Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, sản xuất cơ khí và xây dựng được coi là những lĩnh vực nền tảng, tạo ra các sản phẩm thiết yếu cho nên kinh tế. Do đó hai lĩnh vực này luôn được Nhà nước quan tâm đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển.
Tổng Công ty Cơ khí xây dựng là doanh nghiệp Nhà nước quy mô lớn, được thành lập với nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh về cơ khí xây dựng theo quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành xây dựng của Nhà nước và theo yêu cầu của thị trường, bao gồm các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh máy móc, thiết bị, công cụ, phụ tùng, phụ kiện và các sản phẩm khác phục vụ xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, phục vụ phát triển đô thị và các ngành kinh tế - kỹ thuật khác; sản xuẩt kinh doanh dịch vụ về các phương tiện vận tải, xếp dỡ; thi công, lắp đặt thiết bị, xây dựng các công trình dân dụng, công nghiệp, công trình kỹ thuật hạ tầng đô thị và khu công nghiệp, tư vấn kính kế kỹ thuật về công nghệ, thiết bị cho các dự án sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí . Để hoàn thành nhiệm vụ được giao cũng như đáp ứng nhu cầu thị trường, Tổng Công ty Cơ khí xây dựng đã xây dựng chiến lược phát triển giai đoạn 2001 - 2010 với chủ trương hoạt động kinh doanh đa ngành trên các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh dịch vụ kỹ thuật cho các ngành sản xuất vật liệu xây dựng, điện, giao thông, công nghiệp, xây dựng dân dụng, cấp thoát nước với mục tiêu chính là phát triển sản xuất các sản phẩm cơ khí. Kết quả là Tổng Công ty đã có những bước phát triển cơ bản về trình độ chế tạo cơ khí, có khả năng tham gia thiết kế, xây dựng, chế tạo, lắp đặt thiết bị đồng bộ cho nhiều công trình trọng điểm của Nhà nước với năng suất, chất lượng đáp ứng yêu cầu thực tế về chất lượng và tiến độ. Các lĩnh vực này hàng năm đã mang lại lợi nhuận hàng tỉ đồng, gia tăng đáng kể các khoản nộp ngân sách. Tổng Công ty đã từng bước hòa nhập, đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trường, khẳng định vai trò chủ đạo trong lĩnh vực chế tạo cơ khí, củng cố và tăng cường năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập khu vực.
Đạt được kết quả trên có phần đóng góp không nhỏ của hoạt động đầu tư. Bước vào hoạt động trong cơ chế thị trường, Tổng Công ty cũng như nhiều doanh nghiệp Nhà nước khác gặp rất nhiều khó khăn ảnh hưởng tới năng lực sản xuất và cạnh tranh của sản phẩm cũng như doanh nghiệp, đó là quy mô sản xuất nhỏ bé, thiết bị, máy móc, công nghệ lạc hậu .Để khắc phục những khó khăn trên Tổng Công ty đã chỉ đạo đầu tư chiều sâu tăng năng lực sản xuất trên cơ sở thiết bị công nghệ hiện có của Tổng Công ty và đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, đa dạng hóa, hiện đại hóa sản phẩm. Những kết quả do hoạt động đầu tư là rất to lớn nhưng cũng phải thừa nhận rằng chưa đạt được mục tiêu, kế hoạch đề ra. Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên khó khăn trong việc huy động vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất. Đây sẽ vẫn là vấn đề mà Ban lãnh đạo Tổng Công ty phải nỗ lực giải quyết, nhất là định hướng đầu tư trong giai đoạn tới của Tổng Công ty đều là những dự án có mức đầu tư lớn như dự án nhà máy chế tạo thiết bị nâng chuyển, nhà máy chế tạo thiết bị cho công nghiệp xi măng, nhà máy chế tạo thiết bị xử lý rác thải, nhà máy điện, xây dựng nhà ở . với tổng nguồn vốn đầu tư cho giai đoạn 2006 - 2010 lên tới trên 5000 tỉ đồng.
