Trong quá trình chuyển đổi cơcấu kinh tế, từ nền kinh tế hành chính quan liêu bao
cấp sang cơchế hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế quốc dân bao
gồm nhiều thành phần kinh tế, nhiều ngành nghề với quy mô và trình độ khác nhau,
công nghệ khác nhau. Phát triển nông -lâm -ngư -nghiệp gắn liền công nghệ chế
biến và xây dựng nông thôn mới. Để đưa nền kinh tế nông thôn phát triển ngang tầm
nền kinh tế thành thị, từng bước công nghiệp hoá -hiện đại hoá trong nông nghiệp.
Vì thế việc phát triển và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ hàng đầu, nó có tầm
quan trọng trong việc nâng cao và ổn định đời sống của hộ sản xuất nông nghiệp,
không ngừng tăng cường và phát triển đời sống mới ở nông thôn.
Muốn đạt được mục đích trên trước hết phải chú ý đến nền sản xuất nông nghiệp
hiện nay bằng cách trong sản xuất nông nghiệp phải thay đổi cơ cấu và tính chất
trong quan hệ sản xuất nông nghiệp, lấy sản xuất hộ nông dân là mặt trận hàng đầu,
thông qua việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh việc phát triển trong chăn
nuôi gia súc, gắn liền với việc sản xuất hàng hoá tiêu dùng phải đẩy mạnh sản xuất
hàng hoá xuất khẩu, mở rộng kinh tế đối ngoại phát triển kinh tế dịch vụ, đẩy mạnh
việc mở rộng và phát triển ngành nghề truyền thống. Từng bước xây dựng đồng bộ
kết cấu hạ tầng, xây dựng nền công nghiệp nặng với bước đi thích h ợp.
46 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1766 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Huyện Thanh Tr, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan chuyên đề “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay hộ
sản xuất tại chi nhánh NHNo & PTNT Huyện Thanh Trì" là công trình nghiên cứu
riêng của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong chuyên đề là trung thực xuất phát từ tình
hình thực tế của đơn vị thực tập, Nếu có dấu hiệu sai lệch tôI xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 05/11/2005
Người trình bày: Đặng thị thanh hoài.
Lời nói đầu
Trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, từ nền kinh tế hành chính quan liêu bao
cấp sang cơ chế hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế quốc dân bao
gồm nhiều thành phần kinh tế, nhiều ngành nghề với quy mô và trình độ khác nhau,
công nghệ khác nhau. Phát triển nông - lâm -ngư - nghiệp gắn liền công nghệ chế
biến và xây dựng nông thôn mới. Để đưa nền kinh tế nông thôn phát triển ngang tầm
nền kinh tế thành thị, từng bước công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong nông nghiệp.
Vì thế việc phát triển và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ hàng đầu, nó có tầm
quan trọng trong việc nâng cao và ổn định đời sống của hộ sản xuất nông nghiệp,
không ngừng tăng cường và phát triển đời sống mới ở nông thôn.
Muốn đạt được mục đích trên trước hết phải chú ý đến nền sản xuất nông nghiệp
hiện nay bằng cách trong sản xuất nông nghiệp phải thay đổi cơ cấu và tính chất
trong quan hệ sản xuất nông nghiệp, lấy sản xuất hộ nông dân là mặt trận hàng đầu,
thông qua việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh việc phát triển trong chăn
nuôi gia súc, gắn liền với việc sản xuất hàng hoá tiêu dùng phải đẩy mạnh sản xuất
hàng hoá xuất khẩu, mở rộng kinh tế đối ngoại phát triển kinh tế dịch vụ, đẩy mạnh
việc mở rộng và phát triển ngành nghề truyền thống. Từng bước xây dựng đồng bộ
kết cấu hạ tầng, xây dựng nền công nghiệp nặng với bước đi thích hợp.
Trước hết là các ngành dịch vụ cho việc phát triển trong sản xuất nông nghiệp, thực
hiện chuyên môn hoá, tự động hoá trong sản xuất chúng ta thấy nước ta sản xuất
nông nghiệp là chủ yếu chiếm 70% trong nền sản xuất hàng hoá. Thu nhập chính
trong nền kinh tế quốc dân. Đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta qua các giai
đoạn đều tập trung quan tâm chú trọng tới nông nghiệp. Luôn có những chính sách
mới về nông nghiệp để phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế. Ban thư ký
Trung ương Đảng và Bộ chính trị đã ra chỉ thị 100 và quyết định đưa việc khoán 10
trong sản xuất nông nghiệp. Đây là chính sách lớn làm thay đổi nền sản xuất nông
nghiệp. Đổi mới về mô hình cũng như tổ chức sản xuất trong nông nghiệp.
