Ngày nay với khoa học, công nghệ hiện đại, các nhà khoa học đã chứng minh nguồn lực con người thuộc loại nguồn lực đặc biệt, nguồn lực quý giá nhất trong các nguồn lực. Bởi chỉ con người mới có năng lực sáng tạo vô tận, sáng tạo trong mọi lĩnh vực, tác động vào mọi lĩnh vực làm thay đổi các lĩnh vực và trong chừng mực nhất định thay đổi một số mặt của chính con người. Thực tế cũng đã diễn ra và minh chứng thuyết phục cho nhận định trên đây. Đó là, ở các quốc gia phát triển nhất của thế giới đương đại, đều là các quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng. Ở đó, hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, điều kiện và môi trường vừa cho phép con người phát huy hết khả năng sáng tạo cao nhất, vừa tạo cơ hội để mỗi đơn vị, tổ chức, các nhà lãnh đạo, quản lý khai thác tiềm năng con người một cách hữu hiệu, thiết thực nhất, từ đó để học kết nối và xây dựng lên một đơn vị, tổ chức, quốc gia mạnh.
Một đơn vị, một tổ chức được hình thành bởi cộng đồng con người, đó là các thực thể có tính xã hội cao, một nguồn lực đặc biệt của sự phát triển. Con người luôn có ý thức, tri thức trong khai thác, sử dụng các nguồn lực khác nhau vì lợi ích chính mình và lợi ích cho cộng đồng, cho xã hội. Thực tế phát triển xã hội loài người cho thấy, trong trạng thái “đơn thương độc mã”, con người đối diện với nhiều rủi ro và khó đạt được lợi ích mong muốn. Vì vậy trong quá trình phát triển, con người đã từ tự phát triển tới tự giác hình thành tổ chức của chính mình. Con người trong mỗi đơn vị, mỗi tổ chức cần và phải được nhìn nhận từ hai phía, cá nhân và tổ chức, trong mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau, tiền đề của nhau trong tồn tại và phát triển.
Tùy từng lĩnh vực mà các nhà lãnh đạo, quản lý có phương thức huy động năng lực sáng tạo của con người một cách phù hợp, thiết thực và hiệu quả. Khó có thể quy về phương thức chung cho các lĩnh vực riêng, đặc thù, trong đó có những con người khác nhau với tính chất hoạt động khác nhau. Người lao động trong nông nghiệp trước đây hay hiện nay, hay người nông dân thực thụ, gắn với ruộng đồng luôn có nhiều sáng tạo trong trồng trọt, chăn nuôi, thích ứng với đổi thay của thời tiết, khí hậu,. Có thể nói, không thiếu con người có khả năng sáng tạo mà là thiếu cách thức, phương thức huy động năng lực sáng tạo của con người một cách thiết thực, phù hợp, hiệu quả. Nói cách khác, cần có và đạt tới nghệ thuật lãnh đạo, quản lý đối với con người.
12 trang |
Chia sẻ: baohan10 | Lượt xem: 1945 | Lượt tải: 8
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Khoa học và nghệ thuật trong lãnh đạo, quản lý, vận dụng vào thực tiễn của cơ quan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay với khoa học, công nghệ hiện đại, các nhà khoa học đã chứng minh nguồn lực con người thuộc loại nguồn lực đặc biệt, nguồn lực quý giá nhất trong các nguồn lực. Bởi chỉ con người mới có năng lực sáng tạo vô tận, sáng tạo trong mọi lĩnh vực, tác động vào mọi lĩnh vực làm thay đổi các lĩnh vực và trong chừng mực nhất định thay đổi một số mặt của chính con người. Thực tế cũng đã diễn ra và minh chứng thuyết phục cho nhận định trên đây. Đó là, ở các quốc gia phát triển nhất của thế giới đương đại, đều là các quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng. Ở đó, hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, điều kiện và môi trường vừa cho phép con người phát huy hết khả năng sáng tạo cao nhất, vừa tạo cơ hội để mỗi đơn vị, tổ chức, các nhà lãnh đạo, quản lý khai thác tiềm năng con người một cách hữu hiệu, thiết thực nhất, từ đó để học kết nối và xây dựng lên một đơn vị, tổ chức, quốc gia mạnh.