Có đầu tư thì mới có phát triển, muốn phát triển thì phải đầu tư. Xét trong điều kiện hiện nay, nếu không huy động được vốn thì các dự án đầu tư cũng không còn mang tính khả thi nữa, điều đó cũng có nghĩa là doanh nghiệp khó có thể phát triển nếu không có vốn đầu tư. Vì vậy để trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh trong tương lai, Tổng Công ty cần nhìn nhận và coi trọng đúng mức các hoạt động đầu tư cũng như các biện pháp để huy động vốn, một nguồn lực không thể thiếu để tiến hành các hoạt động đầu tư.
Qua thực tế tìm hiểu tại Tổng Công ty Cơ khí xây dựng, kết hợp với những kiến thức đã được trang bị trong nhà trường, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài : "Một số giải pháp huy động vốn cho kế hoạch đầu tư phát triển sản xuất giai đoạn 2006 - 2010 của Tổng Công ty Cơ khí xây dựng" cho chuyên đề thực tập với mục đích đưa ra một cái nhìn khái quát về thực trạng huy động vốn đầu tư tại Tổng Công ty, đánh giá những kết quả đạt được, cũng như xem xét một số khó khăn còn tồn tại, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường khả năng huy động vốn đầu tư cho Tổng Công ty, đảm bảo khả năng thực hiện các dự án đầu tư cũng như các mục tiêu phát triển.
Nội dung của chuyên đề thực tập gồm ba chương ;
Chương 1 : Lý luận chung về vốn đầu tư sản xuất và các hình thức huy động.
Chương 2 : Thực trạng thu hút vốn đầu tư phát triển sản xuất ở Tổng Công ty
Cơ khí xây dựng.
Chương 3 : Một số giải pháp huy động vốn cho kế hoạch đầu tư phát triển sản
xuất giai đoạn 2006 - 2010 của Tổng Công ty Cơ khí xây dựng.
99 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1937 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp huy động vốn cho kế hoạch đầu tư phát triển sản xuất giai đoạn 2006-2010 của tổng công ty cơ khí xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, sản xuất cơ khí và xây dựng được coi là những lĩnh vực nền tảng, tạo ra các sản phẩm thiết yếu cho nên kinh tế. Do đó hai lĩnh vực này luôn được Nhà nước quan tâm đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển.
Tổng Công ty Cơ khí xây dựng là doanh nghiệp Nhà nước quy mô lớn, được thành lập với nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh về cơ khí xây dựng theo quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành xây dựng của Nhà nước và theo yêu cầu của thị trường, bao gồm các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh máy móc, thiết bị, công cụ, phụ tùng, phụ kiện và các sản phẩm khác phục vụ xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, phục vụ phát triển đô thị và các ngành kinh tế - kỹ thuật khác; sản xuẩt kinh doanh dịch vụ về các phương tiện vận tải, xếp dỡ; thi công, lắp đặt thiết bị, xây dựng các công trình dân dụng, công nghiệp, công trình kỹ thuật hạ tầng đô thị và khu công nghiệp, tư vấn kính kế kỹ thuật về công nghệ, thiết bị cho các dự án sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí .... Để hoàn thành nhiệm vụ được giao cũng như đáp ứng nhu cầu thị trường, Tổng Công ty Cơ khí xây dựng đã xây dựng chiến lược phát triển giai đoạn 2001 - 2010 với chủ trương hoạt động kinh doanh đa ngành trên các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh dịch vụ kỹ thuật cho các ngành sản xuất vật liệu xây dựng, điện, giao thông, công nghiệp, xây dựng dân dụng, cấp thoát nước với mục tiêu chính là phát triển sản xuất các sản phẩm cơ khí. Kết quả là Tổng Công ty đã có những bước phát triển cơ bản về trình độ chế tạo cơ khí, có khả năng tham gia thiết kế, xây dựng, chế tạo, lắp đặt thiết bị đồng bộ cho nhiều công trình trọng điểm của Nhà nước với năng suất, chất lượng đáp ứng yêu cầu thực tế về chất lượng và tiến độ. Các lĩnh vực này hàng năm đã mang lại lợi nhuận hàng tỉ đồng, gia tăng đáng kể các khoản nộp ngân sách. Tổng Công ty đã từng bước hòa nhập, đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trường, khẳng định vai trò chủ đạo trong lĩnh vực chế tạo cơ khí, củng cố và tăng cường năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập khu vực.
