Chuyên đề Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thanh Xuân Nam – Hà Tây

Cuối năm 2006, Việt Nam đã chính thức trở thành một thành viên của WTO, đánh dấu một bước tiến và một sự chuyển biến quan trọng về mọi mặt của đất nước.Trong tiến trình gia nhập WTO, nước ta đã có những cải tổ hết sức quan trọng, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là về thị trường tài chính, ngân hàng. Có thể nói thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa bao giờ có sự phát triển với tốc độ nhanh chóng như thời gian vừa qua. Điều đó phù hợp với sự phát triển chung của thế giới cũng như để Việt Nam có đủ điều kiện gia nhập WTO. Tuy nhiên, khi đã trở thành thành viên chính thức WTO, khó khăn đối với thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng Việt Nam không những không giảm bớt mà còn tăng lên vì WTO không chỉ đem đến cho nước ta cơ hội để phát triển mà còn đem đến rất nhiều những thách thức phải đối đầu. Vận hội mới, thách thức mới đã đến đòi hỏi nền kinh tế nói chung và thị trường tài chính, hệ thống ngân hàng nước ta nói riêng phải liên tục đổi mới, phát triển. Ra đời và phát triển trong giai đoạn đất nước đang có những biến chuyển mạnh mẽ, hệ thống ngân hàng đang có nhiều cơ hội để phát triển cũng như thách thức cần phải vượt qua như vậy, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam – một chi nhánh mới được thành lập không lâu của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây – cũng luôn ý ‎thức được nhiệm vụ của mình. Công tác huy động vốn luôn được Ngân hàng đặt lên hàng đầu. Trong hơn 7 năm hoạt động, công tác huy động vốn của ngân hàng đã đạt được những kết quả hết sức khả quan, tuy nhiên cũng còn một số hạn chế cần được tiếp tục cải thiện. Sau một thời gian được thực tập tại NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam -Hà Tây, nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề huy động vốn tại ngân hàng, em đã lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam – Hà Tây” làm chuyên đề tốt nghiệp. Nội dung của chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận, bao gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam – Hà Tây. Chương 3: Giải pháp tăng cường công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam - Hà Tây.

doc108 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1955 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thanh Xuân Nam – Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Cuối năm 2006, Việt Nam đã chính thức trở thành một thành viên của WTO, đánh dấu một bước tiến và một sự chuyển biến quan trọng về mọi mặt của đất nước.Trong tiến trình gia nhập WTO, nước ta đã có những cải tổ hết sức quan trọng, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là về thị trường tài chính, ngân hàng. Có thể nói thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa bao giờ có sự phát triển với tốc độ nhanh chóng như thời gian vừa qua. Điều đó phù hợp với sự phát triển chung của thế giới cũng như để Việt Nam có đủ điều kiện gia nhập WTO. Tuy nhiên, khi đã trở thành thành viên chính thức WTO, khó khăn đối với thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng Việt Nam không những không giảm bớt mà còn tăng lên vì WTO không chỉ đem đến cho nước ta cơ hội để phát triển mà còn đem đến rất nhiều những thách thức phải đối đầu. Vận hội mới, thách thức mới đã đến đòi hỏi nền kinh tế nói chung và thị trường tài chính, hệ thống ngân hàng nước ta nói riêng phải liên tục đổi mới, phát triển. Ra đời và phát triển trong giai đoạn đất nước đang có những biến chuyển mạnh mẽ, hệ thống ngân hàng đang có nhiều cơ hội để phát triển cũng như thách thức cần phải vượt qua như vậy, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam – một chi nhánh mới được thành lập không lâu của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây – cũng luôn ý ‎thức được nhiệm vụ của mình. Công tác huy động vốn luôn được Ngân hàng đặt lên hàng đầu. Trong hơn 7 năm hoạt động, công tác huy động vốn của ngân hàng đã đạt được những kết quả hết sức khả quan, tuy nhiên cũng còn một số hạn chế cần được tiếp tục cải thiện. Sau một thời gian được thực tập tại NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam -Hà Tây, nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề huy động vốn tại ngân hàng, em đã lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam – Hà Tây” làm chuyên đề tốt nghiệp. Nội dung của chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận, bao gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam – Hà Tây. Chương 3: Giải pháp tăng cường công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam - Hà Tây. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo, các cô chú, anh chị cán bộ, công nhân viên của Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam, đặc biệt là của cô giáo: Th.s.Lê Hương Lan - người đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Vì kinh nghiệm thực tiễn cũng như kiến thức của em còn nhiều hạn chế nên chuyên đề này của em không thể tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận được sự thông cảm và những lời góp ‎ý qu‎ý báu của các thầy cô giáo để em có thể hoàn thành tốt hơn nữa chuyên đề tốt nghiệp của mình. Em xin trân trọng cảm ơn! Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Tổng quan về Ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại và vai trò của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường Khái niệm Ngân hàng thương mại Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó Ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Theo các nhà kinh tế học thì sự ra đời của Ngân hàng thương mại trong lịch sử là một tất yếu khách quan. Ngay từ thời kỳ xã hội chiếm hữu nô lệ đã xuất hiện mầm mống sơ khai cho sự ra đời của Ngân hàng thương mại. Đó là hoạt động cho vay nặng lãi. Sau đó nền sản xuất hàng hóa ra đời và khi phát triển đến một mức độ nhất định vào đầu thế kỷ XV thì các NHTM chính thức ra đời. Trong thời kỳ này, các NHTM hoạt động kinh doanh đa năng và đều có các hoạt động như nhau, bao gồm: phát hành giấy bạc ngân hàng; kinh doanh, nhận tiền gửi của khách hàng; chiết khấu và cho vay; thực hiện các dịch vụ thanh toán khác…với mục tiêu vì lợi nhuận.Để tìm kiếm lợi nhuận, các ngân hàng bắt đầu cạnh tranh nhau và trong quá trình cạnh tranh đó, nhều ngân hàng bị phá sản, bị thôn tính cũng như có nhiều ngân hàng lớn dần lên. Cùng với thời gian, sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa ngày càng phức tạp hơn đòi hỏi các NHTM cũng phải có nhiều thay đổi phù hợp hơn để tồn tại. Sự chuyên môn hóa trong lĩnh vực ngân hàng cũng như hậu quả của những cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã dẫn đến sự ra đời của Ngân hàng trung ương – chuyên quản lý việc phát hành tiền và thực hiện điều tiết nền kinh tế. Điều này đã tách các NHTM ra khỏi chức năng phát hành tiền và thực hiện chuyên sâu vào việc kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ khác. Từ lúc này, nói đến ngân hàng, người ta hiểu có nghĩa là nói đến các NHTM. Nền kinh tế ngày càng phát triển đòi hỏi các NHTM phải cung cấp các dịch vụ ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Do vậy, các nghiệp vụ ngân hàng cũng không ngừng được cải tiến và hoàn thiện hơn. Tóm lại, Ngân hàng hay Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Có nhiều cách định nghĩa ngân hàng. Tiếp cận theo các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì ngân hàng được hiểu như sau: Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Khi tiếp cận theo các hoạt động chủ yếu của NHTM thì Luật các tổ chức tín dụng của nước ta ghi như sau: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Đặc điểm của Ngân hàng thương mại Tham gia kinh doanh trong một lĩnh vực hết sức nhạy cảm là tiền tệ - một lĩnh vực mà các nhà kinh tế học coi là huyết mạch, cung cấp phương tiện lưu thông, thanh toán và chi phối hầu hết các hoạt động của nền kinh tế - các NHTM không chỉ trở thành một bộ phận quan trọng nhất trong guồng quay của bộ máy tuần hoàn vốn của nền kinh tế mà còn trở thành công cụ để Nhà nước có thể điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bất kỳ một nền kinh tế nào muốn phát triển mạnh và ổn định phải có một hệ thống ngân