Hoạt động kinh doanh Quốc tế đóng một vai trò quan trọng vào sự thành công của công cuộc Công nghiệp hoá_Hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt là lĩnh vực hoạt động xuất khẩu từ lâu đã chiếm một sự quan trọng hàng đầu trong sự tồn tại và phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Báo cáo chính trị của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng tại Đại hội lần thứ VIII nhấn mạnh: “giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào các nguồn lực trong nước là chính đi đôi tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”. Vai trò này đã được Đảng ta nhận thức rất sớm và nhấn mạnh từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986. Đại hội đã khẳng định: “xuất khẩu là một trong ba chương trình cốt lõi của nhiệm vụ kinh tế xã hội trong 5 năm 1986-1990, không những có ý nghĩa sống còn đối với tình hình trước mắt mà còn là những điều kiện ban đầu không thể thiếu được để triển khai Công nghiệp hoá Xã hội Chủ nghĩa trong những chặng đường tiếp theo”.
Xuất khẩu là cơ sở của nhập khẩu và là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhà nước ta luôn luôn coi trọng và hối thúc các nghành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và nâng cao mức sống.
Nhận thức được sự phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu, cũng như trước đòi hỏi thực tế của việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của công tác xuất khẩu, cùng với những kiến thức được trang bị tại nhà trường và những tìm hiểu thực tế trong đợt thực tập cuối khoá tại Công ty Thương Mại Hữu Nghị II, để đi sâu nghiên cứu vấn đề em mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu “Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở Công ty Thương Mại Hữu Nghị II” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Đề tài này nhằm mục đích trình bày những vấn đề cốt lõi của nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu, những lợi ích nó mang lại cho nền kinh tế quốc dân và thực trạng hoạt động xuất khẩu của Công ty, qua đó rút ra những mặt mạnh cũng như những tồn tại chủ yếu trong lĩnh vực xuất khẩu, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm giải quyết những tồn tại đó và đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu của Công ty.
Đây là một đề tài rộng và phức tạp, lại do những hạn chế về trình độ cũng như về thời gian nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Kính mong được sự góp ý, bổ sung của các thầy cô giáo để đề tài được hoàn thiện hơn.
Kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I : Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
Chương II : Phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở Công ty Thương Mại Hữu Nghị II thời gian qua .
Chương III: Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu ở Công ty Thương Mại Hữu Nghị II .
85 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1807 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở công ty thương mại Hữu Nghị II, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động kinh doanh Quốc tế đóng một vai trò quan trọng vào sự thành công của công cuộc Công nghiệp hoá_Hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt là lĩnh vực hoạt động xuất khẩu từ lâu đã chiếm một sự quan trọng hàng đầu trong sự tồn tại và phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Báo cáo chính trị của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng tại Đại hội lần thứ VIII nhấn mạnh: “giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào các nguồn lực trong nước là chính đi đôi tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”. Vai trò này đã được Đảng ta nhận thức rất sớm và nhấn mạnh từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986. Đại hội đã khẳng định: “xuất khẩu là một trong ba chương trình cốt lõi của nhiệm vụ kinh tế xã hội trong 5 năm 1986-1990, không những có ý nghĩa sống còn đối với tình hình trước mắt mà còn là những điều kiện ban đầu không thể thiếu được để triển khai Công nghiệp hoá Xã hội Chủ nghĩa trong những chặng đường tiếp theo”.
Xuất khẩu là cơ sở của nhập khẩu và là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhà nước ta luôn luôn coi trọng và hối thúc các nghành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và nâng cao mức sống.
Nhận thức được sự phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu, cũng như trước đòi hỏi thực tế của việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của công tác xuất khẩu, cùng với những kiến thức được trang bị tại nhà trường và những tìm hiểu thực tế trong đợt thực tập cuối khoá tại Công ty Thương Mại Hữu Nghị II, để đi sâu nghiên cứu vấn đề em mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu “Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở Công ty Thương Mại Hữu Nghị II” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Đề tài này nhằm mục đích trình bày những vấn đề cốt lõi của nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu, những lợi ích nó mang lại cho nền kinh tế quốc dân và thực trạng hoạt động xuất khẩu của Công ty, qua đó rút ra những mặt mạnh cũng như những tồn tại chủ yếu trong lĩnh vực xuất khẩu, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm giải quyết những tồn tại đó và đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu của Công ty.