Một đơn vị, một tổ chức được hình thành bởi cộng đồng con người, đó là các thực thể có tính xã hội cao, một nguồn lực đặc biệt của sự phát triển. Con người luôn có ý thức, tri thức trong khai thác, sử dụng các nguồn lực khác nhau vì lợi ích chính mình và lợi ích cho cộng đồng, cho xã hội. Thực tế phát triển xã hội loài người cho thấy, trong trạng thái “đơn thương độc mã”, con người đối diện với nhiều rủi ro và khó đạt được lợi ích mong muốn. Vì vậy trong quá trình phát triển, con người đã từ tự phát triển tới tự giác hình thành tổ chức của chính mình. Con người trong mỗi đơn vị, mỗi tổ chức cần và phải được nhìn nhận từ hai phía, cá nhân và tổ chức, trong mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau, tiền đề của nhau trong tồn tại và phát triển.
Tùy từng lĩnh vực mà các nhà lãnh đạo, quản lý có phương thức huy động năng lực sáng tạo của con người một cách phù hợp, thiết thực và hiệu quả. Khó có thể quy về phương thức chung cho các lĩnh vực riêng, đặc thù, trong đó có những con người khác nhau với tính chất hoạt động khác nhau. Người lao động trong nông nghiệp trước đây hay hiện nay, hay người nông dân thực thụ, gắn với ruộng đồng luôn có nhiều sáng tạo trong trồng trọt, chăn nuôi, thích ứng với đổi thay của thời tiết, khí hậu,... Có thể nói, không thiếu con người có khả năng sáng tạo mà là thiếu cách thức, phương thức huy động năng lực sáng tạo của con người một cách thiết thực, phù hợp, hiệu quả. Nói cách khác, cần có và đạt tới nghệ thuật lãnh đạo, quản lý đối với con người.
Vì thời gian nghiên cứu không dài và sự hiểu biết của em còn hết sức khiêm tốn nên chắc chắn bài làm không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự hướng dẫn của cô chỉ bảo để em hoàn thiện tiểu luận này được tốt hơn.
LÝ DO ĐỀ TÀI
Người thực hiện sứ mệnh dẫn dắt, điều hành một cộng đồng, một đơn vị theo định hướng được lựa chọn với mục tiêu cần đạt. Ở cấp độ khác nhau, ngành, lĩnh vực khác nhau, mỗi đơn vị với quy mô khác nhau, hoạt động hướng đích hay mục tiêu cần đạt tới cũng khác nhau.
Vì vậy, hoạt động của mỗi nhà lãnh đạo, quản lý nếu không gắn với mục tiêu cần đạt của tổ chức, của đơn vị sẽ trở thành loại hoạt động tự thân. Cho nên mỗi nhà lãnh đạo, quản lý, với tư cách người có thẩm quyền, nhiệm vụ, cần xác định đúng đắn những mục tiêu cho đơn vị và tổ chức, dẫn dắt cộng đồng dưới quyền hướng tới mục tiêu đã được lựa chọn.
Mà, đối tượng hướng đính của lãnh đạo, quản lý là con người xã hội, con người lại là một thực thể đa dạng về tâm lý, tính cách, nhu cầu lợi ích, thói quen do vậy lãnh đạo, quản lý cũng đa dạng, phong phú, năng động, linh hoạt; không được máy móc, cứng nhắc, rập khuôn; đòi hỏi phải có văn hóa ứng xử, văn hóa chính trị, văn hóa dân chủ cao của người lãnh đạo và người bị lãnh đạo, quản lý.
Người lãnh đạo, quản lý phải chú ý, biết kết hợp hài hòa giữa phong cách lãnh đạo, quản lý khác nhau tương ứng với từng tình huống, từng đối tượng trong quá trình lãnh đạo, quản lý. Việc áp dụng một kiểu phong cách lãnh đạo nào đó vào trong hoạt động lãnh đạo, quản lý trong thực tiễn không đơn giản, mà đòi hỏi người quản trị phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo để tìm ra kiểu phong cách thích hợp tùy vào điều kiện, tình huống cụ thể của đơn vị, cơ quan.
