Trong nền kinh tế thị trường ngày nay các doanh nghiệp được quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh và Nhà nước chỉ đóng vai trò định hướng, điều tiết thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô. Chính sách kinh tế mở cửa mang lại nhiều cơ hội song cũng đem đến không ít những khó khăn, thách thức. Lúc này các doanh nghiệp phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh, buộc các doanh nghiệp phải có chiến lược và kế hoạch kinh doanh đúng đắn để phát huy mọi tiềm năng bên trong cũng như nắm bắt các thuận lợi, khắc phục các trở ngại khó khăn để tồn tại và phát triển
Mọi quá trình sản xuất phải có sự kết hợp của 3 yếu tố: lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong đó lao động là yếu tố đóng vai trò quyết định và là động lực quyết định của mọi quá trình sản xuất kinh doanh.
Tiền lương là thu nhập bằng tiền của người lao động được người sử dụng lao động trả tùy theo giá trị và giá trị sử dụng của sức lao động đồng thời tuân theo quy định của pháp luật về lao động. Tiền lương phải thỏa mãn được các yêu cầu sau:
+ Tiền lương cần phải phản ánh những yêu cầu của quy luật thị trường với hàng hóa sức lao động, đó phải là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động. Tiền lương trả cho người lao động phải tương xứng với những chi phí mà xã hội, gia đình và cá nhân người lao động đã bỏ ra.
+ Tiền lương phải thể hiện được chức năng định hướng của nhà nước đó là khi chỉ số giá tiêu dùng tăng lên làm cho tiền lương thực tế của người lao động bị giảm sút, chính phủ phải điều chỉnh mức lương tối thiểu nhằm đảm bảo tiền lương thực tế.
Kế hoạch lao động tiền lương là một bộ phận của kế hoạch kinh doanh hàng năm của doanh nghiệp. Nó xác định những chỉ tiêu về lao động, tiền lương, đảm bảo kế hoạch sản xuất sản phẩm và dịch vụ. Kế hoạch lao động gắn liền với kế hoạch tiền lương và có nhiệm vụ không ngừng khai thác những khả nảng tiềm tàng trong doanh nghiệp, nhằm giảm tiêu hao thời gian lao động cho sản xuất 1 đơn vị sản phẩm thông qua kế hoạch hóa những chỉ tiêu về lao động và tiền lương.
35 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 8734 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Lập kế hoạch lao động và tiền lương của tổng công ty dung dịch khoan và hóa phẩm dầu khí CTCP, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
B. NỘI DUNG
Sự cần thiết của việc lập kế hoạch và tiền lương
Trong nền kinh tế thị trường ngày nay các doanh nghiệp được quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh và Nhà nước chỉ đóng vai trò định hướng, điều tiết thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô. Chính sách kinh tế mở cửa mang lại nhiều cơ hội song cũng đem đến không ít những khó khăn, thách thức. Lúc này các doanh nghiệp phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh, buộc các doanh nghiệp phải có chiến lược và kế hoạch kinh doanh đúng đắn để phát huy mọi tiềm năng bên trong cũng như nắm bắt các thuận lợi, khắc phục các trở ngại khó khăn để tồn tại và phát triển
Mọi quá trình sản xuất phải có sự kết hợp của 3 yếu tố: lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong đó lao động là yếu tố đóng vai trò quyết định và là động lực quyết định của mọi quá trình sản xuất kinh doanh.
Tiền lương là thu nhập bằng tiền của người lao động được người sử dụng lao động trả tùy theo giá trị và giá trị sử dụng của sức lao động đồng thời tuân theo quy định của pháp luật về lao động. Tiền lương phải thỏa mãn được các yêu cầu sau:
+ Tiền lương cần phải phản ánh những yêu cầu của quy luật thị trường với hàng hóa sức lao động, đó phải là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động. Tiền lương trả cho người lao động phải tương xứng với những chi phí mà xã hội, gia đình và cá nhân người lao động đã bỏ ra.
+ Tiền lương phải thể hiện được chức năng định hướng của nhà nước đó là khi chỉ số giá tiêu dùng tăng lên làm cho tiền lương thực tế của người lao động bị giảm sút, chính phủ phải điều chỉnh mức lương tối thiểu nhằm đảm bảo tiền lương thực tế.