hàng phát triển và vững mạnh. Trong báo cáo chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta khẳng định: “Ngân hàng phải là ngành đi đầu với tư cách là động lực và là công cụ tổ chức quản l‎ý cho nền kinh tế ổn định và phát triển…”. Với những tính chất đặc thù trên, NHTM bao gồm các đặc điểm sau: Trung gian tài chính: Ngân hàng là một trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Trong nền kinh tế có hai loại cá nhân và tổ chức, đó là: Các cá nhân, tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu và có nhu cầu bổ sung vốn; các cá nhân, tổ chức thặng dư trong chi tiêu và có nhu cầu bảo toàn, sinh lời vốn. Hai loại cá nhân và tổ chức này tạo thành cung cầu về vốn nhưng việc gặp nhau của cung cầu vốn này bị cản trở bởi khoảng cách không gian, thời gian, thông tin…nên khó có thể gặp nhau trực tiếp. Vì vậy, NHTM đứng ra đóng vai trò là một trung gian để giúp cung cầu về vốn gặp nhau. Các NHTM không chỉ khắc phục những khó khăn về không gian, thời gian, thông tin mà còn có khả năng thẩm định thông tin và chia sẻ rủi ro với khách hàng. Đây là một đặc điểm nổi bật của NHTM. Tạo phương tiện thanh toán: Một trong những chức năng quan trọng của tiền là tạo phương tiện thanh toán. Kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên các NHTM có chức năng tạo phương tiện thanh toán. Trước đây, khi chưa có Ngân hàng trung ương, các NHTM lớn, có uy tín, có khả năng phát hành tiền của riêng mình và đưa vào lưu thông tạo ra phương tiện thanh toán cho nền kinh tế. Khi Ngân hàng trung ương ra đời, các NHTM không còn phát hành tiền nhưng vẫn có khả năng tạo ra phương tiện thanh toán thông qua việc triển khai dịch vụ thanh toán qua số dư tài khoản của khách hàng. Theo quan điểm hiện đại, khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng hóa dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay, các NHTM đã tạo ra phương tiện thanh toán. Hơn nữa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra phương tiện thanh toán lớn gấp bội thông qua các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác theo công thức số nhân tiền tệ. Trung gian thanh toán: Sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu dẫn đến nhu cầu thanh toán liên quốc gia, liên châu lục. Để tiến hành thanh toán được nhanh chóng, phù hợp, chính xác, các cá nhân và tổ chức ở các nước thường thông qua ngân hàng. Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ. Ngân hàng còn cung cấp đa dạng các hình thức thanh toán cho khách hàng như thanh toán bằng: Séc, ủy nhiệm chi, L/C, các loại thẻ...Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu. Vai trò của Ngân hàng thương mại Vai trò trung gian cung ứng vốn cho nền kinh tế: NHTM tập trung các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội thành quỹ cho vay và sử dụng quỹ này để cung ứng cho những người có nhu cầu vốn. Thông qua trình độ và kinh nghiệm của đội ngũ nhân viên được đào tạo cũng như của đội ngũ quản lý, ngân hàng có thể khắc phục được hầu hết những khiếm khuyết của thị trường tài chính. Ngoài ra bằng hoạt động giám sát, thẩm định trước, trong và sau khi cho vay, ngân hàng có thể hạn chế được rủi ro đạo đức. Hơn nữa, ngân hàng có thể tập trung được nhiều khoản tiền nhỏ và ngắn hạn để cho vay những khoản lớn hơn, thời hạn dài hơn thông qua nghiệp vụ chuyển hoán kỳ hạn nguồn. Từ đó, ta có thể thấy được vai trò quan trọng của NHTM trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế. Vai trò trung gian cung ứng các dịch vụ thanh toán: NHTM thực hiện việc thanh toán hộ cho các khách hàng thông qua các dịch vụ thanh toán đa dạng, giúp cho việc thanh toán của khách hàng được nhanh chóng, chính xác và tiện lợi. Nhờ có NHTM mà việc thanh toán, đặc biệt là thanh toán quốc tế được thực hiện an toàn, tiết kiệm chi phí từ đó nâng cao lợi ích xã hội và thúc đẩy thương mại trong nước và quốc tế phát triển, và ngược lại khi thương mại phát triển thì sẽ thúc đẩy hệ thống NHTM phát triển theo. NHTM là nguồn cung ứng các sản phẩm dịch vụ tài chính đa dạng nhất: Khi xã hội phát triển thì nhu cầu của con người về các dịch vụ tài chính ngày càng đa