Đạt được kết quả trên có phần đóng góp không nhỏ của hoạt động đầu tư. Bước vào hoạt động trong cơ chế thị trường, Tổng Công ty cũng như nhiều doanh nghiệp Nhà nước khác gặp rất nhiều khó khăn ảnh hưởng tới năng lực sản xuất và cạnh tranh của sản phẩm cũng như doanh nghiệp, đó là quy mô sản xuất nhỏ bé, thiết bị, máy móc, công nghệ lạc hậu ...Để khắc phục những khó khăn trên Tổng Công ty đã chỉ đạo đầu tư chiều sâu tăng năng lực sản xuất trên cơ sở thiết bị công nghệ hiện có của Tổng Công ty và đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, đa dạng hóa, hiện đại hóa sản phẩm. Những kết quả do hoạt động đầu tư là rất to lớn nhưng cũng phải thừa nhận rằng chưa đạt được mục tiêu, kế hoạch đề ra. Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên khó khăn trong việc huy động vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất. Đây sẽ vẫn là vấn đề mà Ban lãnh đạo Tổng Công ty phải nỗ lực giải quyết, nhất là định hướng đầu tư trong giai đoạn tới của Tổng Công ty đều là những dự án có mức đầu tư lớn như dự án nhà máy chế tạo thiết bị nâng chuyển, nhà máy chế tạo thiết bị cho công nghiệp xi măng, nhà máy chế tạo thiết bị xử lý rác thải, nhà máy điện, xây dựng nhà ở ... với tổng nguồn vốn đầu tư cho giai đoạn 2006 - 2010 lên tới trên 5000 tỉ đồng.
Có đầu tư thì mới có phát triển, muốn phát triển thì phải đầu tư. Xét trong điều kiện hiện nay, nếu không huy động được vốn thì các dự án đầu tư cũng không còn mang tính khả thi nữa, điều đó cũng có nghĩa là doanh nghiệp khó có thể phát triển nếu không có vốn đầu tư. Vì vậy để trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh trong tương lai, Tổng Công ty cần nhìn nhận và coi trọng đúng mức các hoạt động đầu tư cũng như các biện pháp để huy động vốn, một nguồn lực không thể thiếu để tiến hành các hoạt động đầu tư.
Qua thực tế tìm hiểu tại Tổng Công ty Cơ khí xây dựng, kết hợp với những kiến thức đã được trang bị trong nhà trường, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài : "Một số giải pháp huy động vốn cho kế hoạch đầu tư phát triển sản xuất giai đoạn 2006 - 2010 của Tổng Công ty Cơ khí xây dựng" cho chuyên đề thực tập với mục đích đưa ra một cái nhìn khái quát về thực trạng huy động vốn đầu tư tại Tổng Công ty, đánh giá những kết quả đạt được, cũng như xem xét một số khó khăn còn tồn tại, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường khả năng huy động vốn đầu tư cho Tổng Công ty, đảm bảo khả năng thực hiện các dự án đầu tư cũng như các mục tiêu phát triển.
Nội dung của chuyên đề thực tập gồm ba chương ;
Chương 1 : Lý luận chung về vốn đầu tư sản xuất và các hình thức huy động.
Chương 2 : Thực trạng thu hút vốn đầu tư phát triển sản xuất ở Tổng Công ty
Cơ khí xây dựng.
Chương 3 : Một số giải pháp huy động vốn cho kế hoạch đầu tư phát triển sản
xuất giai đoạn 2006 - 2010 của Tổng Công ty Cơ khí xây dựng.
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN ĐẦU TƯ SẢN XUẤT
VÀ CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG
I.LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN ĐẦU TƯ SẢN XUẤT .
1.Khái niệm và đặc trưng của vốn đầu tư sản xuất.
1.1.Khái niệm vốn đầu tư sản xuất.
Để hiểu được khái niệm vốn đầu tư sản xuất phải xuất phát từ khái niệm vốn.