Đây là một đề tài rộng và phức tạp, lại do những hạn chế về trình độ cũng như về thời gian nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Kính mong được sự góp ý, bổ sung của các thầy cô giáo để đề tài được hoàn thiện hơn.
Kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I : Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
Chương II : Phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở Công ty Thương Mại Hữu Nghị II thời gian qua .
Chương III: Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu ở Công ty Thương Mại Hữu Nghị II .
Xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT KHẨU.
I.KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU.
1.Khái niệm về xuất khẩu.
Xuất khẩu là việc bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán.
Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt động mua bán và trao đổi hàng hoá (bao gồm cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình) trong nước. Khi sản xuất phát triển và việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia phát triển, sự phân công lao động quốc tế hình thành rõ nét, hoạt động này mở rộng phạm vi ra ngoài biên giới của các quốc gia ( hay thị trường nội địa với các khu chế xuất trong nước ).
Cơ sở lý thuyết về hoạt động xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động tất yếu của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển . Do khác nhau về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, nguồn nhân lực, các nguồn tài nguyên... dẫn đến sự khác biệt về lợi thế trong các lĩnh vực khác nhau của các quốc gia . Để khai thác tối đa lợi thế và khắc phục các hạn chế , tận dụng các cơ hội và hạn chế các thách thức tạo ra sự cân bằng các yếu tố trong quá trình sản xuất và tiêu dùng , các quốc gia phải tiến hành trao đổi các loại hành hoá và dịch vụ cho nhau.
Tuy nhiên, xuất khẩu không phải chỉ diễn ra giữa các quốc gia có những lợi thế về lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Ngay cả khi các quốc gia không có lợi thế về điều kiện tự nhiên , nguồn nhân lực , tài nguyên thiên nhiên... thì quốc gia đó vẫn có thể thu được lợi ích không nhỏ khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu.
Cơ sở và lợi ích xuất khẩu đã được chứng minh qua lý thuyết lợi thế so sánh.
Theo lý thuyết này, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong việc sản xuất hầu hết các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia hoạt động xuất khẩu để tạo ra lợi ích cho mình, nếu bỏ qua thì quốc gia đó sẽ mất cơ hội phát triển. Khi tiến hành hoạt động xuất khẩu, quốc gia có hiệu quả thấp trong việc sản xuất ra các loại hàng hoá vẫn có thể thu được lợi ích cho mình bằng việc chuyên môn hoá vào sản xuất loại hàng hoá, mà việc sản xuất ra chúng là ít bất lợi nhất để trao đổi với các quốc gia khác, đồng thời nhập khẩu những loại hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng là bất lợi nhất.
Mô hình so sánh của David Ricardo được xây dựng dựa trên 5 giả thiết được đơn giản hoá sau đây:
1. Thế giới chỉ có hai quốc gia và hai hàng hoá. Mỗi quốc gia có lợi thế trong việc sản xuất một mặt hàng.
2. Lao động là yếu tố duy nhất có thể di chuyển tự do trong mỗi quốc gia, nhưng không di chuyển giữa hai quốc gia.
3. Công nghệ sản xuất của hai quốc gia là cố định.
4. Chi phí sản xuất không đổi, không phát sinh các loại chi phí khác.
5. Hoạt động thương mại hoàn toàn tự do giữa hai quốc gia.
Có thể minh hoạ mô hình về lợi thế so sánh của D.Ricardo áp dụng cho hai quốc gia là Việt Nam và Nhật Bản, và hai loại hàng hoá là Vải và Gạo trong bảng 1 sau đây:
MINH HỌA MÔ HÌNH LỢI THẾ SO SÁNH.
Quốc gia
Hàng hoá
VIỆT NAM
NHẬT BẢN
Vải (m/giờ gia công)
1
6
Gạo (kg/giờ công)
2
4
Mô hình trên cho thấy Nhật Bản có lợi thế tuyệt đối so với Việt Nam trong việc sản xuất cả hai loại hàng hoá là vải và gạo. Nhưng khi phân tích cụ thể chúng ta thấy rằng: Trong khi năng suất lao động trong ngành dệt của Nhật Bản gấp 6 lần năng suất lao động trong ngành dệt của Việt Nam thì năng suất lao động trong ngành sản xuất gạo của Nhật Bản chỉ cao gấp 2 lần. Như vậy, trong sản xuất giữa gạo và vải thì Nhật Bản có lợi thế tương đối trong sản xuất vải còn Việt Nam có lợi thế trong sản xuất gạo ( mặc dù về lợi thế tuyệt đối thì Việt Nam không có lợi thế trong sản xuất mặt hàng nào).
