Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, mà đỉnh cao là trở thành thành viên của WTO, hệ thống ngân hàng đang đẩy mạnh thực hiện đề án tái cơ cấu toàn ngành, thực hiện mục tiêu theo phương châm kinh doanh chất lượng – tăng trưởng - bền vững, hiệu quả và an toàn.
Kinh doanh chất lượng gắn liền với giải pháp đa dạng hoá các nghiệp vụ ngân hàng. Bên cạnh những nghiệp vụ truyền thống, các ngân hàng đã và đang áp dụng thêm nhiều nghiệp vụ mới có tính chất hiện đại, trong đó có nghiệp vụ bảo lãnh. Ra đời vào khoảng những năm 70 của thế kỷ XX, bảo lãnh ngân hàng ngày càng phát triển và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Cho đến nay, tại các nước phát triển, nó đã trở thành một trong các nghiệp vụ phi tín dụng phát triển nhất với doanh số liên tục tăng trong những năm qua. Đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam, tuy mới xuất hiện trong một vài năm trở lại đây, nhưng nó đóng vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế, giúp cho doanh nghiệp phát triển nguồn vốn dễ dàng hơn, đồng thời đem lại khoản thu không nhỏ cho ngân hàng.
Trong quá trình thực tập tại ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội (Ha bubank), thấy được tầm quan trọng của nghiệp vụ bảo lãnh, với sự giúp đỡ tận tình của cán bộ ngân hàng tại Habubank và giáo viên hướng dẫn, qua thực tế tìm hiểu, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Mở rộng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội”
Tuy nhiên trong quá trình thực tập em chỉ có điều kiện được thực tập ở phòng phát triển kinh doanh nên trong bài viết của em chỉ giới hạn bảo lãnh trong nước vì bảo lãnh nước ngoài thuộc lĩnh vực hoạt động của phòng thanh toán quốc tế.
Chuyên đề của em bố cục như sau:
Chương I: Khái quát về hoạt động bảo lãnh của ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng bảo lãnh tại ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội( Habubank).
Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động bảo lãnh tại Habubank.
72 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2564 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Mở rộng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội HabuBank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, mà đỉnh cao là trở thành thành viên của WTO, hệ thống ngân hàng đang đẩy mạnh thực hiện đề án tái cơ cấu toàn ngành, thực hiện mục tiêu theo phương châm kinh doanh chất lượng – tăng trưởng - bền vững, hiệu quả và an toàn.
Kinh doanh chất lượng gắn liền với giải pháp đa dạng hoá các nghiệp vụ ngân hàng. Bên cạnh những nghiệp vụ truyền thống, các ngân hàng đã và đang áp dụng thêm nhiều nghiệp vụ mới có tính chất hiện đại, trong đó có nghiệp vụ bảo lãnh. Ra đời vào khoảng những năm 70 của thế kỷ XX, bảo lãnh ngân hàng ngày càng phát triển và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Cho đến nay, tại các nước phát triển, nó đã trở thành một trong các nghiệp vụ phi tín dụng phát triển nhất với doanh số liên tục tăng trong những năm qua. Đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam, tuy mới xuất hiện trong một vài năm trở lại đây, nhưng nó đóng vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế, giúp cho doanh nghiệp phát triển nguồn vốn dễ dàng hơn, đồng thời đem lại khoản thu không nhỏ cho ngân hàng.
Trong quá trình thực tập tại ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội (Ha bubank), thấy được tầm quan trọng của nghiệp vụ bảo lãnh, với sự giúp đỡ tận tình của cán bộ ngân hàng tại Habubank và giáo viên hướng dẫn, qua thực tế tìm hiểu, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Mở rộng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội”
Tuy nhiên trong quá trình thực tập em chỉ có điều kiện được thực tập ở phòng phát triển kinh doanh nên trong bài viết của em chỉ giới hạn bảo lãnh trong nước vì bảo lãnh nước ngoài thuộc lĩnh vực hoạt động của phòng thanh toán quốc tế.
Chuyên đề của em bố cục như sau:
Chương I: Khái quát về hoạt động bảo lãnh của ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng bảo lãnh tại ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội( Habubank).
Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động bảo lãnh tại Habubank.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn Nguyễn Thị Ngọc Diệp cùng toàn thể cán bộ trong ngân hàng Habubank trong suốt quá trình thực tập vừa qua, để em hoàn thành tốt chuyên đề của mình.
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
NHTM: Ngân hàng thương mại
NH: Ngân hàng
DN: Doanh nghiệp
TCTD: Tổ chức tín dụng
Habubank: HBB
CHƯƠNG1
KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Những vấn đề chung về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng.
NHTM là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình, các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế xã hội đều gửi tiền tại NHTM. NHTM đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng TM là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. NHTM là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước. NHTM cung cấp cho các doanh nghiệp vốn phục vụ cho việc mua hàng hoá dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị. Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hoá và dịch vụ, họ thường sử dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hay các loại thẻ điện tử…NHTM còn là nơi khách hàng tìm đến để nhận được lời tư vấn, cần được cung cấp các thông tin tài chính hay tư vấn lập kế hoạch tài chính. Ngoài ra, NHTM còn là đơn vị cung cấp các khoản tín dụng cho chính phủ; Thông qua hình thức mua các chứng khoán chính phủ, đây là nguồn tài chính quan trọng để đầu tư phát triển.
NHTM là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất. NHTM thực hiện các chính sách kinh tế; Đặc biệt là chính sách tiền tệ, Vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của chính phủ nhằm ổn định kinh tế.
Theo LêNin, NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ.
Theo luật Việt Nam: NHTM là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng, hoạt động thường xuyên và chủ yếu của nó là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, đầu tư cho nền kinh tế.
Quá trình phát triển của các ngân hàng qua các thời kỳ:
- Thế kỷ XV, các NHTM hoạt động với ba chức năng chủ yếu là đổi tiền, thanh toán và cho vay. Hoạt động của các Ngân hàng mang tính chất kiêm nhiệm, trong đó các cửa hàng vàng bạc kiêm luôn ba chức năng này của ngân hàng.
- Đến thế kỷ XVIII, các NH thưc sự được tách ra, tạo thành các doanh nghiệp chỉ hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ. Khác với hiện nay, NH nào cũng có khả năng phát hành giáy bạc vào lưu thông mà không bị hạn chế số lượng NH phát hành. Do đó mà sự điều tiết của nhà nước thời kỳ này bị hạn chế.
- Từ thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX, chính phủ tiến hành hạn chế số lượng NH phát hành, chỉ NH lớn mới đủ điều kiện để đưa tiền vào lưu thông. Các NH này đều là các NH tư nhân.
- Từ đầu thế kỷ XX đến nay, nhất là sau cuộc khủng hoảng 29-33, xuất hiện một số nguyên nhân do chính phủ không kiểm soát được chính sách tài chính tiền tệ. Sau đó, hầu hết các NH phát hành đều được quốc hữu hoá để giúp nhà nước thực hiện được các chính sách của mình có hiệu quả hơn.
- Từ đây, Hệ thống Ngân hàng được chia làm hai cấp kinh doanh:
Các NHNN thay hế cho NH phát hành trước đó, giữ chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và chịu sự kiểm soát chặt chẽ của chính phủ.
Các NHTMvà các trung gian tài chính khác: các thành phần này hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh và chịu sự chi phối của NHNN.
1.1.2. Chức năng của NHTM
1.1.2.1. Chức năng thủ quỹ của doanh nghiệp
NHTM nhận giữ tiền gửi cho DN: trong nền kinh tế luôn tồn tại hai nhóm doanh nghiệp: nhóm thứ nhất là nhóm các doanh nghiệp có vốn tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng, nếu để tiền đó trong két của mình, các DN đã để tiền bị chết, không được lưu thông. Đem gửi NH, DN sẽ nhận được tiền lãi và có thêm khoản thu nhập đáng kể từ đây.
Nhóm thứ hai không có tiền dư thừa, nhưng lại có nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh, hoặc thực hiện một dự án, công trình nào đó. Nhóm này sẽ phải đi vay tiền, và NHTM chính là nơi mà các DN nên tìm đến. Đến với NHTM, DN thiếu vốn sẽ gặp được nhà cung cấp các khoản tiền cho mình. NHTM sẽ là người trung gian làm cầu nối giữa người đi vay và cho vay. NHTM sẽ có được lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất giữa mức huy động và mức cho vay.