Người lãnh đạo, quản lý cần nắm vững khoa học và nghệ thuật trong giao tiếp để thực hiện hoạt động gián tiếp nhiệm vụ của người lãnh đạo, quản lý là dẫn dắt, định hướng; huy động, phối hợp sức mạnh của mọi người và tập thể để thực hiện mục tiêu của tổ chức; vì có tính gián tiếp nên hoạt động lãnh đạo, quản lý thường tiến hành chủ yếu thông qua hoạt động giao tiếp. Giao tiếp là một hoạt động quan trọng trong lãnh đạo, quản lý; đó là một vấn đề mang tính khoa học và nghệ thuật. Một vấn đề quan trọng nữa trong lãnh đạo, quản lý là cách dùng người để thực thi mục tiêu của đơn vị, tổ chức, vì lãnh đạo, quản lý không thể làm tất cả, thành công là nhờ dùng người. Nó đòi hỏi phải hiểu cấp dưới, biết phân công, phân cấp công việc cho phù hợp với sở trường, sở đoản của từng đối tượng; biết phát hiện, sử dụng người; đào tạo, bồi dưỡng, động viên, khích lệ thể hiện đúng như một người nhạc trưởng trong chỉ huy dàn nhạc giao hưởng. Từ đó, ta thấy lãnh đạo, quản lý không còn là một vấn đề đơn thuần nữa, mà đã trở thành một khoa học và nghệ thuật trong lãnh đạo quản lý. Từ tất cả dẫn dắt trên em chọn nghiên cứu Chuyên đề: “Khoa học và nghệ thuật trong lãnh đạo, quản lý, vận dụng vào thực tiễn của cơ quan”.
Phần 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHOA HỌC VÀ NGHỆ THUẬT
TRONG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
1. Khái niệm khoa học và nghệ thuật trong lãnh đạo, quản lý
Khoa học và nghệ thuật lãnh đạo, quản lý là các kỹ năng vận dụng tri thức, kiến thức khoa học lãnh đạo, quản lý một cách chủ động, sáng tạo, phù hợp và hiệu quả trong việc huy động nguồn lực con người và mọi nguồn lực nhằm đạt mục tiêu đã đề ra.
Khoa học và nghệ thuật trong lãnh đạo, quản lý, suy đến cùng là nghệ thuật làm việc, ứng xử, phát huy tiềm năng con người cho sự phát triển. Đối tượng tác động tổ chức, điều hành trong lãnh đạo, quản lý là con người, là các nguồn lực và phương tiện mà con người sử dụng để tạo ra sản phẩm cho nhu cầu của xã hội, trong đó con người là trung tâm. Do đó, thực chất của khoa học và nghệ thuật trong lãnh đạo, quản lý là nghệ thuật ứng xử với con người trong tổ chức, trong đơn vị sao cho con người làm việc hết mình, say mê sáng tạo cao nhất, đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển nói chung, từng đơn vị nói riêng. Thiếu vắng con người với vị trí trung tâm của đối tượng lãnh đạo, quản lý thì khái niệm khoa học và nghệ thuật lãnh đạo, quản lý trở nên vô nghĩa, trống rỗng, không có lý do xuất hiện khái niệm này.
2. Đặc điểm khoa học và nghệ thuật trong lãnh đạo, quản lý
“Nghệ thuật” làm việc với con người, một mặt con người vừa là đối tượng, mặt khác lại vừa là trung tâm của sự lãnh đạo, quản lý, do đó nhà lãnh đạo, quản lý cần: biết lắng nghe nguyện vọng thực sự mỗi người và cộng đồng người; biết phát huy, khai thác, sử dụng đúng năng lực sáng tạo, sở trường, sở đoản từng người.
Trên cơ sở đó quy tụ, cố kết, định hướng mọi người vào mục tiêu cần đạt của mỗi đơn vị và tạo điều kiện, môi trường để mọi người làm việc “say mê sáng tạo” cao nhất.
Từ đó, có thể thấy đặc điểm của nghệ thuật lãnh đạo, quản lý gồm:
Một, mang tính thực tiễn. Thực tiễn ngành, lĩnh vực, trình độ đội ngũ con người trong tổ chức, trong đơn vị quy định cách thức, phương thức ứng xử, lãnh đạo, quản lý thích hợp, hữu hiệu.
Hai, mang tính sáng tạo, năng động. Không dập khuôn, máy móc, cứng nhắc về một phương thức lãnh đạo, quản lý cho dù thành công và hiệu quả.