Ngày 02 tháng 03 năm 1993 Thủ tướng Chính phủ ra nghị định số 14 ban hành quy
định về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông lâm ngư nghiệp và
kinh tế nông thôn. Kèm theo nghị định này có những quy định cụ thể về chính sách
cho hộ sản xuất vay vốn. Mục đích khai thác hết tiềm năng thế mạnh của từng vùng,
sức lao động, năng lực trình độ tổ chức sản xuất tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội,
nâng cao đời sống của các hộ sản xuất hết đói nghèo. Tạo điều kiện cho các hộ sản
xuất có điều kiện vươn lên làm giầu chính đáng.
Để thực hiện thắng lợi đường lối phát triển kinh tế của Đảng, thực hiện nghiêm túc
chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ... chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển
nông ngư diêm nghiệp và kinh tế nông thôn. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn dưới sự chỉ đạo của ngân hàng Nhà nước đã tổ chức triển khai tới toàn
ngành, việc đầu tư vốn cho các hộ sản xuất có nhu cầu vay vốn để sản xuất - kinh
doanh không phân biệt các thành phần kinh tế. Đã tìm ra giải pháp thực hiện nhiệm
vụ cụ thể của mình mở rộng mạng lưới trên khắp mọi miền đất nước phục vụ cho sự
nghiệp phát triển kinh tế nông thôn, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. Có các
quy định cụ thể về việc cho vay vốn hộ sản xuất như văn bản 499A quy định về
nghiệp vụ cho vay hộ sản xuất. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt
Nam chấp nhận khó khăn vì lợi ích kinh tế của đất nước và của ngành đã vượt qua
những bước thăng trầm đứng vững lên trong cơ chế thị trường chuyển hướng đầu tư
tín dụng về với nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Người nông dân mấy năm qua
đã gắn bó, gắn gũi với ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thực sự đã là
người bạn đồng hành với ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. Họ đã tiếp
nhận vốn vay và sử dụng có hiệu quả nên thực sự đã hết được nghèo đói một số hộ
đã vượt lên làm giầu chính đáng vì vậy đầu tư vốn cho hộ sản xuất là rất cần thiết,
thực sự là ý Đảng lòng dân luôn được các cấp các ngành quan tâm giúp đỡ.
Chính vì vậy, em mạnh dạn chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
cho vay hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thanh
Trì”.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử và lý luận kinh tế, quản lý trên lĩnh vực tài chính ngân hàng để thống kê,
phân tích tổng hợp, tổng kết thực tiễn, nhằm đưa ra các giải pháp cho hoạt động tín
dụng ngân hàng.
Chuyên đề được chia thành 2 chương:
Chương I: Tín dụng hộ sản suất – thực trạng cho vay Hộ sản xuất trong thời gian
qua tại NHNN & PTNT Huyện Thanh Trì.
Chương II: Các giải pháp hoàn thiện và mở rộng cho vay hộ sản xuất trong thời gian
tới tại NHNN&PTNT huyện Thanh Trì.
Chương I: Tín dụng Hộ Sản xuất - Thực trạng cho vay
Hộ sản xuất tại NHNn&PTNT Thanh trì
1.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội huyện Thanh Trì .
1.1.1, tình hình kinh tế – xã hội huyện thanh trì:
Huyện Thanh Trì là huyện nằm ở vùng trũng phía Nam Hà Nội, kinh tế nông nghiệp
là chủ yếu. Trong những năm gần đây, thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ XX kinh tế Huyện đã
có bước phát triển khá. Hiện nay Huyện đang tập trung chỉ đạo phát triển kinh tế
nông nghiệp, xây dựng nông thôn, có chính sách ưu tiên hỗ trợ nông thôn chuyển đổi
cơ cấu sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, chỉ đạo thực hiện các dự án
phát triển làng nghề, quy hoạch khu sinh thái, các dự án phát triển rau, hoa cao cấp
có giá trị kinh tế cao...
Tuy nhiên hiện nay diện tích đất cho sản xuất nông nghiệp hiện đang bị thu hẹp do
Nhà nước triển khai nhiều dự án vào địa bàn Huyện, làm giảm tỷ trọng ngành nông
nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản và
thương mại dịch vụ. Tốc độ đô thị hoá diễn ra rất nhanh.