Ngoài ra, NHTM còn thực hiện chức năng thanh toán. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của NHTM mà không một trung gian tài chính nào được thực hiện.
NHTM sẽ thực hiện các nghiệp vụ, thực hiện thanh toán cho các tổ chức, cá nhân…
1.1.2.2. Chức năng tạo tiền gửi
Giả sử ban đầu khách hàng đem 100đ(R) tới gửi NHTM, tỷ lệ dự trữ bắt buộc(rr) là 10%, tỷ lệ dự trữ vượt quá(er) là 0%. Như vậy, với số tiền này, NHTM phải giữ lại 10đ dự trữ bắt buộc, còn 90đ, NHTM cho vay ra bên ngoài.Vì er=0 nên tất cả 90đ này đều được cho vay.
Giả sử tiền mặt do công chúng nắm giữ là 0, như vậy, sau đó, công chúng sẽ đem toàn bộ 90đ gửi lại NHTM, NHTM dự trữ tiếp 9đ, cho vay ra 81đ. Quá trình này cứ tiếp tục cho tới lúc kết thúc, tổng số tiền lúc này ở trong lưu thông đã là 90+80+…+…=1000đ
Gọi D là tổng lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế, ta có D= Rx1/rr
Như vậy, tỷ lệ dự trữ bắt buộc càng nhỏ, lượng tiền cung ứng ra thị trường càng lớn và ngược lại.
1.1.2.3. Chức năng làm trung gian tài chính
Bản chất của NHTM chính là làm trung gian tài chính bởi NHTM là cầu nối giữa người có vốn và người thiếu vốn. Đây là trung gian tài chính quan trọng nhất trong các trung gian tài chính. Chức năng này của NH được thể hiện rõ ở hai bộ phận:
- Trung gian tín dụng: NHTM sử dụng vốn huy động hoặc vốn đi vay để cho vay, do vậy, trách nhiệm của NH là phải đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả. Có vậy NHTM mới có thể thu hồi vốn trả cho người gửi tiền và đảm bảo kinh doanh có lãi.
-Trung gian tài chính: NHTM cung cấp các dịch vụ tài chính trong đó có uỷ thác thanh toán, các dịch vụ môi giới, và các dịch vụ tiện ích khác.
1.1.3. Những hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn
Đây là hoạt động nhằm tạo lập nguồn vốn kinh doanh cho NHTM.Là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, nên tạo nguồn vốn của NHTM là một yếu tố quyết định tới quy mô hoạt động và uy tín của NHTM trên thị trường. Đây là hoạt động cơ bản của NHTM, nó làm ảnh hưởng rất nhiều tới tình hình hoạt động của NHTM.
Hoạt động này chủ yếu bao gồm các hoạt động sau:
Huy động tiền gửi không kỳ hạn
Huy động tiền tiết kiệm của dân cư
Đi vay NHNN, NHTM khác
Phát hành trái phiếu, kỳ phiếu
Các hoạt động huy động khác: Uỷ thác đầu tư
1.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn
- Hoạt động ngân quỹ: Đây là hoạt động mang tính chất dự trữ:
Dự trữ bắt buộc: Đây là khoản dự trữ mà các NHTM phải nộp vào tài khoản tại NHNN nhằm thực hiện một số mục tiêu đề ra:
Thứ nhất, khoản này đống vai trò như như một khoản đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của NHTM.
Thứ hai, nó giúp NHNN có thể vận hành chính sách tiền tệ quốc gia. Theo như đã trình bày ở trên, nếu tỷ lệ dự trữ càng thấp, lượng cung tiền ra thị trường càng lớn và ngược lại. Tuỳ từng điều kiện khác nhau mà NHNN sẽ đua ra các biện pháp phù hợp với hoàn cảnh.
Thứ ba, nó giúp NHNN quản lý được hoạt động của NHTM.
Dự trữ vượt quá: khoản tiền này tồn tại dưới 3 hình thức: tiền mặt tại quỹ, tài khoản tiền gửi NHNN và tiền mặt trong quá trình thu. Khoản mục này tồn tại có thể do hoạt động kinh doanh của NH không tốt, không cho vay hết vốn mà mình huy động được( sau khi đã trừ đi dự trữ bắt buộc) hay cũng có thể do chính sách hoạt động của mình, NH muốn giữ lại một khoản dự trữ nữa ngoài dự trữ bắt buộc để đảm bảo hơn nữa khả năng thanh toán của mình.
