Chuyên đề Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty xuất nhập khẩu xi măng

Ngày nay trên thế giới, quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang là xu thế chung của toàn nhân loại. Không một quốc gia nào có thể phát triển mà không có sự liên kết, giao lưu với các quốc gia khác. Vì vậy, thương mại quốc tế là hoạt động giữ vai trò hết sức quan trọng làm thúc đẩy nền kinh tế trong nước hội nhập với nền kinh tế thế giới, phát huy được những tiềm năng vốn có của quốc gia mình. Trong những thập kỷ vừa qua, chúng ta đã chứng kiến sự phát triển bùng nổ không ngừng của kinh tế toàn cầu. Để hoà chung cùng với dòng chảy của nền kinh tế thế giới, Việt nam phải chú trọng phát triển Thương mại quốc tế một hoạt động không thể thiếu đối với các nước từ chậm phát triển, đang phát triển đến các nước phát triển. Trong quá trình hội nhập, hoạt động nhập khẩu đã giúp người tiêu dùng tiếp cận với những tinh hoa văn hoá của nhân loại, với những sản phẩm đa dạng, phong phú, hiện đại với giá cả cạnh tranh. Nhập khẩu tác động trực tiếp tới quá trình sản xuất và đời sống của một quốc gia, góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. Vì vậy nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu là mục tiêu quan trọng của Nhà nước nói chung và của các doanh nghiệp trong nước nói riêng. Trong bối cảnh đó, công ty xuất nhập khẩu xi măng Việt nam (VINACIMEX) là một công ty Nhà nước hàng đầu về xuất nhập khẩu phụ tùng thiết bị, vật tư phục vụ cho các đơn vị trong ngành đã không ngừng cải tổ lại cơ cấu tổ chức, cải tiến cơ sở hạ tầng, nâng cao trình đô chuyên môn và chất lượng dịch vụ để luôn hoàn thiện mình,có chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong và ngoài nước và là bạn hàng đáng tin cậy với các đối tác nước ngoài. Trong thời gian thực tập tại công ty xuất nhập khẩu xi măng, em đã cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu và khảo sát hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty và em thấy được tầm quan trọng không thể thiếu của hoạt động nhập khẩu. Vì vậy em đã thực hiện chuyên đề thực tập với đề tài: “ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty xuất nhập khẩu xi măng” Mục đích: Đề xuất những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Là một sinh viên chuyên ngành kinh doanh quốc tế, với kiến thức đã được học trên ghế nhà trường và kiến thức thực tế mà các cô các chú đã truyền đạt lại. Em mong rằng sẽ đóng góp một phần nhỏ của mình để cho công ty hoạt động kinh doanh ngày càng tốt hơn. Kết cấu chuyên đề thực tập chuyên ngành bao gồm các nội dung sau: Chương I: Lý luận cơ bản về hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh doanh nhập khẩu trong doanh nghiệp Chương II: Thực trạng hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty xuất nhập khẩu xi măng Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu phụ tùng, thiết bị, vật tư của công ty xuất nhập khẩu xi măng.