Xét về bản chất, vốn chính là phần tiết kiệm hay tích lũy mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội. Điều này đã được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị Mac-Lênin và kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong bộ Tư bản, Mac đã khái quát hóa phạm trù vốn thông qua phạm trù tư bản. Theo Mac, tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư qua quá trình vận động của nó.Đặc biệt Mac chỉ ra nguồn lực của vốn tích lũy là lao động thặng dư do những người lao động tạo ra và nguồn vốn đó được đem dùng vào việc mở rộng và phát triển sản xuất, cái mà các nhà tư bản gọi là vốn đầu tư. Quan điểm về vốn lại tiếp tục được các nhà kinh tế học hiện đại đề cập đến trong các công trình nghiên cứu của mình. Trong cuốn "Kinh tế học" của mình, Pual A.Samuelson đã viết:"Hàng tư bản do bản thân hệ thống kinh tế sản xuất ra để được sử dụng làm đầu vào của sản xuất để làm ra hàng hóa và dịch vụ ". Theo Samuelson thì vốn chính là của cải do nền kinh tế sản xuất ra mà không tiêu dùng ở hiện tại mà để tăng tiêu dùng ở tương lai. Như vậy xã hội đầu tư hay nhịn tiêu dùng ở hiện tại để thu được kết quả hay lợi ích của đầu tư trong tương lai.
Vốn là một phạm trù kinh tế đã được đề cập tới dưới nhiều góc độ khác nhau trong các lý thuyết kinh tế. Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế thị trường ngày nay vốn được hiều là giá trị tài sản xã hội được hình thành từ các nguồn lực vật chất và phi vật chất của xã hội gồm tài sản tích lũy, tài nguyên thiên nhiên, nhân lực, trí lực, giá trị văn hóa tinh thần và các lợi thế khác được sử dụng trong sản xuất kinh doanh nhằm thu được hiệu quả kinh tế xã hội.
Vốn đầu tư được phân biệt với vốn thông thường ở một số điểm sau: vốn đầu tư được phục vụ cho mục tiêu đầu tư phát triển, được sử dụng cho các mục tiêu đã hoạch định, chủ yếu được sử dụng để hình thành các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, kỹ thuật và các tài sản cố định cho nền kinh tế.
Tùy theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư, có thể phân chia vốn đầu tư thành vốn đầu tư phát triển khoa học - kỹ thuật, vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển hạ tầng...
Qua phần phân tích trên có thể khái quát lại khái niệm về vốn đầu tư sản xuất như sau: Vốn đầu tư sản xuất là một lượng giá trị tài sản (tài sản hữu hình và vô hình) được dùng đầu tư vào hoạt động sản xuất nhằm mang lại lợi nhuận cho chủ đầu tư.
1.2.Đặc điểm của vốn đầu tư sản xuất.
Vốn đầu tư sản xuất có các đặc trưng sau đây :
- Vốn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản, điều này có nghĩa là vốn phải đại diện cho một lượng giá trị đích thực của các tài sản hữu hình hoặc vô hình như: tư liệu sản xuất, nhà xưởng, đất đai, nguyên vật liệu, bằng sáng chế, quyền sở hữu trí tuệ,...
- Vốn là tài sản vận động được.Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng không có nghĩa có tiền là có vốn. Tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn, để trở thành tiền phải vận động và sinh lời. Vì vậy, hàng hóa, vật tư tồn kho ứ đọng, tài sản cố định không dùng, tài nguyên, sức lao động không sử dụng, tiền vàng cất trữ, các khoản nợ khó đòi chỉ là vốn chết.
- Vốn phải được tích tụ, tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát huy được tác dụng. Để đầu tư sản xuất, vốn phải được gom lại thành những món tiền đủ lớn, do đó các nhà đầu tư không chỉ khai thác mọi tiềm năng vốn của doanh nghiệp mà còn phải tìm cách góp vốn, hùn vốn liên doanh, phát hành cổ phiếu...
- Trong nền kinh tế thị trường, vốn luôn gắn liền với quyền sở hữu, đồng thời vốn có khả năng tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng. Tùy theo hình thức đầu tư mà vốn đầu tư có thể thuộc sở hữu của chủ đầu tư hoặc không
- Vốn đầu tư sản xuất thường phục vụ cho những mục tiêu đã được hoạch định cụ thể, có sự chuẩn bị kỹ lưỡng từ khâu chuẩn bị dự án đến triển khai thực hiện dự án và khai thác kết quả đầu tư.
2.Phân loại vốn đầu tư sản xuất.
2.1.Phân loại theo nội dung của vốn.
