cho những lợn khác cắn gặm làm chảy máu tai và tạo điều kiện cho bệnh thứ phát. Một số khác chảy nước mắt dàn dụa và phát ban đỏ xung quanh mắt sau chuyển thành màu thâm tạo quầng, mắt lõm sâu cho ta có cảm giác như heo đeo kính râm, heo bị tiêu chảy nặng, phân có mùi khó chịu. Heo nhiễm bệnh nằm chụm đống lại với nhau. Tỷ lệ chết rất cao do bệnh thứ phát. Tuy nhiên, ở một số đàn có thể không có triệu chứng. Ngoài ra, trong trường hợp ghép với bệnh khác có thể thấy viêm phổi lan toả cấp tính, hình thành nhiều ổ áp-xe
Hình 11: Heo thịt có biểu hiện khó thở
- Heo đực giống: Sốt, biếng ăn, đờ đẫn hoặc hôn mê, mất tính hăng, lượng tinh dịch ít (giảm thể tích), chất lượng tinh kém (hình thái, hoạt lực và nồng độ tinh trùng) và cho heo con sinh ra nhỏ. Giai đoạn nhiễm trùng, huyết tinh dịch heo bệnh có chứa virus gây bệnh.
Hình 12: Heo đực giống sốt, biếng ăn, đờ đẫn
2.5 BỆNH TÍCH PRRS
* Bệnh tích đại thể
- Ở heo nái là thai bị sảy, heo con(bào thai) chết yểu hoặc bị chết lưu thai.
Hình 13: Thai bị sảy, heo con(bào thai) chết lưu thai
- Gan tụ huyết, lách sưng thận xuất huyết đinh ghim, hạch amidan sưng, sung huyết, não sung huyết, hạch màng treo ruột xuất huyết, loét van hồi manh tràng.
- Phổi bị viêm hoại tử tạo ra các đám rắn chắc tập trung ở thuỳ đỉnh hoặc thuỳ giữa nhưng cũng thấy ở thùy phụ và nửa dưới thùy hoành.
- Thùy phổi bệnh có màu xám đỏ, có mủ đặc và chắc. Nếu cắt ngang ta thấy mô phổi lồi ra có màu loang lổ như tuyến ức.
Hình 14: Thận xuất huyết đinh ghim trong bệnh PRRS
Hình 15: Phổi tụ huyết, xuất huyết nặng trong bệnh PRRS
* Bệnh tích vi thể
- Dịch thẩm xuất trong đường tiêu hóa và đường hô hấp, tập trung chủ yếu ở phổi (đặc biệt trong các phế quản), trong phế nang chứa nhiều dịch và đại thực bào bị phân huỷ, da nhiều vùng có màu xanh tím
Hình 16: Lỗ tai heo tím tái và đẻ non
- Trên xác heo con bị chết lưu đã thấy một số đám bị hoại tử thối rữa, hoại tử động mạch cuống rốn
- Heo con sinh ra nhợt nhạt, chết yểu...
Tuy nhiên, trong một số trường hợp heo bị bệnh kế phát thì bệnh tích rất đa dạng.
2.6 CHẨN ĐOÁN BỆNH HEO TAI XANH (PRRS)
* Chẩn đoán lâm sàng
Có thể dựa vào triệu chứng và bệnh tích nêu ở phần trên để chuẩn đoán heo nghi bệnh PRRS
* Chẩn đoán phân biệt
Các bệnh sau cũng có thể gây triệu chứng rối loạn sinh sản
- Bệnh Aujesszky
- Bệnh do xoắn khuẩn (Leptospirosis)
- Bệnh lở mồm long móng
- Bệnh sốt heo cổ điển
- Viêm dạ dày ruột truyền nhiễm (do virus)
- Parvovirus; Viêm não Nhật Bản
Các bệnh gây các triệu chứng hô hấp dễ nhầm lẫn:
- Bệnh cúm heo
- Viêm phế quản, phổi
- Viêm phổi do cúm không điển hình
* Chẩn đoán virus học
- Phân lập trên các tế bào được nuôi cấy và xác định bằng phương pháp nhuộm miễn dịch, hóa miễn dịch hay PCR(Polymerase Chian Reaction), đây là phương pháp dung để kiểm tra sự hiện diện của virus trong máu. Phương pháp này cho kết quả tốt nhất, có thể phát hiện virus ở giai đoạn đầu khi mới nhiễm bệnh. Thích hợp cho những nơi đang xảy ra dịch bệnh
Có thể dùng phương pháp IPMA(Immuno Peroxidase Monolayer Assay), ELISA (Enzym- Linked Immuno Sorbent Aassay)…để phát hiện kháng thể khi heo bị nhiễm bệnh.