docChia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1991 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty xuất nhập khẩu xi măng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay trên thế giới, quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang là xu thế chung của toàn nhân loại. Không một quốc gia nào có thể phát triển mà không có sự liên kết, giao lưu với các quốc gia khác. Vì vậy, thương mại quốc tế là hoạt động giữ vai trò hết sức quan trọng làm thúc đẩy nền kinh tế trong nước hội nhập với nền kinh tế thế giới, phát huy được những tiềm năng vốn có của quốc gia mình. Trong những thập kỷ vừa qua, chúng ta đã chứng kiến sự phát triển bùng nổ không ngừng của kinh tế toàn cầu. Để hoà chung cùng với dòng chảy của nền kinh tế thế giới, Việt nam phải chú trọng phát triển Thương mại quốc tế một hoạt động không thể thiếu đối với các nước từ chậm phát triển, đang phát triển đến các nước phát triển. Trong quá trình hội nhập, hoạt động nhập khẩu đã giúp người tiêu dùng tiếp cận với những tinh hoa văn hoá của nhân loại, với những sản phẩm đa dạng, phong phú, hiện đại với giá cả cạnh tranh. Nhập khẩu tác động trực tiếp tới quá trình sản xuất và đời sống của một quốc gia, góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. Vì vậy nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu là mục tiêu quan trọng của Nhà nước nói chung và của các doanh nghiệp trong nước nói riêng. Trong bối cảnh đó, công ty xuất nhập khẩu xi măng Việt nam (VINACIMEX) là một công ty Nhà nước hàng đầu về xuất nhập khẩu phụ tùng thiết bị, vật tư phục vụ cho các đơn vị trong ngành đã không ngừng cải tổ lại cơ cấu tổ chức, cải tiến cơ sở hạ tầng, nâng cao trình đô chuyên môn và chất lượng dịch vụ để luôn hoàn thiện mình,có chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong và ngoài nước và là bạn hàng đáng tin cậy với các đối tác nước ngoài. Trong thời gian thực tập tại công ty xuất nhập khẩu xi măng, em đã cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu và khảo sát hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty và em thấy được tầm quan trọng không thể thiếu của hoạt động nhập khẩu. Vì vậy em đã thực hiện chuyên đề thực tập với đề tài: “ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty xuất nhập khẩu xi măng” Mục đích: Đề xuất những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Là một sinh viên chuyên ngành kinh doanh quốc tế, với kiến thức đã được học trên ghế nhà trường và kiến thức thực tế mà các cô các chú đã truyền đạt lại. Em mong rằng sẽ đóng góp một phần nhỏ của mình để cho công ty hoạt động kinh doanh ngày càng tốt hơn. Kết cấu chuyên đề thực tập chuyên ngành bao gồm các nội dung sau: Chương I: Lý luận cơ bản về hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh doanh nhập khẩu trong doanh nghiệp Chương II: Thực trạng hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty xuất nhập khẩu xi măng Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu phụ tùng, thiết bị, vật tư của công ty xuất nhập khẩu xi măng. Em xin bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo Nguyễn Thị Hường đã tận tình hướng dẫn em trong suốt thời gian làm chuyên đề thực tập. Đồng thời em xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ công nhân viên trong công ty đặc biệt là cô Nguyễn Thục Anh – trưởng phòng phòng phụ tùng thiết bị đã tận tình giúp đỡ và đóng góp những ý kiến quý báu để em có thể hoàn thành tốt chuyên đề thực tập này. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU TRONG DOANH NGHIỆP I. HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU 1. Khái niệm nhập khẩu Nhập khẩu là một trong những lĩnh vực hoạt động quan trọng của kinh doanh thương mại quốc tế, là mặt không thể thiếu được trong hoạt động ngoại thương. Có thể hiểu rằng nhập khẩu là hoạt động mua hàng hoá và dịch vụ từ nước ngoài phục vụ cho nhu cầu trong nước hoặc tái sản xuất nhằm mục đích thu lợi. Thực chất nhập khẩu là việc mua hàng hoá từ các tổ chức kinh tế, các công ty nước ngoài về trong nước và tiến hành tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu tại thị trường nội địa hoặc tái xuất khẩu với mục đích thu lợi nhuận và kết nối sản xuất với tiêu dùng. 2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của ngoại thương. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước. Nhập khẩu để bổ sung các hàng hoá mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu về những hàng hoá mà sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu. Hai mặt nhập khẩu bổ sung và nhập khẩu thay thế nếu được thực hiện tốt sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối nền kinh tế quốc dân, trong đó cân đối trực tiếp 3 yếu tố của sản xuất: công cụ lao động, đối tượng lao động, và lao động. Với các tác động đó, ngoại thương được coi là như một phương pháp sản xuất trực tiếp. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, vai trò quan trọng của nhập khẩu được thể hiện ở các khía cạnh sau đây: Tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá đất nước. Bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo phát triển kinh tế cân đối và ổn định Góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. Ở đây nhập khẩu vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dùng, Vừa đảm bảo đầu vào cho sản xuất tạo việc làm ổn định cho người lao động Nhập khẩu có vai trò tích cực đến thúc đẩy xuất khẩu. Sự tác động này thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng nhập khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng Việt nam ra nước ngoài đặc biệt là nước nhập khẩu II. HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP 1. Khái niệm và bản chất hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp 1.1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Kinh doanh trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, mọi doanh nghiệp (doanh nghiệp tư nhân, các công ty trách nhiệm hữu hạn, các doanh nghiệp nhà nước…) đều có mục tiêu bao chum lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận, kinh doanh có hiệu quả. Hiệu quả kinh doanh là yếu tố cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để đạt được hiệu quả trước hết mọi doanh nghiệp phải xác định cho mình một chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp thích ứng với những biến động của thị trường, phải tiến hành có hiệu quả cá hoạt động quản trị nhằm đảm bảo sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu vào và trong quá trình đó phải luôn kiểm tra xem liệu phương án kinh doanh đang tiến hành là có hiệu quả hay không. Vấn đề đặt ra: thế nào là hiệu quả kinh doanh? bản chất của hiệu quả kinh doanh là gì. Trong qua khứ cũng như hiện tại, còn có nhiều quan niệm khác nhau về thuật ngữ hiệu quả kinh doanh. Tuy nhiên, người ta có thể chia các quan niệm này thành các nhóm cơ bản sau đây: Quan điểm 1: Hiệu quả kinh doanh là kết quả thu được trong hoạt động kinh doanh, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá Theo quan điểm này, hiệu quả kinh doanh đồng nhất với kết quả kinh doanh và với các chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh. Quan điểm này không đề cập đến chi phí kinh doanh, nghĩa là nếu hoạt động kinh doanh tạo ra cùng một kết quả thì có cùng một mức hiệu quả, mặc dù hoạt động kinh doanh đó có hai mức chi phí khác nhau. Quan điểm 2: Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỷ lệ giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí. Quan điểm này đã nói lên quan hệ so sánh một cách tương đối giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó, nhưng lại chỉ xét tới phần kết quả và chi phí bổ sung. Quan điểm 3: Hiệu quả kinh doanh là một đại lượng so sánh giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Quan điểm này đã phản ánh được mối liên hợp bản chất của hiệu quả kinh doanh, vì nó gắn được kết quả với các chi phí bỏ ra, coi hiệu quả là sự phản ánh trình độ sử dụng các chi phí (các nguồn lực). Tuy nhiên, kết quả và chi phí đều luôn luôn vận động nên quan điểm này chưa biểu hiện được tương quan về lượng và về chất giữa kết quả và chi phí. Quan điểm 4: Hiệu quả kinh doanh phải thể hiện được mối quan hệ giữa sự vận động của kết