3. Vai trò của khoa học và nghệ thuật trong lãnh đạo, quản lý con người
Khoa học và Nghệ thuật lãnh đạo, quản lý con người có vai trò to lớn và ngày càng có vị trí quan trọng. Bởi thời đại xã hội thông tin, tri thức đã và đang trở thành nguồn lực cơ bản, hàng đầu của mọi sự phát triển. Tri thức tồn tại trong con người và khai thác tri thức trong con người cho phát triển lại tùy thuộc vào nghệ thuật khích lệ, động viên sao cho con người làm việc “say mê sáng tạo”.
Vai trò của nghệ thuật lãnh đạo, quản lý con người thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:
- Gắn kết, thống nhất mọi người thành một khối, tạo sức mạnh đồng thuận to lớn;
- Khai thác, phát huy tối đa năng lực sáng tạo mỗi người và của cộng đồng tổ chức, đơn vị;
- Tạo sự thống nhất, đoàn kết, tin tưởng giữa các nhà lãnh đạo, quản lý với mọi người trong mỗi tổ chức, mỗi đơn vị;
- Là phương thức, cách thức đạt mục tiêu hữu hiệu nhất.
Bởi nhà lãnh đạo, quản lý là người xác định mục tiêu cần đạt của mỗi tổ chức, đơn vị, song không tự hành động để đạt mục tiêu, vì đó là người lãnh đạo, quản lý yếu kém, tự biến thành người thừa hành. Họ đạt mục tiêu thông qua cộng đồng dưới quyền, thông qua những người trong đơn vị, trong tổ chức mà lãnh đạo, quản lý có quyền lực chi phối, tác động, dẫn dắt theo những cách thức, phương thức thích hợp, hiệu quả. Cộng đồng của đơn vị, nếu thiếu sự lãnh đạo, quản lý, định hướng đúng đắn, sẽ hoạt động một cách thụ động, vô hướng, phân tán, phi mục tiêu. Vì vậy nghệ thuật lãnh đạo, quản lý là phương thức, cách thức dẫn dắt cộng đồng tiến tới mục tiêu một cách thiết thực, hiệu quả.
Phần 2
PHÂN TÍCH VỀ KHOA HỌC VÀ NGHỆ THUẬT
TRONG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
1. Nội dung chủ yếu khoa học và nghệ thuật trong lãnh đạo, quản lý
Nghệ thuật lãnh đạo, quản lý con người thể hiện ở nhiều nội dung, với nhiều giác độ khác nhau. Được gọi là nghệ thuật lãnh đạo, quản lý đối với con người bởi tính đa dạng, phong phú về nội dung, về hình thức ứng xử, lôi cuốn cộng đồng.
Có thể nêu ra một số nội dung chủ yếu về nghệ thuật lãnh đạo, quản lý sau:
Một là, biết coi trọng con người, lắng nghe nguyện vọng thực sự họ và phát huy, khai thác, sử dụng đúng năng lực sáng tạo, sở trường, sở đoản của từng người.
Phải tuân thủ, coi trọng và đề cao con người, bởi đó là lý do tồn tại, cần thiết và hiện diện của lãnh đạo, quản lý. Coi trọng con người, đề cao con người và và phát huy, khai thác, sử dụng đúng năng lực sáng tạo, sở trường, sở đoản của từng người ở cả hai giác độ tiếp cận: Thứ nhất, với những người trong tổ chức, trong đơn vị, họ là người tạo ra sản phẩm dịch vụ, hàng hóa cho nhu cầu xã hội - ở tổ chức công quyền nhà nước, họ cung cấp dịch vụ công đối với công dân, ở đơn vị sản xuất hàng hóa, dịch vụ, họ cung cấp sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cho thị trường. Chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ phụ thuộc nhiều vào tinh thần, ý thức, năng lực và sự sáng tạo của người lao động. Họ sẽ làm việc hết mình nếu nhà lãnh đạo, quản lý luôn coi trọng họ, lo toan, chăm sóc đối với họ và họ sẵn sàng nhả các sợi tơ vàng. Vì vậy lãnh đạo, quản lý phải quý trọng đội ngũ nhân lực trong tổ chức, đơn vị; Thứ hai, đối với những người ngoài tổ chức, ngoài đơn vị. Đây là những người hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp sử dụng, tiêu dùng các hàng hóa, dịch vụ mà tổ chức, đơn vị cung cấp thông qua thị trường. Đó là yếu tố là lý do qui định sự xuất hiện và cần thiết đối với tổ chức, đơn vị cung cấp sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Vì vậy, theo như một nhà kinh doanh nổi tiếng Nhật Bản, chúng ta phải biết ơn người tiêu dùng. Đó chính là một nội dung quan trọng về nghệ thuật lãnh đạo, quản lý đáng để nghiên cứu, học tập và hành xử trong giao tiếp của lãnh đạo, quản lý với con người.