Kế hoạch lao động tiền lương là một bộ phận của kế hoạch kinh doanh hàng năm của doanh nghiệp. Nó xác định những chỉ tiêu về lao động, tiền lương, đảm bảo kế hoạch sản xuất sản phẩm và dịch vụ. Kế hoạch lao động gắn liền với kế hoạch tiền lương và có nhiệm vụ không ngừng khai thác những khả nảng tiềm tàng trong doanh nghiệp, nhằm giảm tiêu hao thời gian lao động cho sản xuất 1 đơn vị sản phẩm thông qua kế hoạch hóa những chỉ tiêu về lao động và tiền lương.
Với tất cả những điều trên cho thấy việc lập kế hoạch lao động và tiền lương là rất cần thiết. Do đó chúng em đã lựa chọn chuyên đề “ Lập kế hoạch lao động và tiền lương của Tổng công ty Dung dịch khoan và hóa phẩm dầu khí – CTCP” năm 2011.
II. Cơ sở lý luận
Lao động:
1.1 Khái niệm lao động:
Để sản xuất của cải vật chất cho xã hội, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần phải có tư liệu lao động như nhà xưởng, máy móc, thiết bị…; cần đối tượng lao động như nguyên vật liệu, nhiên liệu… và sức lao động của con người. Lao động là yếu tố quyết định của quá trình sản xuất, là quá trình mà con người sử dụng tư liệu lao động tác động lên đối tượng lao động và biến đổi đối tượng lao động sao cho phù hợp với quá trình sản xuất kinh doanh để đem lại hiệu quả cao nhất. Trong quá trình lao động có sự hao phí về lao động, với mỗi loại công việc khác nhau, người lao động phải bỏ ra những hao phí lao động sống khác nhau để hoàn thành công việc đó.
Muốn sử dụng hiệu quả lao động, doanh nghiệp phải có những biện pháp quản lý, sử dụng lao động hợp lý, trong đó việc phân loại lao động để xác định cơ cấu nhân viên là điều cần thiết để quản lý và trả lương cho người lao động đúng với hao phí mà họ bỏ ra trong quá trình tham gia vào sản xuất kinh doanh.
Vậy lao động là hoạt động có mục đích của con người tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm. Trong quá trình sản xuất, lao động được thể hiện dưới dạng sức lao động.
1.2 Các loại mức lao động:
Mức lao động là một phân hệ của định mức kinh tế kỹ thuật, gồm những thông tin dùng để biểu thị hoặc định hướng hao phí lao động cần thiết lớn nhất để sản xuất ra đơn vị sản phẩm hoặc thực hiện khối lượng công tác đảm bảo cho những yêu cầu nhất định về chất lượng và phù hợp với những điều kiện khách quan về địa chất, tự nhiên, kỹ thuật, công nghệ và tở chức quản lý.
Trong thực tế, việc lập các mức lao động được tiến hành thông qua quá trình dự thảo và áp dụng các mức thời gian, mức sản phẩm và mức phục vụ.
Mức thời gian ( Mtg ): là số lượng thời gian cần thiết để công nhân sản xuất ra 1 đơn vị sản phẩm nào đó. Mức thời gian này không tính chung chung mà tính đến trang bị kỹ thuật cụ thể và trình độ tở chức lao động cụ thể.
Mức sản phẩm ( Msp ): là khối lượng sản phẩm mà một hay một nhóm công nhân sản xuất ra trong một đơn vị thời gian. Mức sản phẩm và mức thời gian có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mức thời gian càng thấp thì mức sản phẩm càng cao và ngược lại.
1.2.1 Ý nghĩa và nhiệm vụ của mức lao động
Thông qua mức lao động ta có thể tính toán được số lượng lao động cần thiết cho mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh trong tương lai. Điều này có liên quan đến số lượng lao động cần thiết cho từng bộ phận của doanh nghiệp.
Thông qua mức mới có thể quy định nhiệm vụ sản xuất cho từng nhân viên của Công ty. Chính mức này sẽ là tiêu chuẩn để đánh giá mức độ hoàn thành công việc của cán bộ công nhân viên, điều này làm họ quan tâm đến công việc của mình hon, nghĩa là năng suất lao động ngày càng tăng lên.
Mức lao động là căn cứ để xác định tiền lương phải trả cho cán bộ công nhân viên, do đó việc định mức không tốt sẽ ảnh hưởng đến công tác phân phối và tác động xấu đến năng suất lao đông.
Như vậy, có thể nói mức lao động là một công cụ quan trọng cho việc quản trị doanh nghiệp, giúp cho việc hoạch định cũng như việc kiểm soát điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tất cả những nhiệm vụ này của mức lao động chỉ được hoàn thành tốt khi chúng là các mức tiến bộ. Mức tiến bộ là những mức phù hợp với mức độ tổ chức , kỹ thuật đạt được.