quả với sự vận động của chi phí tạo ra kết quả đó đồng thời phản ánh được trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất. Quan điểm này đã chú ý đến sự so sánh tốc độ vận động của hai yếu tố phản ánh hiệu quả kinh doanh, đó là tốc độ vận động của kết quả và tốc độ vận động của chi phí. Mỗi quan hệ này phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất của doanh nghiệp Như vậy, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất, trình độ tổ chức và quản lý của doanh nghiệp để thực hiện ở mức cao nhất các mục tiêu kinh tế - xã hội với chi phí thấp nhất. 1.2. Bản chất hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực ( lao động, thiết bị máy móc, nguyên nhiên vật liệu và tiền vốn) để đạt được mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp-mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp gắn chặt với hiệu quả kinh tế của toàn xã hội, vì thế nó cần được xem xét toàn diện cả về định tính lẫn định lượng, không gian và thời gian. Về mặt định tính, mức độ hiệu quả kinh doanh là những nỗ lực của doanh nghiệp và phản ánh trình độ quản lý của doanh nghiệp đồng thời gắn những nỗ lực đó với việc đáp ứng các mục tiêu và yêu cầu của doanh nghiệp và của xã hội về kinh tế, chính trị, xã hội. Về mặt định lượng, hiệu quả kinh doanh chỉ có được khi kết quả thu được lớn hơn chi phí bỏ ra. Mức chênh lệch này càng lớn thì hiệu quả càng cao và ngược lại. Cả hai mặt định tính và định lượng của hiệu quả kinh doanh có quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, trong đó hiệu quả về lượng phải gắn với việc thực hiện các mục tiêu chính trị - xã hội - môi trường nhất định. Do vậy, chúng ta không thể chấp nhận việc các nhà kinh doanh tìm mọi cách để đạt được các mục tiêu kinh tế cho dù phải chi phí bất cứ giá nào hoặc thậm chí phải đánh đổi các mục tiêu chính trị - xã hội - môi trường để đạt được các mục tiêu kinh tế. Về mặt thời gian, hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được trong từng thời kỳ, từng giai đoạn không được làm giảm sút hiệu quả của các giai đoạn, các thời kỳ kinh doanh tiếp theo. Điều đó đòi hỏi bản than các doanh nghiệp không được vì lợi ích trước mắt mà bỏ đi lợi ích lâu dài. Trong thực tiễn kinh doanh của doanh nghiệp, điều không được tính đến là con người khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn không có kế hoạch, thậm chí khai thác và sử dụng bừa bãi, làm cạn kiệt tài nguyên, phá huỷ môi trường. cũng không thể quan niệm rằng cắt giảm chi phí và tăng doanh thu lúc nào cũng có hiệu quả, một khi cắt giảm tuỳ tiện và thiếu cân nhăc chi phí cải tạo môi trường, bảo bảo cân bằng sinh thái, đầu tư cho giáo dục, đào tạo… Tóm lại, về mặt định tính, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế tổng hợp phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố sản xuất nói riêng, trình độ tổ chức và quản lý nói chung để đáp ứng các nhu cầu của xã hội và đạt được các mục tiêu mà doanh nghiệp đã xác định. Trong điều kiện hiện nay, khi mà các quốc gia trên thế giới luôn đề cao vấn đề an toàn cho người tiêu dùng, an toàn vệ sinh, môi trường, vấn đề lao động và trách nhiệm xã hội thì hiệu quả kinh doanh nhiều nhiều khi còn gắn với hiệu quả chính trị - xã hội. Về mặt định lượng, đó là một đại lượng biểu thị mối tương quan giữa kết quả mà doanh nghiệp đạt được với các chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được kết quả đó và mối quan hệ giữa sự vận động giữa kết quả với sự vận động của chi phí tạo ra nó trong những điều kiện nhất định. 2. Phân loại hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Thực tế cho thấy hiệu quả là một phạm trù được sử dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực xã hội, kinh tế và kỹ thuật. Nhưng đối với doanh nghiệp để tiện cho việc quản lý và nâng cao hiệu quả kinh doanh người ta thường phân loại hiệu quả theo các tiêu thức khác nhau. Sau đây là một trong các cách phân loại hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp Căn cứ vào phương pháp tính hiệu quả có hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối là hai hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa kết quả và chi phí Hiệu quả tuyệt đối là phạm trù chỉ lượng hiệu quả của từng phương án kinh doanh, từng thời kỳ kinh doanh, từng doanh nghiệp. Nó được tính toán bằng công thức: ( Kết quả - ( Chi phí = P (1) Hiệu quả tương đối là phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp. Nó được tính bằng công thức KQ H1= (2) CP CP H2 = (3) KQ Công thức (2) cho biết lượng kết quả mà doanh nghiệp đạt được từ một phương án kinh doanh, từng thời kỳ kinh doanh. Công thức (3) cho biết một đơn vị chi phí thì tạo ra bao nhiêu đơn vị kết quả hoặc một đơn vị kết quả thì tạo từ bao nhiêu đơn vị chi phí Căn cứ vào phạm vi tính hiệu quả có hiệu quả kinh doanh tổng hợp và hiệu quả kinh doanh bộ phận Hiệu quả kinh doanh tổng hợp là hiệu quả kinh doanh tính chung cho toàn doanh nghiệp, cho các bộ phận trong doanh nghiệp. Hiệu quả tổng hợp phản ánh khái quát và cho phép kết luận về hiệu quả của toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng tất cả các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (tư liệu sản xuất, nguyên nhiên vật liệu, lao động … và tất nhiên bao hàm cả tác dụng của yếu tố quản trị đến việc sử dụng có hiệu quả các yếu tố trên) Hiệu quả kinh doanh bộ phận là hiệu quả kinh doanh tính riêng cho từng bộ phận của doanh nghiệp hoặc từng yếu tố sản xuất. Hiệu quả kinh doanh tổng hợp và hiệu quả kinh doanh tổng hợp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau để có thể phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp một cách chính xác và cụ thể hơn. Căn cứ vào thời gian mang lại hiệu quả có hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài Hiệu quả trước mắt là hiệu quả được xem xét trong khoảng thời gian ngắn, những lợi ích trong loại hiệu quả này là lợi ích mang tính trước mắt, tạm thời. Đôi khi hiệu quả này gây hại cho doanh nghiệp nếu như doanh nghiệp không tính toán kỹ lưỡng. Hiệu quả lâu dài là hiệu quả được xem xét trong khoảng thời gian dài. Hiệu quả này thường gắn liền với những chiến lược, kế hoạch dài hạn và liên quan đến sự tồn tại và sự phát triển của doanh nghiệp. Giữa hiệu quả dài hạn và hiệu quả ngắn hạn có mối hiệu quả biện chứng với nhau nhưng cũng có nhiều trường hợp mâu thuẫn nhau. Hiệu quả kinh doanh ngắn hạn có thể đảm bảo cho hiệu quả kinh doanh dài hạn cho tương lai nhưng nếu có xuất hiên mâu thuẫn giữa hai loại hiệu quả này thì ta nên lấy hiệu quả lâu dài làm thước đo chất lượng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Căn cứ vào đối tượng xem xét hiệu quả có hiệu quả trực tiếp và hiệu quả gián tiếp Hiệu quả trực tiếp là những lợi ích thu được từ chính hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động đó có tác động trực tiếp đến các chỉ tiêu đo lường hiệu quả kinh doanh. Ví dụ vốn bỏ ra để kinh doanh nhập khẩu thì sẽ thu được một khoản lợi nhuận nhất định, đó chính là hiệu quả trực tiếp Hiệu quả gián tiếp là những lợi ích mang lại do hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tác động đến những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp như các yếu tố về môi trường kinh doanh như môi trường kinh tế, pháp lý, cạnh tranh…, các yếu tố bên trong doanh nghiệp như nguồn nhân lực, yếu tố quản trị. Căn cứ vào khía cạnh khác nhau của hiệu quả có hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế - xã hội Hiệu quả tài chính là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp về mặt kinh tế tài chính được biểu hiện qua các chỉ tiêu thu chi trực tiếp của doanh nghiệp. Tiêu chuẩn cơ bản của hiệu quả tài chính là hiệu lợi nhuận cao nhất và ổn định. Đây là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp. Hiệu quả chính trị - xã hội là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp về mặt chính trị - xã hội - môi trường. Nó phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu xã hội nhất định. Giữa hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội có mối quan hệ thống nhất có mâu thuẫn. Hiệu quả kinh doanh tài chính vừa là nguồn gốc đem lại hiệu quả kinh tế xã hội và cũng là nguyên nhân hạn chế hiệu quả xã hội. 3. Hệ thống chỉ tiêu đo lường hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Hiệu quả kinh doanh không chỉ là mục tiêu kinh tế tổng hợp mà còn là nhiệm vụ cơ bản của công tác quản trị doanh nghiệp. Để các nhà quản trị có thể phân tích, đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thì họ thường lập ra một hệ thống chỉ tiêu riêng của doanh nghiệp mình. Hệ thống chỉ tiêu này cho chúng ta biết rõ kết quả về mặt lượng của phạm trù hiệu quả kinh tế, hiệu quả đạt được cao hay thấp sau mỗi kỳ kinh doanh. 