Con người vốn là thực thể xã hội luôn sáng tạo. Vấn đề là ở chỗ, nhà lãnh đạo, quản lý tạo môi trường và khích lệ họ như thế nào để họ không ngừng sáng tạo. Điều này cần:
(i) Tạo điều kiện, môi trường vật chất cần thiết, đủ cho sự sáng tạo của người và phù hợp với lĩnh vực hoạt động;
(ii) Tạo môi trường dân chủ, tự chủ, tôn trọng sự sáng tạo và cần khích lệ, động viên khi họ chưa thành công. Triết lý sáng tạo của Nhật Bản: Cho phép sai lầm, nhưng không nên lặp lại sai lầm. Nhờ triết lý đó mà đến nay, cộng đồng dân Nhật Bản vẫn được xếp loại có năng lực sáng tạo cao của thế giới.
Hai là, tạo sự thống nhất, thân thiện, tin tưởng giữa người lãnh đạo, quản lý với cộng đồng, với các nhóm, bộ phận trong đơn vị.
Lãnh đạo, quản lý với cộng đồng trong đơn vị vừa có khoảng cách đủ để phân biệt người nắm quyền lực và chi phối đơn vị bằng quyền lực, đồng thời nhà lãnh đạo, quản lý phải tạo ra sự hấp dẫn, thân thiện, gần gũi với cộng đồng, để họ kỳ vọng, tin tưởng vào lãnh đạo, quản lý rằng: trên con tàu đó có người thuyền trưởng đủ bản lĩnh, tài năng dẫn dắt họ hướng tới mục tiêu an toàn, hiệu quả.
Ba là, nhà lãnh đạo, quản lý luôn sáng tạo môi trường làm việc đam mê, hăng say nhất và có động lực cao nhất cho mọi người.
Nội dung trên đây đòi hỏi mỗi nhà lãnh đạo, quản lý cần có năng lực sáng tạo, đổi mới không ngừng để tạo ra môi trường làm việc với sự hấp dẫn tới mức đam mê, hăng say cao nhất. Điều đó có nghĩa là, về mặt xã hội, con người, họ được lãnh đạo, quản lý luôn tôn trọng, đề cao; công việc hấp dẫn; điều kiện vật chất, kỹ thuật và bầu không khí làm việc cởi mở, thân thiện, dân chủ; có triển vọng về học tập nâng cao trình độ chuyên môn, về tăng thu nhập và triển vọng thăng tiến trong nghề nghiệp.
Cần nhận thức đầy đủ, đúng đắn động cơ làm việc của người lao động trong mỗi tổ chức, đơn vị. Họ hành động, làm việc với mục tiêu mưu cầu lợi ích. Đó chính là động lực thúc đẩy họ làm việc với kết quả, hiệu quả khác nhau. Một trong các nhà tâm lý học nổi tiếng nghiên cứu nhu cầu của con người A.Maslow (1908-1970) về “Tháp nhu cầu” của con người, với 5 bậc thang từ thấp đến cao: Từ thỏa mãn như cầu sinh lý: ăn, mặc, ở, đi lại để tồn tại; nhu cầu an toàn; nhu cầu xã hội; nhu cầu tôn trọng đến bậc cao là nhu cầu tự thể hiện. Ông chỉ ra rằng đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu theo từng nấc thang sẽ khích lệ, động viên người lao động làm việc tốt hơn để đạt mức thỏa mãn nhu cầu bậc cao hơn.
Qua đó, các nhà lãnh đạo, quản lý có thể thấy được cơ sở, căn cứ vạch ra các qui định, thể chế, qui chế, phương pháp, công cụ, chính sách trong tổ chức, điều hành một cách thiết thực, hiệu quả ở mỗi đơn vị. Việc thỏa mãn nhu cầu theo thang bậc sẽ có tác động về khích lệ, động viên người lao động trong đơn vị hăng say, tự giác, tích cực đóng góp, cống hiến hết mình cho tổ chức, cho đơn vị.