Theo nội dung, vốn đầu tư bao gồm các yếu tố chi phí sau đây :
- Chi phí xây lắp, bao gồm:
+ Chi phí phá và tháo dỡ các vật kiến trúc cũ.
+ Chi phí san lấp mặt bằng xây dựng.
+ Chi phí xây dựng công trình tạm, công trình phụ trợ, phục vụ thi công, nhà tạm tại hiện trường thi công.
+ Chi phí xây dựng các hạng mục công trình.
+ Chi phí lắp đặt thiết bị.
+ Chi phí di chuyển lớn thiết bị thi công và lực lượng xây dựng.
- Chi phí thiết bị, bao gồm :
+ Chi phí mua sắm thiết bị công nghệ .
+ Chi phí vận chuyển từ cảng và nơi mua đến công trình, chi phí lưu kho, lưu bãi, lưu Container tại cảng Việt Nam, chi phí bảo quản, bảo dưỡng tại kho bãi tại hiện trường.
+ Thuế và chi phí bảo hiểm thiết bị công trình.
- Chi phí khác :
Do đặc điểm riêng biệt của khoản chi phí này nên nội dung của từng loại chí phí được phân chia theo các giai đoạn của quá trình đầu tư và xây dựng.Cụ thể là :
+ Chi phí khác ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư
+ Chi phí khác ở giai đoạn thực hiện đầu tư
+ Chi phí khác ở giai đoạn kết thúc xây dựng đưa vào công trình vào sử dụng
2.2.Phân loại theo bản chất của các đối tượng đầu tư.
Vốn đầu tư bao gồm :
- Vốn đầu tư cho các đối tượng vật chất (đầu tư tài sản vật chất như nhà xưởng, máy móc, thiết bị...).
- Vốn đầu tư cho các đối tượng phi vật chất (đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực như đào tạo, nghiên cứu khoa học, đầu tư phát triển thương hiệu,...).
Trong các loại đầu tư trên đây, đầu tư đối tượng vật chất là điều kiên tiên quyết, cơ bản làm tăng tiềm lực của nền kinh tế, còn đầu tư tài sản trí tuệ và các nguồn lực khác là điều kiện tất yếu để đảm bảo cho đầu tư các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế cao.
2.3.Phân loại theo cơ cấu tái sản xuất.
Vốn đầu tư gồm vốn đầu tư theo chiều rộng và vốn đầu tư theo chiều sâu.
- Vốn đầu tư chiều rộng có đặc điểm là vốn lớn để khê đọng lâu, thời gian thực hiện đầu tư và thời gian cần hoạt động để thu hồi vốn lâu, tính chất kỹ thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao.
- Vốn đầu tư chiều sâu đòi hỏi khối lượng vốn ít hơn, thời gian thực hiện đầu tư không lâu, độ mạo hiểm thấp hơn so với đầu tư theo chiều rộng.
2.4.Phân loại theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư.
Vốn đầu tư được chia thành :
- Vốn đầu tư ngắn hạn.
- Vốn đầu tư dài hạn.
2.5.Phân loại theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư.
Vốn đầu tư được chia thành :
- Vốn đầu tư gián tiếp : người bỏ vốn không trực tiếp tham gia điều hành quản lý quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư.
- Vốn đầu tư trực tiếp : người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư.
2.6.Phân loại theo nguồn vốn.
Vốn đầu tư được chia thành :
- Vốn huy động từ nội bộ doanh nghiệp.
- Vốn huy động từ ngoài doanh nghiệp.
2.7.Phân loại theo tính chất luân chuyển của vốn.
Vốn đầu tư được chia thành :
- Vốn cố định : Đây là nguồn vốn có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài, chủ yếu nguồn vốn này được sử dụng để mua sắm, xây dựng nhằm hình thành nên cơ sở vật chất kỹ thuật của một doanh nghiệp. Đặc điểm cơ bản của loại vốn này là có thể tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu của nó.
- Vốn lưu động : Giá trị nhỏ, thời gian sử dụng thường dưới 1 năm, giá trị của nó dịch chuyển một lần vào giá thành sản phẩm.
II. CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ SẢN XUẤT CHO DOANH NGHIỆP.
1. Các hình thức huy động vốn đầu tư sản xuất.
1.1.Nguồn cung ứng từ nội bộ doanh nghiệp.