Năm 2004 UBND thành phố Hà Nội thành lập 2 quận mới và đã chia tách 09 xã của
Huyện Thanh Trì về quận Hoàng Mai.
Điều kiện kinh tế - xã hội của Huyện như trên đã tạo ra một số thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh của NHNo & PTNT Thanh Trì cụ thể:
- NHNo & PTNT Thanh Trì có hướng đầu tư mới trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ
- xây dựng. Là một ngân hàng lớn và có uy tín trên địa bàn Huyện, với mạng lưới chi
nhánh và phòng giao dịch được bố trí rất thuận tiện cho dân cư trong Huyện, đặc biệt
ở gần các làng nghề, các khu dân cư có tốc độ đô thị hoá cao như Đông Mỹ, Cầu
Bươu, PGD Ngũ Hiệp... sẽ giúp ngân hàng thu hút được khách hàng.
- Việc Quận mới Hoàng Mai được thành lập, nhờ mối quan hệ uy tín lâu dài với
Khoa bạc Nhà nước và BHXH quận Hoàng Mai, Ngân hàng Thanh Trì đã thu hút
được KBNN quận Hoàng Mai và BHXH Hoàng Mai mở tài khoản và giao dịch tại
NHNo Thanh Trì, đặc biệt là các đơn vị này luôn có nguồn tiền gửi với lãi suất thấp,
chi phí trả lãi rẻ. Đồng thời nhờ việc nhanh chóng khai trương PGD Vạn Xuân để
tranh thủ thu hút khách hàng là các cán bộ công chức trên địa bàn quận Hoàng Mai
nên việc cho vay được tăng trưởng.
- Như đã nói, Nhà nước triển khai nhiều dự án trọng điểm trên địa bàn Huyện năm
2004 như dự án cầu Thanh Trì, đường vành đai 3, khu công nghiệp Ngọc Hồi..., việc
đền bù giải phóng mặt bằng được triển khai mạnh mẽ, tạo điều kiện cho Ngân hàng
thu nợ tồn đọng khó đòi và thu tiền gửi tiết kiệm khá lớn từ dân cư tập trung ở một
số địa bàn có dự án.
- Với tốc độ đô thị hoá nhanh, nhiều doanh nghiệp (chủ yếu là vừa và nhỏ) và các
Công ty ra đời trên địa bàn Huyện tạo điều kiện để NHNo & PTNT Thanh Trì thu
hút khách hàng là doanh nghiệp, điều mà trước đây còn rất hạn chế.
Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội như trên tạo ra khó khăn cho hoạt động kinh
doanh của NHNo & PTNT Thanh Trì, đó là:
- Do diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp dẫn tới thị phần đầu tư hộ sản xuất nông
nghiệp của ngân hàng bị thu hẹp.
- Phòng giao dịch của ngân hàng chính sách xã hội, phòng giao dịch của ngân hàng
Đầu tư Hà Nội ra đời, thêm vào đó, NHNo Hoàng Mai được khai trương vào đầu
năm 2005 tạo ra sự cạnh tranh về huy động vốn, cho vay và chia sẻ thị phần của
NHNo Thanh Trì tại khu vực.
- Do đối tượng vay của NHNo & PTNT Thanh Trì chủ yếu là bà con nông dân với
đối tượng đầu tư là cây trồng, con giống, gia súc, thả cá, sản xuất nông nghiệp với số
món tuy nhiều nhưng lượng nhỏ lẻ, manh mún, nên dư nợ cho vay hộ sản xuất còn ít.
Hơn nữa, trình độ dân trí nhìn chung còn thấp, hiểu biết hạn chế, vì vậy rủi ro lớn.
Trước những thuận lợi và khó khăn đó, chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Trì
đã, đang và sẽ nỗ lực hết mình để có thể vừa vượt qua được những khó khăn thử
thách để đứng vững trong cạnh tranh, phát huy hơn nữa thế mạnh cũng như khai thác
những điều kiện thuận lợi để phát triển hoạt động kinh doanh của mình.