Con người, yếu tố và tiềm năng con người trong phát triển kinh tế, xã hội đã được nhiều nhà khoa học, nhiều nhà lãnh đạo, quản lý các lĩnh vực đề cập.
Từ gần giữa thế kỷ XX trở về trước, trong quản lý, các nhà lãnh đạo, quản lý coi trọng máy móc, thiết bị, biến con người thành một phần, thành bộ phận gắn với máy móc khai thác mọi nguồn lực và để sản xuất ra của cải vật chất, làm giàu. Các nhà quản lý đã ứng xử thậm chí thô bạo, tàn ác với người lao động, đặc biệt rõ nhất trong các nhà máy, các doanh nghiệp ở các nước tư bản chủ nghĩa.
Phương thức ứng xử đó đã gây ra hệ lụy xấu, sự phản ứng của người lao động, của người “làm thuê” với nhiều hình thức, mức độ, thái độ khác nhau.
Ngược lại, từ giữa thế kỷ XX đến nay, nhiều thuyết lãnh đạo, quản lý hướng vào con người, coi trọng con người với tư cách nguồn lực đáng quí trọng nhất cho phát triển.
Đại biểu cho xu hướng này, có thể kể đến:
Chester Barnard (1886 - 1961) người Mỹ, với thuyết tổ chức.
Nền sản xuất Mỹ vào sau Thế chiến II đã phát triển đỉnh cao, hiện đại, với nhiều ngành, nghề, lĩnh vực mới. Cạnh tranh khốc liệt và người ta hướng vào chú trọng yếu tố tiềm năng con người. Nhiều ngành khoa học bổ trợ cho khoa học quản lý như xã hội học, tâm lý học...phát triển mạnh và đạt thành thành tựu mới đáng kể. Là một người tốt nghiệp đại học Harvard với chuyên ngành kinh tế, Barnard sớm trở thành nhà quản lý chuyên nghiệp, làm lãnh đạo và quản lý của nhiều công ty, nhiều tổ chức dịch vụ Mỹ,Ông đã nâng tầm lý thuyết quản lý trên nhiều khía cạnh một cách đáng khâm phục. Công trình tiêu biểu của C.Barnard gồm: Các chức năng của người lãnh đạo (1938); Tổ chức và quản lý (1948).
Đóng góp mới, cơ bản của C.Barnard cho lãnh đạo, quản lý ở các mặt:
(i) Nhận thức và quan điểm mới về tổ chức quản lý”
Quản lý một đơn vị, nhất là một doanh nghiệp không phải chỉ bằng hành chính thuần túy mà là quản lý một tổ chức những con người có ý thức, tư duy, có mục tiêu và động cơ độc lập. Vì vậy muốn quản lý hiệu quả cần hiểu rõ tổ chức và phát huy sức mạnh của tổ chức.
(ii) quan điểm mới về 3 yếu tố của tổ chức:
Đó là: Các cá nhân có ý nguyện hợp tác với nhau;
Có mục tiêu chung
Trao đổi thông tin với nhau
(iii) Lý luận về quyền lực của tổ chức:
Ông quan niệm lãnh đạo, quản lý bằng quyền lực, nhưng quyền lực phải được sử dụng theo hướng tác động tích cực tới động cơ làm việc và thái độ cá nhân của cấp dưới. Ông coi trọng yếu tố cần thiết tạo nên quyền lực và đảm bảo tính hiệu lực cao của quyền lực.
Đó là:
- Quyền hạn hay thẩm quyền đúng đắn.
- Dưới quyền đánh giá quyền lực được sử dụng đúng đắn và vì mục tiêu chung của tổ chức.
- Người dưới quyền coi đó là cơ sở hành động của họ;
Đảm bảo được và đảm bảo đúng các yếu tố đó thì quyền lực của lãnh đạo, quản lý được thực thi nghiêm minh, hữu hiệu.