1.1.1.Khấu hao tài sản cố định.
Tài sản cố định là những tư liệu lao động tham gia vào nhiều quá trình sản xuất. Trong quá trình sử dụng, tài sản cố định bị hao mòn dần và chuyển dần giá trị của nó vào giá thành sản phẩm. Hao mòn tài sản cố định là một quá trình mang tính khách quan, phụ thuộc vào nhiều nhân tố như chất lượng của bản thân tài sản cố định, các yếu tố tự nhiên, cường độ sử dụng tài sản cố định
....Trong quá trình sử dụng tài sản cố định doanh nghiệp phải xác định mức độ hao mòn của chúng để chuyển dần giá trị hao mòn vào giá trị sản phẩm được gọi là trích khấu hao tài sản cố định. Việc xác định mức khấu hao cụ thể phụ thuộc vào thực tiễn sử dụng tài sản cố định cũng như ý muốn chủ quan của nhà quản trị. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước trong chừng mực nhất định quá trình xác định khấu hao chịu ảnh hưởng của ý đồ của Nhà nước thông qua các quy định, chính sách cụ thể của cơ quan tài chính trong từng thời kỳ. Các doanh nghiệp khác có thể lựa chọn thời hạn sử dụng và phương pháp tính khấu hao cụ thể. Trong chính sách tài chính cụ thể ở từng thời kỳ, doanh nghiệp có thể lựa chọn khấu hao và điều chỉnh khấu hao tài sản cố định và coi đây như một công cụ điều chỉnh nguồn cung ứng vốn bên trong của mình. Tuy nhiên, cần chú ý rằng việc điều chỉnh khấu hao không thể diễn ra một cách tùy tiện, không có kế hoạch mà phải trên cơ sở các kế hoạch tài chính dài hạn và ngắn hạn đã được xác định. Mặt khác, cần chú ý rằng điều chỉnh tăng khấu hao tài sản cố định sẽ dẫn đến tăng chi phí kinh doanh khấu hao tài sản cố định trong giá thành sản phẩm nên luôn luôn bị khống chế bởi giá thành sản phẩm.
2.1.2.Tích lũy tái đầu tư.
Tích lũy tái đầu tư luôn được các doanh nghiệp coi là nguồn cung ứng tài chính quan trọng vì có các ưu điểm cơ bản sau:
- Doanh nghiệp hoàn toàn chủ động sử dụng nguồn vốn này.
- Giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung ứng vốn.
- Giúp doanh nghiệp tăng tiềm lực tài chính nhờ giảm tỉ lệ nợ/vốn.
- Càng có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong điều kiện chưa tạo được tín nhiệm với các nhà cung ứng tài chính.
Quy mô tự cung ứng vốn từ tích lũy tái đầu tư tùy thuộc vào hai nhân tố chủ yếu là lợi nhuận thu được trong từng kỳ kinh doanh cụ thể và chính sách phân phối lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp. Tổng số lợi nhuận cụ thể thu được trong từng thời kỳ phụ thuộc vào quy mô kinh doanh, chất lượng hoạt động kinh doanh của toàn doanh nghiệp trong thời kỳ đó. Chính sách phân phối lợi nhuận cũng tùy thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước, lợi nhuận thu được sẽ phải được sử dụng vào các khoản sau: nộp tiền sử dụng vốn ngân sách Nhà nước theo quy định, trả các khoản phạt quy định không được tính vào chi phí kinh doanh, lập các quỹ đặc biệt, chia lãi cho các đối tác liên doanh. Phần còn lại dùng để lập các quỹ doanh nghiệp gồm: quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính(10%), quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm(5%), quỹ khen thưởng và phúc lợi(nhỏ hơn từ 2 - 3 tháng lương). Như vậy tích lũy tái đầu tư chủ yếu được lấy từ quỹ đầu tư phát triển,quỹ dự phòng tài chính, thường nguồn vốn từ quỹ này chẳng còn lại là bao nhiêu sau khi trích nộp các khoản và các quỹ theo quy định .