Theo quy luật lợi thế so sánh, thì cả hai quốc gia là Việt Nam và Nhật Bản đều có lợi thế nếu Việt Nam chuyên môn hoá trong sản xuất gạo còn Nhật Bản chuyên môn hoá trong sản xuất vải, sau đó tiến hành trao đổi cho nhau . Nếu tiến hành trao đổi 6m vải lấy 4 kg gạo của Việt Nam thì Nhật Bản sẽ chẳng có lợi gì cả bởi vì khi mà ngay trong nước họ cũng đã trao đổi theo tỉ lệ này do đó họ sẽ không trao đổi. Tương tự như vậy, nếu trao đổi 1m vải lấy 2 kg gạo thì Việt Nam cũng từ chối trao đổi này, bởi vì Việt Nam sẽ không được lợi gì khi mà ngay trong nước tỷ lệ trao đổi này đang được diễn ra. Do đó, tỷ lệ trao đổi quốc tế nằm ở khoảng giữa tức là:
< Tỉ lệ trao đổi quốc tế vải/gạo <
Bây giờ giả sử trao đổi 1m vải lấy 1 kg gạo. Trong trường hợp này nếu Nhật Bản trao đổi 6m vải lấy 6 kg gạo thì Nhật Bản sẽ được lợi 2kg gạo hay tiết kiệm được giờ công. Còn Việt Nam nhận được 6m vải mà bình thường Việt Nam phải mất 6 giờ công mới sản xuất được. Nếu 6 giờ công ấy Việt Nam dành để sản xuất gạo sẽ thu được 12 kg gạo và chỉ phải dùng 6kg gạo để đổi lấy 6m vải và như vậy Việt Nam đã lợi 6 kg gạo hay tiết kiệm được 3 giờ công.
Qua phân tích ví dụ trên cho thấy, hoạt động xuất khẩu mang lại lợi ích cho cả hai quốc gia bằng cách xuất khẩu những hàng hoá có lợi thế so sánh và nhập khẩu những hàng hoá không có lợi thế tương đối. Sự chuyên môn hoá sản xuất và trao đổi hàng hoá khai thác tốt lợi thế của mỗi quốc gia.
2.Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân.
Xuất khẩu hàng hoá là một hoạt động nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của một quá trình tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Hoạt động đó không chỉ diễn ra giữa các cá thể riêng biệt mà là có sự tham gia của toàn bộ hệ thống kinh tế với sự điều hành của Nhà nước.
Chính vì vậy, nó có vai trò to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nền sản xuất xã hội một nước phát triển như thế nào phụ thuộc rất lớn vào lĩnh vực hoạt động kinh doanh này. Thông qua xuất khẩu có thể làm gia tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu cho ngân sách, kích thích đổi mới công nghệ, cải biến cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm và nâng cao mức sống của người dân.
Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta, những nhân tố tiềm năng là : tài nguyên thiên nhiên và lao động. Còn những yếu tố thiếu hụt là vốn, kỹ thuật, thị trường và khả năng quản lý. Chiến lược hướng về xuất khẩu về thực chất là giải pháp mở của nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, kết hợp chúng lại với tiềm năng trong nước về lao động và tài nguyên thiên nhiên để tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp phần làm rút ngắn khoảng cách chênh lệch với các nước khác.
Với định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đảng, chính sách kinh tế đối ngoại nói chung và Thương mại Quốc tế nói riêng phải được coi là một chính sách cơ cấu quan trọng, chiến lược nhằm phục vụ quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân. Chính sách xuất nhập khẩu phải tranh thủ được tới mức cao nhất nguồn vốn kỹ thuật , công nghệ tiên tiến của nước ngoài nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển , giải quyết việc làm cho người lao động, thực hiện phương châm phát triển thương mại với nước ngoài để đẩy mạnh sản xuất trong nước,vừa có sản phẩm tiêu dùng vừa có hàng hoá để xuất khẩu.
Như vậy, đối với mọi quốc gia cũng như nước ta, xuất khẩu thực sự có vai trò quan trọng, thể hiện:
2.1 Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công cuộc Công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước.