Ngoài ra, chú trọng yếu tố và tiềm năng con người trong lãnh đạo, quản lý còn có lý thuyết của Mary Follet (1868 - 1933) người Mỹ, chuyên gia về tâm lý học; Henry Mintzberg (1935) người Canada là một giáo sư và là nhà quản lý với nhiều đóng góp hoàn thiện thuyết tổ chức của C.Barnard; Douglas McGregor (1906 - 1964) người Mỹ, nhà Tâm lý học và nhà khoa học quản lý nổi tiếng. Ông có quan điểm coi trọng nhân tố con người, họ có tính tích cực, chủ động, sáng tạo, vượt khó khăn;
Do vậy, nhà lãnh đạo, quản lý phải biết khơi dậy tiềm năng của họ, phải có nghệ thuật lãnh đạo, quản lý thực thụ.
Những tư tưởng, quan điểm tiếp cận trên đây có thể được coi là cơ sở lý luận để các nhà lãnh đạo, quản lý vận dụng, sáng tạo trong điều kiện, môi trường mới về “Nghệ thuật lãnh đạo, quản lý” của họ.
Ngoài tạo động lực, sức sáng tạo cho cộng đồng còn phải phối hợp các hoạt động các của cá nhân với cá nhân, giữ cộng đồng, đơn vị với nhau, định hướng, dẫn dắt cộng đồng đạt mục tiêu, đi đúng hướng trong hoạt động nhằm đen lại hiệu quả cao cho cá nhân, xã hội.
Đây là việc điều chỉnh, khớp nối hoạt động của các cá nhân trong một tổ chức, một đơn vị, bảo đảm cho hoạt động giữa họ ăn khớp, nhịp nhàng. Đặc biệt trong các hoạt động chung, nhiều người, có trình độ chuyên môn hóa cao. Bất kỳ một trục trặc, ùn tắc, chậm chạp nào trong cả dây chuyền – trong cơ quan công quyền hay tổ chức kinh tế - hoạt động liên tục, sẽ gây cản trở và ảnh hưởng tới mục tiêu cần đạt.
Phối hợp, ở góc độ tiếp cận khác, đó còn là sự hợp tác chặt chẽ giữa các bộ phận, giữa các khâu được chuyên môn hóa cao.
Vì vậy, một mặt tổ chức, điều hành hữu hiệu đòi hỏi nhà lãnh đạo, quản lý phải có năng lực, nhạy cảm, tiên lượng tốt tình huống có thể có. Mặt khác, các bộ phận, các khâu nhận thức đúng đắn và hợp tác chặt chẽ trong các hoạt động tác nghiệp của mình với các bộ phận, các khâu khác trong đơn vị.
Mỗi đơn vị với quy mô khác nhau, dù là một cộng đồng có cùng chí hướng nhưng là những cá thể khác nhau, họ cần được tổ chức lại, hoạt động theo các quy định, kế hoạch của tổ chức, chịu sự lãnh đạo, quản lý nhất định.
Hoạt động lãnh đạo, quản lý là hoạt động hướng đích, có mục tiêu định trước. Nhưng để đạt mục tiêu đề ra, nhà lãnh đạo, quản lý có năng lực hoặc là người giỏi giang định hướng, dẫn dắt cộng đồng hướng vào mục tiêu chứ không phải tự mình đạt mục tiêu. Cộng đồng được định hướng, khích lệ đúng mức, họ sẽ làm việc say mê, sáng tạo và đó là tiền đề của hiệu quả cao.
Bốn là, lãnh đạo, quản lý kiểm tra, đánh giá hoạt động của cá nhân, cộng đồng để có giải pháp kiểm điểm những sai phạm, phát hiện và điều chỉnh những lệch lạc và tuyên dương, khen thưởng, thăng chức cho những cá nhân, tập thể làm đúng, làm tốt, từ đó có thể nhân rộng, phát triển mô hình; khen, chê phải đảm bảo công bằng, minh bạch, đúng người, đúng tổ chức.
Mọi hoạt động lãnh đạo, quản lý với bất kỳ loại hình đơn vị, tổ chức, hay ở cấp nào, đều gắn với hoạt động kiểm tra, đánh giá. Nhưng kiểm tra, đánh giá phải luôn gắn với đơn vị và gắn với hoạt động nhất định, gắn với kết quả nhất định.
Không xác định rõ đơn vị, không rõ về tổ chức điều hành lãnh đạo, quản lý của đơn vị, sẽ không có căn cứ, cơ sở để thực hiện kiểm tra, đánh giá hoạt động của lãnh đạo, quản lý.
2. Phương thức khoa họ