1.2.2 Vai trò của công tác định mức lao đông
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của tổ chức là tiết kiệm thời gian làm việc, những hao phí lao động cần thiết để tạo ra sản phẩm hay hoàn thiện trong các mức. Chính sự thể hiện đó đã làm cho định mức lao động có quan hệ chặt chẽ đến tổ chức lao động khoa học.
Vai trò của định mức lao động còn thể hiện rõ ở nọi dung phân công và hợp tác lao động để hoàn thành chức năng phục vụ sản xuất sao cho hợp lý hơn.
Nói cách khác, nhờ mức lao động mà sự phân chia trách nhiệm giữa nhân công chính và nhân công phụ trong doanh nghiệp đúng đắn hơn. Mức lao động là cơ sở để hình thành các tổ đội sản xuất. Việc phân chia trách nhiệm trong mỗi thành viên của tổ đội cũng phải căn cứ vào các mức lao động và khả nảng thay thế cho nhau trong quá trình sản xuất. Phân đúng chức năng lao động cũng là đảm bảo hợp lý lao động làm việc năng động hơn.
Tiền lương
2.1 Khái niệm tiền lương:
Tiền lương là hình thức trả lương cho người lao động. Đó là số tiền mà các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp trả cho công nhân viên chức theo số lượng và chất lượng lao động họ đã đóng góp.
Về bản chất, tiền lương trong doanh nghiệp là một phần giá trị lao động mới tạo ra trong quá trình sản xuất sản phẩm, là kết quả của quá trình phân phối lần đầu tiên diễn ra tại doanh nghiệp. Thông qua tiền lương có thể đánh giá được quy mô lao động, chất lượng lao động và phần nào phản ánh được đời sống của người lao động và phần nào phản ánh được đời sống của người lao động trong các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế xã hội…
Khi xây dựng tiền lương phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
Phân phối theo lao động kết hợp với đảm bảo nhu cầu cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
Tiền lương phải phù hợp với hoàn cảnh của mỗi quốc gia.
Mức tiền lương phải đảm bảo quan hệ đúng mức của mọi người lao động trong xã hội.
Thang bậc lương cơ bản của Nhà nước quy định. Nhà nước khống chế mức lương tối thiểu nhưng không khống chế mức lương tối đa mà điều tiết bằng thuế thu nhập.
2.2 Ý nghĩa của tiền lương.
Tiền lương được trả theo nguyên tắc phân phối lao động nên có ý nghĩa lớn đến sản xuất và người lao động. Tiền lương có ý nghĩa sau:
Bù đắp hao phí lao động đã bỏ ra trong quá trình lao động. Lao động là một yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, người lao động sử dụng tiền lương của mình để bù đắp lại các hao phí năng lượng về cả trí lực và cường lực, đồng thời để nuôi sống gia đình. Dự bù đắp làm cho họ tiếp tục lao động lien tục, sáng tạo và lâu dài.
Tiền lương trả hợp lý làm cho người lao động quan tâm đến sản xuất, kết quả sản xuất, không ngừng nâng cao trình độ, tăng thu nhập.
Tiền lương là đòn bẩy kinh tế để phân bố và tổ chức lại lao động giữa các ngành và các khu vực sản xuất một cách hợp lý.
2.3 Các hình thức trả lương.
2.3.1 Hình thức trả lương theo sản phẩm:
Trong hình thức này, tiền công của người lao động sẽ phụ thuộc trực tiếp vào số lượng đơn vị sản phẩm được sản xuất ra và đơn giá công cho một đơn vị sản phẩm. Công thức tính:
Trong đó: +) TC : tiền công
+) ĐG : đơn giá
+) Qtt : số lượng sản phẩm thực tế.
Đơn giá được tính bằng cách chia mức lương của các công việc cho số đơn vị sản phẩm định mức mà người lao động có nghĩa vụ phải sản xuất trong một giờ hoặc nhân mức lương giờ của công việc đối với số giờ định mức để sản xuất một đơn vị sản phẩm.
Các mức lao động này thể hiện khối lượng sản phẩm mà người lao động cần sản xuất ra trong một đơn vị thời gian (hay lương thời gian được phép hao phí cho một đơn vị sản phẩm) với nhịp độ làm việc bình thường và thường được xác định bằng các phương pháp nghiên cứu thời gian (chụp ảnh ngày làm việc và bấm giờ thời gian làm việc) và nghiên cứu chuyển động.