1.1.2. Sự cần thiết của tín dụng hộ sản xuất trong nền kinh tế
Tình hình kinh tế – xã hội huyện Thanh trì cho chúng ta thấy việc phát triển kinh tế
nông nghiệp ở nông thôn hiện nay giữ một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình
sản xuất nông nghiệp, kinh doanh hàng hoá, phát triển và mở rộng các ngành nghề
truyền thống, khi đồng tiền này sẵn có trong nông nghiệp. Hộ sản xuất là một trong
những nhân tố quyết định tạo ra của cải vật chất cho xã hội, làm phong phú và đã
dạng hoá trong nông nghiệp. Từ việc sản xuất hàng hoá mang tính chất tự cung tự
cấp, đến việc trao đổi hàng hoá trên thị trường. Hộ sản xuất là đơn vị sản xuất hàng
hoá tự chủ tiến hành sản xuất trong điều kiện tự nhiên, phải tham gia cạnh tranh của
nhiều thành phần kinh tế, trong quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Ngày nay
kinh tế hộ đã và đang phát triển nhờ có cơ chế chính sách mới của Đảng cho hộ tự
chủ trong sản xuất kinh doanh đã phát huy được thế mạnh tính năng động sáng tạo,
tính nhanh nhạy trong việc: Thay đổi cơ cấu sản xuất, Thay đổi cơ cấu đầu tư. Mạnh
dạn đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao, hàng
hoá sản xuất ra ngày càng phong phú. Đời sống nhân dân được cải thiện. Như vậy từ
việc phát triển kinh tế hộ đã hình thành nên các thị trường tiêu thụ hàng hoá ngày
càng mở rộng và phát triển đã làm cho nền kinh tế nông thôn ngày càng đổi mới.
Trong thời gian qua hoạt động của ngân hàng đã có những đóng góp đáng kể vào
thành công của sự nghiệp đổi mới nền kinh tế đất nước, điều hành chính sách tiền tệ
tích cực, cơ bản ổn định được giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, tăng dự trữ ngoại
tệ cho quốc gia.
Huy động được một khối lượng đáng kể vốn trong và ngoài nước, thúc đẩy đầu tư
cho sản xuất của các thành phần kinh tế góp phần tăng trưởng kinh tế, tăng cường
đầu tư tín dụng ưu đãi để phục vụ xoá đói giảm nghèo và thực hiện một số chính
sách xã hội.
Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường công nhận sự ra đời và tồn tại của
nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế nói chung và kinh tế hộ nông dân
nói riêng. Muốn sản xuất kinh doanh dịch vụ đòi hỏi tư liệu sản xuất, vật tư tiền vốn
phải luôn đổi mới và mở rộng, thay đổi hình thức đầu tư vốn, luôn cải thiện trang
thiết bị mẫu mã. Đổi mới cơ cấu đầu tư cây giống, con giống... mặt hàng mới sản
xuất luôn phải phù hợp với nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng. Muốn đổi mới sản
xuất kinh doanh cần phải có vốn đầu tư. Nhu cầu vốn này bản thân người sản xuất
không thể có đủ được mà cần phải có sự hỗ trợ của Nhà nước và các tổ chức tín dụng
của ngân hàng.
Trước nhu cầu cấp thiết của nền kinh tế. Thực hiện nghiêm chỉ thị của Thủ tướng
Chính phủ ngành ngân hàng cũng nhanh chóng đổi mới phương thức đầu tư thích
hợp để hoà nhập với cơ chế thị trường. Là đầu tư vốn mở rộng tới các thành phần
kinh tế về với thị trường nông thôn, nông nghiệp và nông dân. Đổi mới công tác kế
hoạch hoá tín dụng gắn liền với quan hệ cung cầu trên thị trường vốn. Đầu tư vốn tới
các hộ sản xuất ở nông thôn nhằm thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển.
Nguồn vốn cho vay của ngân hàng là nguồn vốn bổ sung vốn thiếu cho hộ sản xuất
trong quá trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Vốn tín dụng tạo điều kiện cho các hộ
sản xuất phát triển các ngành nghề trồng trọt, chăn nuôi cải tạo cây con giống cho
năng suất cao giá trị lớn vốn tín dụng đầu tư mở rộng sản xuất các ngành nghề truyền
thống giải quyết việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống dân sinh. Vốn tín
dụng đ• đến với tất cả các loại hộ sản xuất.
- Hộ giầu có điều kiện mở rộng sản xuất cải tiến kỹ thuật thu hút lao động tổ chức
sản xuất lớn tạo ra nhiều sản phẩm có năng suất chất lượng tốt giá trị cao đáp ứng thị
hiếu tiêu dùng. Bù đắp đủ chi phí còn có tích luỹ ngày càng nhiều hộ giầu ngày càng
giầu thêm.
- Hộ trung bình vay thêm vốn tín dụng ngân hàng có điều kiện mở rộng sản xuất.