3.1. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp Chỉ tiêu lợi nhuận Lợi nhuận là chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh có tính tổng hợp, phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó là tiền đề để duy trì và tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp, để cải thiện và nâng cao mức sống của người lao động. doanh nghiệp có lợi nhuận thì đất nước mới giầu có, phát triển. Ngược lại làm ăn thấp kém sẽ dẫn đến thua lỗ và phá sản. Việc tính toán lợi nhuận có liên quan đến tính toán doanh thu và chi phí. Các chỉ tiêu doanh lợi Xét trên cả phương diện lý thuyết và thực tiễn quản trị kinh doanh, các nhà quản trị hoạt động kinh doanh thực tế ở các doanh nghiệp và các nhà tài trợ khi xem xét hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đều quan tâm trước hết đến việc tính toán đánh giá chỉ tiêu chung phản ánh doanh lợi của doanh nghiệp. Vì chỉ tiêu doanh lợi được đánh giá cho hai loại vốn kinh doanh: toàn bộ vốn kinh doanh bao gồm cả vốn tự có và vốn đi vay và chỉ tính cho vốn tự có của doanh nghiệp, các chỉ tiêu này được coi là các chỉ tiêu phản ánh sức sinh lời của số vốn kinh doanh, khẳng định mức độ đạt được hiệu quả kinh doanh của toàn bộ số vốn mà doanh nghiệp sử dụng nói chung cũng như hiệu quả sử dụng vốn tự có của doanh nghiệp nói riêng. Các chỉ tiêu doanh lợi bao gồm: doanh lợi theo doanh thu bán hàng, doanh lợi theo vốn kinh doanh, doanh lợi theo chi phí kinh doanh. 3.2. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh bộ phận Hiệu quả sử dụng vốn Thực ra muốn có các yếu tố đầu vào doanh nghiệp cần có vốn kinh doanh, nếu thiếu vốn mọi hoạt động của doanh nghiệp hoặc đình trệ hoặc kém hiệu quả. Do đó các nhà kinh tế cho rằng chỉ tiêu sử dụng vốn là một chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh bộ phận. Để đánh giá hiệu quả sử dụng đồng vốn và từng bộ phận vốn của doanh nghiệp các nhà kinh tế đưa ra các chỉ tiêu: + Thời hạn thu hồi vốn kinh doanh + Hiệu quả sử dụng vốn cố định + Hiệu quả sử dụng vốn lưu động Hiệu quả sử dụng lao động Số lượng và chất lượng lao động là yếu tố cơ bản trong sản xuất, góp phần quan trọng trong năng llực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. hiệu quả sử dụng lao động biểu hiện ở năng suất lao động, chỉ tiêu mức sinh lời bình quân của lao động, chỉ tiêu hiệu suất tiền lương. Các chỉ tiêu này càng cao thì doanh nghiệp sử dụng lao động càng hiệu quả. Hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu Chỉ tiêu này thể hiện khả năng khai thác các nguồn nguyên vật liệu của doanh nghiệp, đánh giá chu kỳ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để đánh giá hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu người ta sử dụng hai chỉ tiêu sau: + Vòng luân chuyển nguyên vật liệu + Vòng luân chuyển vật tư trong sản phẩm dở dang Hai chỉ tiêu trên mà cao thì cho biết doanh nghiệp giảm được chi phí cho nguyên vật liệu dự trữ, rút ngắn chu kỳ hoạt động về nguyên vật liệu tồn kho và tăng vòng quay vốn lưu động. Ngoài ra sử dụng nguyên vật liệu có hiệu quả người ta còn đánh giá mức thiệt hại, mất mát nguyên vật liệu trong quá trình dự trữ, sử dụng chúng. Chỉ tiêu này được đo bằng tỷ số giữa giá trị nguyên vật liệu hao hụt, mất mát trên tổng giá trị nguyên vật liệu sử dụng trong kỳ. Qua các chỉ tiêu trên doanh nghiệp có thể đưa ra những quyết định thích hợp nhằm sử dụng vật tư tiết kiệm, đúng mục đích, phù hợp thực tế sản xuất và có hiệu quả. 4. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Nâng cao hiệu quả kinh do
Luận văn liên quan