Để thực hiện đường lối Công nghiệp hoá_Hiện đại hoá đất nước, trước mắt chúng ta cần phải nhập khẩu một số lượng lớn máy móc, trang thiết bị hiện đại từ bên ngoài nhằm trang bị cho nền sản xuất. Nguồn vốn để nhập khẩu thường dựa vào các nguồn chủ yếu sau đây: Vay, viện trợ, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu. Nguồn vốn vay rồi cũng phải trả, còn viện trợ và đầu tư nước ngoài thì có hạn, hơn nữa các nguồn này thường bị phụ thuộc vào nước ngoài, vì vậy nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu thiết bị chính là xuất khẩu. Ngược lại, nếu nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu làm thâm hụt cán cân thương mại quá lớn sẽ có thể ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế quốc dân.
2.2 Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi mạnh mẽ. Xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Ngày nay, đa số các nước đều lấy nhu cầu thị trường thế giới làm cơ sở để tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Điều đó có tác động tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này thể hiện:
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các nghành khác có cơ hội phát triển. Chẳng hạn, khi phát triển nghành dệt-may xuất khẩu sẽ tạo điều kiện đầy đủ cho việc phát triển các nghành sản xuất nguyên liệu như trồng bông, kéo sợi, nhuộm, tẩy hấp... Cũng như vậy, sự phát triên của nghành chế biến thực phẩm xuất khẩu cũng có thể kéo theo sự phát triển của nghành công nghiệp trồng trọt , chăn nuôi và cả các nghành công nghiệp khác như xay xát, chế biến thức ăn gia súc...
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, góp phần làm cho sản xuất ổn định và phát triển, tạo ra lợi thế kinh tế nhờ quy mô (hiệu quả kinh tế nhờ quy mô).
Xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, nâng cao hiệu quả sản xuất của quốc gia. Nó cho phép chuyên môn hoá sản xuất phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Ngày nay, với một loại sản phẩm, người ta nghiên cứu thiết kế, thử nghiệm ở các nước thứ nhất, chế tạo ở nước thứ hai, lắp ráp ở nước thứ ba, tiêu thụ ở nước thứ tư và thanh toán thực hiện ở nước thứ năm. Như vậy hàng hoá được sản xuất ra ở một nước và tiêu thụ ở những nước khác nhau cho thấy tác động ngược trở lại của hoạt động xuất khẩu đối với việc chuyên môn hoá sản xuất, tạo điều kiện cho chuyên môn hoá sâu.
Với đặc điểm quan trọng là ngoại tệ được sử dụng làm phương tiện thanh toán xuất khẩu góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ cho một quốc gia.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất nâng cao năng lực sản xuất trong nước, mở rộng khả năng tiêu dùng của quốc gia.
Thông qua xuất khẩu , hàng hoá của một quốc gia có điều kiện tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh này có tác dụng buộc các nhà doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất, hình thành một cơ cấu sản xuất hợp lý luôn thích nghi được với sự biến động của thị trường thế giới.
2.3 Xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất.
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động hướng ra thị trường thế giới, một thị trường mà ngày càng cạnh tranh quyết liệt. Sự tồn tại và phát triển của hàng hoá xuất khẩu phụ thuộc rất lớn vào chất lượng, giá cả do đó phụ thuộc rất lớn vào kỹ thuật công nghệ sản xuất chúng. Điều này thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phải luôn luôn đổi mới, luôn luôn tìm tòi sáng tạo để cải tiến, nâng cao chất lượng công nghệ sản xuất. Mặt khác, xuất khẩu trong nền kinh tế cạnh tranh còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị sản xuất và kinh doanh, đòi hỏi phải nâng cao tay nghề người lao động.
2.4 Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân.
Tác động của xuất khẩu đến đời sống trên nhiều phương diện. Một mặt sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập ổn định. Mặt khác, xuất khẩu tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng phong phú của nhân dân.
2.5 Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại.
Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế với các nước, nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên thương trường quốc tế ... xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quỹ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế... Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo tiền đề cho việc mở rộng xuất khẩu.
Có thể nói, xuất khẩu không chỉ đóng vai trò chất xúc tác hỗ trợ phát triển kinh tế mà nó còn cùng với hoạt động nhập khẩu như là yếu tố bên trong trực tiếp tham gia vào việc giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ nền kinh tế như : vốn, kỹ thuật, lao động, nguồn tiêu thụ thị trường...
Đối với nước ta hướng mạnh về xuất khẩu là một trong những mục tiêu quan trọng trong phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại, qua đó tranh thủ đón bắt thời cơ, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại , rút ngắn sự chênh lệch về trình độ phát triển của Việt Nam so với thế giới. Kinh nghiệm cho thấy, bất cứ một quốc gia nào và trong thời kỳ nào đẩy mạnh được xuất khẩu thì nền kinh tế của nước đó trong thời gian đó có tốc độ phát triển cao.