-Hoạt động cho vay: Đây là hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại. Ngân hàng huy động vốn sau đó cho vay, sau một thời gian NH sẽ thu được cả gốc và lãi. Tuỳ thuộc vào tiêu chí mà cho vay được chia thành nhiều loại khác nhau:
Căn cứ vào thời hạn khoản vay, hoạt động cho vay được chia thành 3 loại
Cho vay ngắn hạn: là hình thức cho vay mà thời hạn của khoản vay nhỏ hơn một năm. Hình thức này chủ yếu để bổ sung vốn lưu động cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp: Thu mua hàng hoá, trả lương cho công nhân viên…
Cho vay trung hạn: Thời hạn khoản vay từ 1 dến 5 năm, chủ yếu để tài trợ cho các hoạt động sửa chữa tài sản cố định, thay đổi kế hoạch sản xuất hàng hoá.
Cho vay dài hạn: Thời hạn của khoản vay trên 5 năm. Khoản mục này thường tài trợ cho các hoạt động xây dựng cơ bản: Đổi mới máy móc thiết bị, cho vay để tăng cường chiều sâu, xây dựng phân xưởng mới.
Căn cứ vào phương thức tài trợ, hoạt động cho vay được chia thành: cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng, tài trợ cho dự án.
Cho vay thương mại: Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán. Người bán chuyển các khoản phải thu cho vay để lấy tiền ứng trước. Sau đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng là người mua, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
Cho vay tiêu dùng: Khách hàng là các cá nhân, hộ gia đình…Nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của khách hàng.
Tài trợ cho dự án: Ngân hàng cho vay để tài trợ cho xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các nghành công nghệ cao.
Căn cứ vào tài sản đảm bảo:
Cho vay không có tài sản đảm bảo: Bảo lãnh, tín chấp
Cho vay có tài sản đảm bảo: Thế chấp, cầm cố,
Căn cứ vào hạn mức tín dụng:
Cho vay trong hạn mức: là hình thức cho vay mà số dư nợ bế hơn hoặc bằng hạn mức cho vay của ngân hàng.
Cho vay ngoài hạn mức: Là hình thức cho vay mà số dư nợ lớn hơn quy mô hạn mức mà ngân hàng cho vay.
Cho vay quá ngạch: Là hình thức cho vay mà khách hàng vẫn chưa trả xong nợ cũ.Thông thường, NH chỉ tiếp tục cho khách hàng vay khi đã thu được nợ cũ, nhưng trong một số trường hợp đặc biệt Ngân hàng sẽ xem xét để cho doanh nghiệp vay thêm, nhằm giúp doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn hoặc chớp được cơ hội kinh doanh tốt nhất.
Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn: NH cho khách hàng vay để sản xuất kinh doanh, để phát triển nhà ở, mua xe…
Các hoạt động đầu tư: Ngân hàng tham gia các hoạt động hùn vốn, góp vốn hình thành vốn chủ sở hữu cho các dự án đầu tư. Hoạt động này không những tạo thêm thu nhập cho ngân hàng mà còn giúp ngân hàng thâm nhập thị trường nhằm thu thập thêm thông tin, phục vụ hoạt động cho vay.
Có rất nhiều hình thức đầu tư khác nhau, nhưng các NH chủ yếu tham gia vào 3 hình thức:
Đầu tư vào chứng khoán: Do mục tiêu của các ngân hàng thương mại là an toàn và sinh lợi, do đó các NHTM chỉ nắ giữ trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc, trái phiếu công ty lớn. Tuy nhiên việc đầu tư vào chứng khoán cũng bị hạn chế. Các NHTM chỉ được đầu tư không quá 30% vốn chủ sở hữu của mình và số vốn này phải phân bổ vào các doanh nghiệp sao cho không quá 10% cổ phần của doanh nghiệp được đầu tư.
Đầu tư vào các doanh nghiệp: là hoạt động ngân hàng đầu tư vào để trở thành một thành viên trong tập đoàn đó.