Hình thức trả công theo sản phẩm có thể thực hiện theo nhiều chế độ khác nhau, tùy thuộc vào đối tượng trả công. Dưới đây là một số chế độ đã và đang được áp dụng trong sản xuất:
+) Chế độ trả công theo sản phẩm trực tiếp cá nhân: chế độ trả lương này thường áp dụng đối với những công nhân sản xuất chính mà công việc của họ mang tính chất độc lập tương đối, có thể xác định mức và kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm một cách cụ thể và riêng biệt. tùy vào điều kiện sản xuất và quan điểm khuyến khích lao động của doanh nghiệp, người lao động có thể được trả công theo đơn giá cố định, lũy tuyến hay lũy thoái. Đơn giá cố định được tính theo công thức sau đây:
hoặc
Trong đó:
ĐG: đơn giá sản phẩm
L: Mức lương cấp bậc của công việc
Q: Mức sản lượng
T: mức thời gian tính theo giờ.
+) Chế độ trả công theo sản phẩm tập thể: chế độ trả lương này thường áp dụng với những công việc cần một nhóm công nhân, đòi hỏi sự phối hợp giữa các công nhân và năng suất lao động chủ yếu phụ thuộc vào sự đóng góp của cả nhóm như lắp ráp các thiết bị, sản xuất ở các bộ phận làm theo dây chuyền, trông nom máy liên hợp,…Đơn giá này được tính theo công thức: hoặc
Trong đó:
ĐG: đơn giá sản phẩm tính theo tập thể.
∑Li : tổng lương cấp bậc của cả nhóm.
Li : lương cấp bậc của công việc bậc i.
n: số công việc trong tổ.
L( trung bình) : lương cấp bậc công việc bình quân của cả tổ.
T : mức thời gian của sản phẩm
+) Chế độ trả công theo sản phẩm gián tiếp: chế độ trả công này chỉ áp dụng cho những công nhân phụ mà công việc của họ có ảnh hưởng nhiều đến kết quả lao động của những công nhân chính hưởng tiền công theo sản phẩm, như công nhân sửa chữa, phục vụ máy sợi, máy dệt trong nhà máy dệt, công nhân điều chỉnh thiết bị trong nhà máy cơ khí,… Đặc điểm của chế độ trả công này là thu nhập về tiên công của công nhân phụ lại tùy thuộc vào kết quả sản xuất của công nhân chính. Do đó, đơn giá tính theo công thức sau:
Trong đó:
ĐG: đơn giá tính theo sản phẩm gián tiếp.
L; Lương cấp bậc của công nhân phụ.
Q: mức sản lượng của công nhân chính.
M: số máy phục vụ cùng loại.
+) Chế độ trả công theo sản phẩm có thưởng: chế độ trả công này, về thực chất là chế độ trả công theo sản phẩm kể trên kết hợp với các hình thức tiền thưởng. Khi áp dụng chế độ trả công này, toàn bộ sản phẩm được áp dụng theo đơn giá cố định, còn tiền thưởng sẽ căn cứ vào trình độ hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu về số lượng của chế độ tiền lương quy định. Tiền công trả theo sản phẩm có thưởng (Lth) tính theo công thức:
Lth
+ Chế độ trả công khoán: Chế độ trả công khoán áp dụng cho những việc nếu giao từng chi tiết, từng bộ phận sẽ không có lợi mà phải giao toàn bộ khối lượng cho công nhân hoàn thành trong một thời gian nhất định. Chế độ trả công này được áp dụng chủ yếu trong xây dựng cơ bản và một số công việc trong nông nghiệp. Trong công nghiệp thường dung cho các công việc sửa chữa, lắp ráp các sản phẩm, máy móc, thiết bị… Đơn giá khoán có thể được tính theo đơn vị công việc như xây 1m2 tường hoặc cũng có thể tính cho cả khối lượng công việc hay công trình như lắp ráp một số sản phẩm, hoặc xây tường hoặc lắp cấu kiện bê tong của một gian nhà. Tiền công sẽ được trả theo khối lượng công việc mà công nhân hoàn thành ghi trong phiếu giao khoán. Chế độ trả công này có thể áp dụng cho cá nhân hoặc tập thể. Nếu đối tượng nhận khoán là tập thể, nhóm thì cách tính đơn giá cách phân phối tiền công cho công nhân trong tổ nhóm giống như chế độ tiền công tính theo sản phẩm tập thể.