* Chẩn đoán huyết thanh học
- Chẩn đoán huyết thanh học với mẫu huyết thanh từ lợn mắc bệnh (thể cấp tính) và lợn trong giai đoạn hồi phục. Các phương pháp được áp dụng bao gồm ELISA, miễn dịch huỳnh quang, IPMA(Immuno Peroxydase Monolayer Assay). Kháng thể được phát hiện sau khi nhiễm 1-2 tuần: khoảng thời gian có thể phát hiện kháng thể khoảng 4 tháng sau khi bị nhiễm. Chẩn đoán huyết thanh học không có khả năng phân biệt được kháng nguyên hiện diện do bị nhiễm virus hay do tiêm vaccine.
* Phương pháp lấy mẫu chẩn đoán
Khi phát hiện heo nhiễm bệnh, chết nghi bệnh thì tiến hành lấy mẫu xét nghiệm - Đối với mẫu máu (huyết thanh) ở lợn đang sốt: lấy 02-03ml máu/ heo từ ít nhất 5 con heo đang bị sốt (≥ 40oC).
- Đối với heo chết phải mổ khám lấy mẫu bệnh phẩm gồm: phổi, hạch lâm ba xuất huyết hoặc amiđan, dịch bào thai. Mỗi loại bệnh phẩm, lấy mẫu kích thước to bằng khoảng 2 đầu ngón tay cái, cho vào túi nilon sạch.
* Phương pháp lấy mẫu giám sát
- Đối với heo đực giống: Lấy tinh dịch của tất cả heo đực giống, mỗi con 5 ml cho vào ống nghiệm sạch.
- Đối với heo nái: Lấy 03-05 ml máu/nái
+ Đối với những đàn có số lượng heo nái ≤ 10 con thì lấy mẫu cả đàn hoặc ít nhất mẫu của 03 heo nái.
+ Đối với những đàn có số lượng heo nái ≥ 10 con thì lấy mẫu của 10% của tổng đàn.- Mẫu các cơ quan: Phổi, hạch hạnh nhân, hạch bạch huyết, lách
2.7 PHÒNG BỆNH VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH KẾ PHÁT
2.7.1 Phòng bệnh
Phòng bệnh bằng việc áp dụng các nguyên tắc vệ sinh thú y nghiêm ngặt, tăng cường nâng cao sức đề kháng cho tới khi triệu chứng lâm sàng cấp tính lắng xuống (như vitamin A, C, E, D, acid hữu cơ và bêtaglucan, mannan oligosaccharide) giúp khôi phục hệ miễn dịch góp phần khống chế bệnh nhanh chóng. Chủ động phòng bệnh bằng cách áp dụng các biện pháp an toàn sinh học, chuồng trại phải thoáng mát về mùa hè, ấm vào mùa đông, tăng cường chế độ dinh dưỡng, mua heo giống từ những cơ sở đảm bảo, thiết lập hệ thống chuồng nuôi cách ly ít nhất 8 tuần, hạn chế khách tham quan, sử dụng bảo hộ lao động, không mượn dụng cụ chăn nuôi của các trại khác, thực hiện “cùng nhập, cùng xuất” heo và để trống chuồng, thường xuyên tiêu độc, khử trùng chuồng nuôi.
2.7.2. Phòng bệnh bằng vaccin
Việc phòng bệnh PRRS cần phải được thực hiện liên tục đồng bộ với các biện pháp khác nhau. Trong đó các biện pháp vệ sinh, tiêu độc khử trùng thường xuyên, chăm sóc tốt cho đàn heo là rất quan trọng và cần phải được thực hiện trước khi khi thực hiện biện pháp tiêm phòng vaccin. Hiện có vaccin nhược độc dùng cho heo con sau cai sữa, heo nái