Tóm lại, thông qua xuất khẩu sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội bằng việc mở rộng trao đổi và thúc đẩy việc tận dụng các lợi thế, tiềm năng và cơ hội của Đất nước.
3.Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với các Doanh nghiệp.
Ngày nay, xu hướng vươn ra thị trường nước ngoài là một xu hướng chung của tất cả các quốc gia và các doanh nghiệp, việc xuất khẩu các loại hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài đưa lại cho doanh nghiệp những lợi ích sau đây:
Xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với bạn hàng trong và ngoài nước trên cơ sở hai bên cùng có lợi, tăng doanh số và lợi nhuận, đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường.
Thông qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Qua đó có điều kiện giữ gìn nâng cấp và phát triển trình độ kỹ thuật công nghệ, phát triển hệ thống các kênh phân phối sản phẩm.
Xuất khẩu đảm bảo cho doanh nghiệp luôn nâng cao việc sử dụng các kỹ năng quản lý chuyên môn, chẳng hạn như kỹ năng quản lý hoạt động xuất khẩu, bán hàng trên thị trường quốc tế, quản lý và dự đoán những xu hướng biến động của tỷ giá hối đoái. Mặt khác, qua xuất khẩu doanh nghiệp có được nguồn ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ, kỹ thuật để tái đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động vào làm việc, tạo ra thu nhập ổn định cho các bộ công nhân viên, tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu vật liệu tiêu dùng, vừa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú của nhân dân, vừa tăng khả năng quay vòng vốn nhanh, tạo điều kiện thu hút lợi nhuận cao.
II. CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU CHỦ YẾU:
Với mục tiêu là đa dạng hoá kinh doanh xuất khẩu, nhằm phân tán và chia sẻ rủi ro, các doanh nghiệp ngoại thương có thể lựa chọn nhiều hình thức xuất khẩu khác nhau. Một số hình thức xuất khẩu chủ yếu là:
Xuất khẩu trực tiếp.
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức đơn vị ngoại thương xuất khẩu các loại hàng hoá dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. Về nguyên tắc, xuất khẩu trực tiếp có thể làm tăng thêm rủi ro trong kinh doanh, song nó lại có những ưu điểm nổi bật sau: Giảm bớt chi phí trung gian do đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Có thể liên hệ trực tiếp và đều đặn với khách hàng và với thị trường nước ngoài, biết được nhu cầu của khách hàng và tình hình bán hàng ở đó nên ta có thể thay đổi sản phẩm và những điều kiện bán hàng trong trường hợp cần thiết.
2.Xuất khẩu uỷ thác.
Là hình thức kinh doanh, trong đó đơn vị ngoại thương đóng vai trò là người trung gian thay cho đơn vị sản xuất tiến hành ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương, tiến hành các thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá cho nhà sản xuất và qua đó thu được một số tiền nhất định ( thường là tỷ lệ % của giá trị lô hàng xuất khẩu).
Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là mức độ rủi ro thấp, đặc biệt là không cần bỏ vốn vào kinh doanh, tạo được việc làm cho người lao động đồng thời cũng thu được một khoản lợi nhuận đáng kể. Ngoài ra trách nhiệm trong việc tranh chấp và khiếu nại thuộc về người sản xuất.
3.Xuất khẩu gia công uỷ thác.
Đây là hình thức kinh doanh mà trong đó đơn vị ngoại thương đứng ra nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho xí nghiệp gia công, sau đó thu hồi thành phẩm để xuất lại cho bên nước ngoài. Đơn vị được hưởng phí uỷ thác theo thoả thuận với các xí nghiệp sản xuất.
Hình thức này có ưu điểm là doanh nghiệp thương mại không cần bỏ vốn vào kinh doanh nhưng vẫn thu được lợi nhuận, rủi ro ít hơn, việc thanh toán chắc chắn hơn. Tuy nhiên, nó đòi hỏi phải tiến hành nhiều công việc, nhiều thủ tục xuất nhập khẩu, các cán bộ kinh doanh phải có kinh nghiệm và nghiệp vụ kể cả trong quá trình giám sát và kiểm tra công việc.
4.Buôn bán đối lưu .
Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua và lượng hàng hoá mang ra trao đổi thường có giá trị tương đương. Mục đích xuất khẩu ở đây không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm mục đích có được một lượng hàng hoá có giá trị tương đương với giá