2.3.2 Hình thức trả công theo thời gian:
Trong hình thức trả công theo thời gian, tiền công của công nhân được tính toán dựa trên cơ sở mức tiền công đã được xác định cho công việc và số đơn vị thời gian ( giờ hoặc này ) thực tế làm việc, với điều kiện họ phải đáp ứng các tiêu chuẩn thực hiện công việc tối thiểu đã được xây dựng trước nếu muốn tiếp tục được nhận mức tiền công cho công việc đó. Tiền công trả theo thời gian thường được áp dụng cho công việc sản xuất nhưng khó tính được cụ thể; hoặc các công việc đòi hỏi chất lượng cao, các công việc mà năng suất, chất lượng phụ thuộc chủ yếu vào máy móc, thiết bị hay các hoạt động tạm thời, sản xuất thử.
III. Lập kế hoạch lao động và tiền lương của Tổng công ty Dung dịch khoan và Hóa phẩm Dầu khí – CTCP (DMC) năm 2011
1. Căn cứ lập kế hoạch lao động và tiền lương:
1.1 Các quy định của pháp luật và các chế độ chính sách của nhà nước:
Bất cứ doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh cũng phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật. Về lao động, tiền lương thì phải tuân theo các quy định về quản lý và sử dụng lao động, các quy định về trả lương nhằm đảm bảo thực hiện các chính sách cho người lao động một cách ổn thỏa. Trong phạm vi nội dung chuyên đề nghiên cứu tác giả đã sử dụng các nghị định và thông tư sau:
+ Nghị định số 206/2004/NĐ-CP ngày 14-12-2004 của chính phủ quy định quản lý lao động, tiền lương và thu nhập trong các công ty Nhà nước.
+ Nghị định 207 ngày 14-12-2004 quy định chế độ tiền lương, tiền thưởng và chế độ trách nhiệm đối với các thành viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc, giám đốc công ty nhà nước.
+ Thông tư 06/2005/TT-BLĐTBXH hướng dẫn xây dựng định mức lao động trong các Công ty nhà nước.
+ Thông tư 07/2005/TT-BLĐTBXH quy định quản lý lao động- tiền lương và thu nhập trong các Công ty nhà nước.
+ Thông tư 09/2005/TT-BLĐTBXH hướng dẫn tính năng suất lao động bình quân và tiền lương bình quân trong các Công ty nhà nước.
+ Nghị định số 62/2009/NĐ-CP ngày 27/07/2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật bảo hiểm y tế.
+ Nghị định số 33/2009 NĐ-CP quy định về mức lương tối thiểu chung.
+ Nghị định số 97/2009 NĐ-CP quy định về mức lương tối thiểu vùng.
+ Thông tư: 35/2009/TT-BLĐTBXH và 36/2009/TT-BLĐTBXH hướng dẫn thực hiện mức lương tối thiểu 2010 cho tất cả các tổ chức công ty Nhà nước, tư nhân, hợp tác xã, trang trại...
+ Nghị định 76/2009 NĐ-CP áp dụng từ ngày 01/11/2009 về chế độ tiền lương đối với cán bộ công chức.
+ Quy chế trả lương, trả thưởng của Tổng công ty DMC được ban hành kèm theo quyết định số 20/QĐ – DMC ngày 16/11/2009 của hội đồng quản trị Tổng công ty.
1.2 Hệ thống định mức kinh tế - kĩ thuật:
Định mức kinh tế kĩ thuật trước là số lượng lao động tối đa không được phép vượt quá để làm ra một đơn vị sản phẩm. Đây là căn cứ để xác định các chỉ tiêu không chính xác. Không những thế, còn làm cho sử dụng lãng phí vật tư, lao động, tiền vốn. Để việc lập kế hoạch sát với thực tế và có hiệu quả thì phải sử dụng những định mức tiên tiến. Do vậy, trước khi lập kế hoạch phải rà soát lại các định mức
Bảng định mức lao động của DMC
STT
Chỉ tiêu
ĐVT
Định mức
1
Khâu tuyển rửa
công/tấn
0,3125
2
Khâu nghiền quặng
công/tấn
0,2857
3
Khâu phối trộn phụ gia
công/tấn
0,2381
4
Khâu đóng gói sản phẩm
công/tấn
0,2242
1.3 Tình hình thực hiện công tác lao động – tiền lương của Công ty năm 2010:
Phải xem xét mức độ thực hiện công tác của Tổng công ty trong năm 2010 để thấy được mức độ thực hiện và hoàn thành kế hoạch như thế nào để có hướng điều chỉnh trong năm 2011 cho phù hợp. Mức độ thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu của Tổng công ty theo kế hoạch năm 2010 là:
Bảng tổng hợp thực hiện một số chỉ tiêu của DMC so với kế hoạch 2010:
Chỉ tiêu
ĐVT
2010
TH 2010/ KH 2010
Kế Hoạch
Thực Hiện
+_
%
Sản lượng sản xuất
Tấn
75.000
75.001
0.001
100
Sản lượng tiêu thụ
Tấn
150.000
180.000
30.000
120
Tổng doanh thu
Tỷ đồng
684,39
1.750
1065,61
255,7
Lao động
Người
700
702
2
100,43
Tổng quỹ lương
Triệu đồng
56.600
56.600
0
100
Tiền lương bình quân
Trđ/ng-tháng
6,74
6,82
0,07
101,19
Qua bảng tổng hợp việc thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch của DMC ta thấy: các chỉ tiêu về lao động và tiền lương của DMC
được thực hiện tương đối sát với kế hoạch, không có thay đổi nhiều so với kế hoạch.