Đầu tư hùn vốn vào dự án: Thông thường là các dự án BOT…
Hoạt động sử dụng vốn khác: NH sẽ đầu tư vào các hoạt động quảng cáo, quảng bá, tài trợ…để quảng bá cho thương hiệu của mình.
1.1.3.3. Nghiệp vụ trung gian
- nghiệp vụ chuyển tiền: Là một nghiệp vụ mà ngân hàng phải chuyển tiền cho một người khác khi có lệnh của khách hàng.
- Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt: Loại hình dịch vụ này bao gồm: thanh toán bù trừ, thanh toán séc, L/C, thanh toán bằng uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thanh toán bằng hối phiếu…
- Cung cấp các dịch vụ tài chính: Bao gồm các dịch vụ môi giới, tư vấn tài chính, uỷ thác đầu tư, bảo lãnh và các loại hình dịch vụ khác.
1.2. Khái quát về hoạt động bảo lãnh của ngân hàng TM
1.2.1. Khái niệm về hoạt đông bảo lãnh ngân hàng
“ Bảo lãnh ngân hàng” là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng( Bên bảo lãnh) với bên có quyền( bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng( bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
Theo khái niệm trên, tham gia bảo lãnh gồm có ba bên:
- Bên được bảo lãnh: Là bên yêu cầu NH mở thư bảo lãnh. Đây là khách hàng của ngân hàng. Trong trường hợp có sự vi phạm hợp đồng, NH sẽ phải thanh toán thay và bên được bảo lãnh phải có nghĩa vụ bồi hoàn cho NH.
- Bên nhận bảo lãnh: là bên được hưởng bồi thường theo các quy định trong thư bảo lãnh khi có sự vi phạm hợp đồng, với điều kiện bên nhận bảo lãnh phải xuất trình đầy đủ các chứng từ phù hợp với các điều khoản được quy định trong hợp đồng bảo lãnh.
-Bên bảo lãnh: là bên đứng ra phát hành thư bảo lãnh và có nghĩa vụ thanh toán cho các bên nhận bảo lãnh khi bên này yêu cầu; đồng thời xuất đầy đủ các chứng từ phù hợp với những điều đã kí kế trong hợp đồng bảo lãnh, Bảo lãnh ngân hàng có nghĩa là Ngân hàng là bên bảo lãnh.
1.2.2. Đặc điểm, chức năng, vai trò của hoạt động bảo lãnh ngân hàng
1.2.2.1. Đặc điểm của hoạt độnh bảo lãnh ngân hàng
- Bảo lãnh là mối quan hệ nhiều bên phụ thuộc lẫn nhau
Trong nghiệp vụ bảo lãnh thường có sự tham gia đồng thời của 3 hợp đồng độc lập: Hợp đồng giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh, Hợp đồng giữa bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh, hợp đồng giữa bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh.
Tuy có sự phân chia, nhưng ba mối quan hệ này vẫn có mối quan hệ gắn kết nhau và có ảnh hưởng lẫn nhau. Do đó, mỗi bên có trách nhiệm thực hiện hợp đồng với hai bên còn lại.
Tính độc lập của bảo lãnh:
Bảo lãnh ngân hàng có tính độc lập so với hợp đồng. Mặc dù mục đích của bảo lãnh ngân hàng là bồi hoàn cho người thụ hưởng những thiệt hại từ việc không thực hiện hợp đồng của người được bảo lãnh trong quan hệ hợp đồng của người được bảo lãnh, nhưng việc thanh toán của một bảo lãnh chỉ hoàn toàn căn cứ vào các điều khoản và điều kiện được quy định trong bảo lãnh.
Ngoài ra, tính độc lập của bảo lãnh ngân hàng còn thể hiện ở sự độc lập giữa trách nhiệm thanh toán của ngân hàng với mối quan hệ khách hàng. Ngân hàng không thể viện cớ bên được bảo lãnh còn nợ tiền của ngân hàng, bên được bảo lãnh phá sản…để trì hoãn việc thanh toán cho bên nhận bảo lãnh khi bên nhận bảo lãnh đưa ra đầy đủ chứng từ…
Tính phù hợp của bảo lãnh
Khi người thụ hưởng bảo lãnh đến yêu cầu NH thanh toán thì Ngân hàng có trách nhiệm kiểm tra các chứng từ do người thụ hưởng xuất trình. Ngân hàng bảo lãnh có quyền từ chối thanh toán nếu như chứng từ có dấu hiệu không hợp lệ hay những điều kiện của bảo lãnh không được đáp ứng.
Bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động ngoại bảng
Bảo lãnh ngân hàng là một hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng không phải xuất tiền ngay khi kí bảo lãnh. Do đó bảo lãnh được coi là một tài sản ngoại bảng. Khi ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho bên nhận bảo lãnh thì bảo lãnh được xếp vào nội bảng. Lúc này bảo lãnh được xếp vào loại tài sản xấu cấu thành nợ quá hạn. Qua đó cho ta thấy, bảo lãnh cũng là một nghiệp vụ chứa đựng rủi ro như một khoản cho vay. Do vậy, Ngân hàng phải phân tích kỹ lưỡng khách hàng trước khi nhận bảo lãnh.
1.2.2.2. Chức năng của hoạt động bảo lãnh
- Bảo lãnh cung cấp một sự đảm bảo cho người thụ hưởng:
Mục đích của bảo lãnh ngân hàng là phải bồi hoàn tài chính cho người thụ hưởng bảo lãnh những thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh gây ra. Do đó bảo lãnh mang chức năng bảo đảm hơn là thanh toán. Điều này được thể hiện rất rõ trong bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm, bảo lãnh bảo đảm chất lượng công trình…Do vậy bảo lãnh được dùng cho mục đích an toàn cho người thụ hưởng khi có sự vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh.
- Bảo lãnh là một công cụ tài trợ
Nhờ hoạt động bảo lãnh của ngân hàng mà hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng được thực hiện đúng tiến độ và đạt hiệu quả cao. Đặc biệt trong thương mại quốc tế, bảo lãnh được biết đến như một công cụ tài trợ cho xuất nhập khẩu. Đối với thị trường chúng khoán ở những nước phát triển, Ngân hàng là người bảo lãnh tài trợ cho các doanh nghiệp phát hành chứng khoán…
- Bảo lãnh có chức năng thúc đẩy hoàn thành hợp đồng
Chức năng này xuất phát từ người được bảo lãnh, có thể bị người thụ hưởng bảo lãnh yêu cầu thanh toán bầt kỳ lúc nào trong thời gian hiệu lực của bảo lãnh nếu như họ vi phạm hợp đồng, ở bất kể mức độ nào, là bao nhiêu. Người được bảo lãnh luôn phải chịu áp lực của việc phải bồi hoàn bảo lãnh. Chính vì vậy bảo lãnh như có tác dụng thúc đẩy người được bảo lãnh hoàn tất hợp đồng đã được ký kết và hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn.
1.2.2.3. Vai trò của hoạt động bảo lãnh.
- Đối với nền kinh tế: Bảo lãnh đóng vai trò là chất xúc tác thương mại. Nhờ có bảo lãnh mà việc thực hiện hợp đồng vay vốn mở rộng sản xuất kinh doanh trở nên thuận lợi hơn.
Nhu cầu về vốn luôn là một vấn đề cấp thiết, nhất là trong điều kiện hiện nay, trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, việc vay vốn nước ngoài trở nên phổ biến và đóng vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên do khoảng cách địa lý, bất đồng ngôn ngữ là những trở ngại khiến các thành viên không hiểu rõ nhau. Do đó, trong quan hệ hợp tác nhất thiết phải có hoạt động bảo lãnh bảo đảm cho quyền lợi của các bên.
- Đối với bên được bảo lãnh: Bảo lãnh ra đời đã trở thành công cụ tài trợ, giúp cho bên được bảo lãnh có thể vay vốn với chi phí thấp hơn.
Do đó mà bên được bảo lãnh có thể sử dụng được nguồn vốn một cách triệt để và tối ưu nhất.
Nhờ có bảo lãnh đã giúp cho bên được bảo lãnh có thể tiếp cận được với những dự án, những hợp đồng…ngay cả khi họ chưa có đủ uy tín đối với đối tác, cho dù họ hoàn toàn có khả năng và phương tiện thực hiện hợp đồng.
Ngoài ra, nhờ có bảo lãnh mà bên bảo lãnh thường xuyên chịu sự giám sát của Ngân hàng