Đối với công ty cổ phần, toàn bộ lợi nhuận sau thuế sẽ được dùng để trích lập quỹ dự trữ bắt buộc (5% lợi nhuận) cho đến khi số dư quỹ bằng 10% vốn điều lệ. Số còn lại phân phối vào các quỹ tái đầu tư phát triển, quỹ nghiên cứu phát triển và đào tạo, quỹ dự phòng rủi ro, quỹ khen thưởng và phúc lợi, chia cổ tức. Thường tỉ lệ trích lập quỹ tái đầu tư phát triển của các công ty cổ phần cao hơn so với doanh nghiệp Nhà nước.
2.1.3.Điều chỉnh cơ cấu tài sản.
Do môi trường kinh doanh nhiều biến động, nhiệm vụ kinh doanh thay đổi nên trong kinh doanh luôn diễn ra hiện tượng thừa loại tài sản này nhưng lại thiếu loại tài sản khác. Điều chỉnh cơ cấu tài sản chính là việc kịp thời có giải pháp bán các tài sản cố định dư thừa, không sử dụng đến; mặt khác, trên cơ sở thường xuyên kiểm tra, tính toán và xác định lại mức dự trữ tài sản lưu động, ứng dụng mô hình dự trữ tối ưu nhằm giảm lượng lưu kho tài sản lưu động không cần thiết, đảm bảo lượng lưu kho mỗi loại tài sản lưu động hợp lý. Phương thức này tuy không làm tăng tổng số vốn sản xuất kinh doanh nhưng lại có tác dụng rất lớn trong việc tăng vốn cho các hoạt động cần thiết trên cơ sở giảm vốn ở những nơi không cần thiết.
Phương thức này có ưu điểm rất lớn là hoàn toàn do doanh nghiệp chủ động, không bị phụ thuộc vào bên ngoài; doanh nghiệp có toàn quyền sử dụng trong dài hạn với chi phí sử dụng vốn thấp. Mặt khác, sự nỗ lực tự cung ứng luôn được coi là một yếu tố để người cấp vốn bên ngoài xem xét khả năng cho vay vốn.
Tuy nhiên phương thức này cũng có hạn chế cơ bản là quy mô cung ứng vốn nhỏ và nguồn bổ sung luôn có giới hạn.
2.2.Nguồn cung ứng từ bên ngoài doanh nghiệp.
2.2.1. Nguồn vốn Ngân sách Nhà nước.
- Nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
Với hình thức cung ứng từ ngân sách Nhà nước doanh nghiệp sẽ nhận được lượng vốn xác định từ ngân sách Nhà nước cấp. Thông thường hình thức này không đòi hỏi nhiều điều kiện ngặt nghèo đối với doanh nghiệp được cấp vốn như các hình thức huy động vôn khác.
Tuy nhiên, càng ngày hình thức cung ứng vốn từ ngân sách Nhà nước càng bị thu hẹp cả về quy mô và phạm vi được cấp vốn. Hiện nay, đối tượng được cung ứng theo hình thức này thường phải là doanh nghiệp Nhà nước được Nhà nước xác định duy trì để đóng vai trò chủ đạo; các dự án đầu tư ở những lĩnh vực sản xuất hàng hóa công cộng, hoạt động công ích mà tư nhân không muốn hoặc không có khả năng đầu tư; các dự án lớn có tầm quan trọng đặc biệt do Nhà nước trực tiếp đầu tư.
2.2.2. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong giải quyết vấn đề vốn cho các dự án phát triển sản xuất quy mô lớn. Mục đích của đầu tư tín dụng phát triển Nhà nước là hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn có tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của Nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn.
Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước được thực hiện dưới ba hình thức :
+ Cho vay đầu tư phát triển với lãi suất ưu đãi.
+ Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư.
+ Bảo lãnh tín dụng đầu tư.
Nguyên tắc tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước :
+ Hỗ trợ cho những dự án đầu tư có khả năng thu hồi vốn trực tiếp thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tê lớn có hiệu quả kinh tế - xã hội, bảo đảm hoàn trả được vốn vay.
+ Một dự án có thể đồng thời được hỗ trợ theo hình thức cho vay đầu tư một phần và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư; hoặc đồng thời được cho vay đầu tư một phần và bảo lãnh tín dụng đầu tư.
+ Tổng mức hỗ trợ theo các hình thức không quá 85% vốn đầu tư của dự án.
+ Dự án vay vốn đầu tư hoặc bảo lãnh