Từng bước đầu tư thiết bị tăng năng suất lao động sản phẩm sản xuất ra nhiều hơn đủ
chi dùng cho gia đình còn dôi thừa, dần dần có tích luỹ để tái tạo sản xuất để trở
thành hộ sản xuất khá dẫn đến giầu.
- Hộ nghèo đói có vốn tín dụng dần từng bước tiếp thu khoa học kỹ thuật tự tổ chức
sản xuất làm ra sản phẩm dần cải thiện đời sống đủ bù đắp chi phí sinh hoạt cho gia
đình từ hộ nghèo đói phấn đấu trở thành hộ trung bình.
Việc thực hiện chủ trương chính sách cho vay đối với kinh tế hộ ở ngân hàng nông
nghiệp thực hiện theo văn bản 499A. Đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc tín dụng
hộ sản xuất sử dụng vốn tín dụng ngân hàng phải sử dụng đúng mục đích bảo toàn
vốn sử dụng có hiệu quả, hoàn trả vốn ngân hàng đầy đủ cả gốc và lãi, ngân hàng sẽ
tiếp tục đầu tư vốn để thực hiện chu kỳ sản xuất tiếp theo.
Như vậy việc đầu tư vốn tín dụng cho các hộ là rất cần thiết đây cũng là một chính
sách mới của Đảng đối với kinh tế hộ đã làm cho quá trình phân hoá giàu nghèo ở
nông thôn được rút ngắn, kinh tế nông thôn ngày càng đổi mới.
Tóm lại: Tín dụng ngân hàng đối với việc mở rộng và phát triển kinh tế hộ ở nông
thôn là một chủ trương lớn của Đảng. Thông qua việc cho vay trực tiếp đến hộ sản
xuất, thông qua việc đầu tư vốn đã khuyến khích tạo điều kiện cho hộ thiếu vốn có
vốn sản xuất, phát triển các ngành nghề truyền thống. Tín dụng ngân hàng đã làm
thay đổi về cơ cấu sản xuất ở nông thôn thông qua việc đầu tư vốn đã xoá hẳn nạn
cho vay nặng lãi, bước đầu đã làm cho nền kinh tế nông thôn phát triển nâng cao đời
sống của nông dân nông thôn.
1.2 thực trạng cho vay hộ sản xuất tại ngân hàng thanh trì trong thời gian qua.
1.2.1. Hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT Thanh Trì thời gian qua.
a). Hoạt động huy động vốn.
Đối với một NHTM thì nguồn vốn là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển
của nó trong tương lai. Bởi vai trò của ngân hàng là "đi vay" để "cho vay". Nguồn
vốn còn ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh và lợi thế cạnh tranh của các
NHTM. Hầu hết các NHTM Việt Nam hiện nay đều huy động cho mình nguồn vốn
bằng nhiều biện pháp và tiêu chí là tìm nguồn vốn sao cho chi phí rẻ nhất và ổn định.
Theo tiêu chí đó, ngân hàng có thể sử dụng biện pháp làm tăng sự "hấp dẫn" của lãi
suất, làm phong phú về mặt kỳ hạn gửi, rút... Có thể nói thời gian vừa qua công tác
huy động vốn của chi nhánh NHNo Thanh Trì tương đối tốt.
Nắm bắt được các điều kiện kinh tế - xã hội của huyện và xuất phát từ kế hoạch
nguồn vốn của mình, chi nhánh đã chủ trương khơi tăng nguồn vốn từ dân cư, đặc
biệt trú trọng đến công tác huy động vốn không kỳ hạn với mức lãI suất thấp. NHNo
Thanh Trì đã trú trọng tới việc nâng cấp mạng lưới phòng giao dịch để thu hút nguồn
vốn ổn định, vững chắc. Chi nhánh đã tăng cường các hoạt động tiếp thị, tuyên
truyền, để thu hút các nguồn vốn mang tính ổn định, lãi suất thấp như của kho bạc
Hoàng Mai, BQLDA Thăng Long. Chi nhánh cũng tăng cường thiết lập các mối
quan hệ thu - chi tiền mặt tại chỗ với các tổ chức, đơn vị kinh tế có khả năng tài
chính lớn như BQL dự án khu công nghiệp Ngọc Hồi, dự án khu công nghiệp Cầu
Bươu..., tiếp thị với các doanh nghiệp để họ mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh...