1.4 Kế hoạch sản xuất kinh doanh của Tổng công ty trong năm 2011:
Việc mở rộng hay thu hẹp hoạt động sản xuất, áp dụng công nghệ khai thác ảnh hưởng đến việc tổ chức lao động tiền lương trong doanh nghiệp. Do đó để lập được kế hoạch lao động và tiền lương phải dựa vào kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Bảng một số chỉ tiêu kế hoạch của DMC năm 2011
Chỉ tiêu
ĐVT
KH 2011
Sản lượng sản xuất
Tấn
86.250
Sản lượng tiêu thụ
Tấn
255.000
Tổng doanh thu
Tỷ đồng
2.030
Lao động
Người
720
2. Trình tự lập kế hoạch lao động và tiền lương:
Trình tự lập kế hoạch lao đông và tiền lương trong chuyên đề được thực hiện theo lưu đồ sau:
2.1 lập kế hoạch lao động:
2.1.1 lập kế hoạch thời gian sử dụng lao động :
Nhiệm vụ trong nội dung này là phải xác định tổng số ngày làm việc và số ngày vắng mặt bình quân của một công nhân theo các lý do : ngỉ phép năm , ốm , ngỉ chế độ nữ , ngỉ công tác hội họp . đây là cơ sở để xác định số lao động theo danh sách .
+ số ngày ngỉ ốm tính bình quân cho 1 lao động trong năm được lấy theo thống kê kinh ngiệm của năm trước là 5 ngày .
+ số ngày ngỉ hội họp và công tác khác cũng lấy theo kinh ngiệm năm trước là 2 ngày .
+ số ngày ngỉ chế độ nữ thì căn cứ vào kế hoạch nghỉ sinh mà lao đọng nữ đang ký . theo chế độ nhà nước quy định hiện nay cho nghỉ chế độ nữ là 4 tháng /1 chị.
Theo đăng ký trong năm 2010 sẽ có 8 lao động nữ nghỉ sinh con .vậy tính bình quân số ngày nghỉ nữ cho một lao động là :
N = ( ngày )
+ số ngày ngỉ phép bình quân tính cho mỗi lao động theo quy định là :
12 ngày đối với những lao động làm việc trong điều kiện bình thường .
14 ngày đối với những người làm công việc nặng nhọc , độc hại , nguy hiểm như ; công nhân hóa chất , công nhân phối trộn , công nhân vệ sinh công nghiệp trong kho , công nhân lái xe ….
16 ngày đối với những người làm việc đặc biệt nặng nhọc độc hại , nguy hiểm như : công nhân lái xe trọng tải 20 tấn trở lên ….
Số ngày nghỉ hàng năm, được tăng lên theo thâm liên làm việc , cứ 5 năm làm việc được ngỉ thêm một ngày .
Đối với tổng công ty DMC ,tính đến ngày 31/12/2010 có 702 CBCNV. Trong đó : 288 người nghỉ phép 12 ngày , 101 người nghỉ phép 13 ngày , 155 người ngỉ phép 14 ngày , 82 người ngỉ phép 15 ngày , 39 người ngỉ phép 16 ngày , 21 người ngỉ phép 17 ngày , 19 người ngỉ phép 18 ngày . vậy ngày ngỉ phép bình quân của cán bộ công nhân viên là :
( ngày )
Bảng kế hoạch số ngày vắng mặt bình quân năm 2011 :
T