Thời gian vừa qua, chi nhánh đã và đang tập trung huy động vốn từ dân cư do đền bù
giải phóng mặt bằng của các dự án trên địa bàn Hoàng Mai và Thanh Trì.
Bên cạnh đó, NHNo Thanh Trì còn thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ mọi tầng lớp dân
cư bằng các chương trình khuyến mại cho khách hàng,... (chương trình huy động vốn
có thưởng bằng vàng ba chữ A của NHNo Việt Nam, áp dụng mức lãi suất huy động
hấp dẫn khi mở phòng giao dịch Vạn Xuân, Khương Đình...)
Với rất nhiều biện pháp khác nhau, chi nhánh đã huy động được một nguồn vốn tăng
cường liên tục, kết quả thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.1. Cơ cấu nguồn vốn theo tính chất huy động
Đơn vị: Triệu đồng
TG của dân cư
TG của TCKT
TG của TCTD
Tổng nguồn vốn
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh NHNo & PTNT Thanh Trì)
Qua bảng số liệu ta thấy tổng nguồn vốn của chi nhánh có xu hướng tăng lên. Năm
2004 tổng nguồn tăng 53.700 triệu đồng so với năm2003 (tương đương 9%). Trong
đó nguồn tiền gửi của dân cư có xu hướng tăng nhanh hơn so với nguồn tiền gửi của
các tổ chức kinh tế và tiền gửi của tổ chức tín dụng.
Năm 2004, tiền gửi của dân cư tăng 18.000 triệu đồng so với 2003 (tương đương với
10,8%). Nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế cũng đã tăng lên (năm 2004 gấp
2,35% so với năm 2003). Xét về cơ cấu tỉ trọng thì nguồn tiền gửi của dân cư là cao
nhất ở cả 2 năm, sau đó đến tỉ trọng tiền gửi của các tổ chức kinh tế, các tổ chức tín
dụng.
Bảng 2.2: Cơ cấu nguồn vốn theo thời hạn huy động
Đơn vị: triệu đồng
Không kỳ hạn
Kỳ hạn < 12 tháng
Kỳ hạn > 12 tháng
Tổng nguồn vốn
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh NHNo & PTNT Thanh Trì)
Theo thời hạn huy động ta thấy tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi kỳ hạn trên 12
tháng có xu hướng tăng lên, tiền gửi kỳ hạn < 12 tháng có xu hướng giảm qua 2 năm.
Trong đó nguồn tiền gửi không kỳ hạn tăng 22.700 triệu đồng (tương đương với
18,45%), nguồn vốn này tăng chủ yếu là do tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăngvà
tập trung chủ yếu ở hai đơn vị lớn là kho bạc Hoàng Mai và ban quản lý dự án Thăng
Long thường xuyên có trên dưới 70 tỷ năm 2004. Nguồn tiền gửi này tuy tăng không
nhiều nhưng mang lại lợi nhuận cao cho chi nhánh. Tính riêng năm 2004, với lãi suất
0,2% và lấy chênh lệch lãi suất và phí điều vốn là 0,4%, ngân hàng đã thu được lợi
nhuận gần 3 tỷ từ tiền gửi của 2 đơn vị này.
Nguồn tiền gửi từ dân cư tuy ổn định nhưng lãi suất huy động cao và xu hướng tăng
l•i suất trong chi phí điều vốn không tăng nhưng chi nhánh vẫn tiếp tục huy động vì
lợi ích chung của toàn ngành. Đây cũng là một nguyên nhân làm chênh lệch lãi suất
đầu ra - đầu vào thấp.
Để đạt được kết quả huy động vốn như trên,chi nhánh NHNo Thanh Trì đã không
ngừng huy động vốn dưới nhiều hình thức, coi việc huy động vốn là việc của mọi
cán bộ công nhân viên cơ quan, đồng thời chi nhánh cũng cung cấp các sản phẩm
dịch vụ khác nhau đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú của khách hàng : các loại
tiền gửi với các kỳ hạn khác nhau, đa dạng hoá các phương thức trả lãi: trả lãi trước,
lãi sau, lãi bậc thang. Đồng thời chi nhánh đã mở rộng mạng lưới tới nhiều khu vực
khác nhau trong huyện nhằm thúc đẩy hơn nữa hoạt động kinh doanh cũng như huy
động vốn, thu hút thêm khách hàng.
b). Hoạt động cho vay:
Hoạt động cho vay là hoạt động chủ đạo và đem lại nguồn thu chủ yếu cho ngân
hàng. Mặt khác, hoạt động này còn thể hiện mộ