dạng. NHTM là tổ chức có thể đáp ứng được điều đó. NHTM giúp con người thỏa mãn nhu cầu về tài chính, thông qua đó nâng cao mức sống cho người dân. Ngược lại, nhu cầu ngày càng cao của con người cũng giúp NHTM ngày càng hoàn thiện hơn trong việc cung ứng dịch vụ và thu lợi từ phí dịch vụ. Vai trò thực hiện các chính sách xã hội: Thông qua hệ thống ngân hàng, Nhà nước có thể thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Các chính sách tiền tệ và tài khóa như chính sách chiết khấu, tái chiết khấu, chính sách dự trữ bắt buộc, chính sách lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở... được Ngân hàng trung ương thực hiện tác động trực tiếp vào hệ thống NHTM làm thay đổi các chính sách của các NHTM, làm thay đổi lượng vốn cung ứng ra nền kinh tế, từ đó tác động đến toàn bộ hoạt động tiết kiệm, chi tiêu và đầu tư của nền kinh tế. Và như vậy thúc đẩy sự tăng trưởng hoặc kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế và thực hiện các mục tiêu xã hội khác. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại Hoạt động huy động vốn: Huy động vốn từ việc nhận tiền gửi Nguồn vốn huy động thường xuyên chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của NHTM và nó đóng một vai trò vô cùng quan trọng, không thể thay thế để duy trì hoạt động kinh doanh của NHTM. Các NHTM thường thực hiện huy động vốn thông qua việc nhận tiền gửi của khách hàng. Các loại hình huy động vốn bằng tiền gửi bao gồm: - Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là nguồn vốn có chi phí thấp nhưng lại không ổn định do khách hàng có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào. Nguồn tiền này chủ yếu được gửi vào nhằm sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng, tạo điều kiện cho ngân hàng phát triển các dịch vụ thanh toán và đem lại nguồn thu từ phí dịch vụ cho ngân hàng. - Tiền gửi có kỳ hạn: đây là nguồn vốn có kỳ hạn xác định nên tương đối ổn định nhưng chi phí để có được và duy trì nguồn này tương đối cao. Mục đích của khách hàng khi gửi tiền vào là để có được sự an toàn vốn và hưởng lãi. Các NHTM đều mong muốn tăng trưởng nguồn này để có thể tiến hành mở rộng khả năng kinh doanh của mình. - Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Đây cũng là nguồn có thời hạn xác định nên ổn định nhưng chi phí cho nguồn này cũng cao. Mục đích của người dân khi gửi tiền vào ngân hàng là an toàn vốn và có được khoản lợi nhuận từ lãi ngân hàng chi trả. Đối với các NHTM thì đây thường là nguồn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động được. Huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá Giấy tờ có giá là các công cụ nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn trên thị trường. Nghiệp vụ này đem lại nguồn vốn tương đối ổn định và giúp ngân hàng có thể có được một khoản vốn lớn trong một thời gian ngắn. Lãi suất của nguồn này phụ thuộc vào tính cấp thiết của việc huy động vốn cũng như lãi suất trên thị trường nên nó thường có lãi suất cao để có thể thu hút vốn được nhanh chóng. Huy động vốn thông qua nghiệp vụ đi vay Nguồn vốn đi vay được ngân hàng chủ yếu sử dụng để đảm bảo khả năng thanh khoản và tiện lợi trong việc giao dịch, thanh toán giữa các ngân hàng. Nghiệp vụ này ngày càng trở nên phổ biến và chiếm tỷ trọng không nhỏ đối với các NHTM. Tuy nhiên chi phí cho nguồn đi vay là cao nên nhiều ngân hàng cũng không duy trì tỷ trọngnguồn này ở mức cao. Các NHTM thường đi vay theo hai hình thức là vay từ Ngân hàng Trung ương (Ngân hàng nhà nước) và vay từ các tổ chức tín dụng khác. Huy động vốn thông qua nghiệp vụ tạo vốn tự có Vốn tự có thường là nguồn vốn chiếm tỷ trọng nhỏ nhất nhưng lại có ‎ nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của NHTM vì nó đóng vai trò là tấm đệm bảo vệ cho các hoạt động đó và tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng, phát triển các hoạt động của mình đồng thời góp phần nâng cao vị thế của ngân hàng trên thương trường. Ngân hàng thường tạo vốn tự có thông qua các nguồn sau: thông qua nguồn vốn nội bộ; thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Các nghiệp vụ nguồn vốn khác Ngoài các nguồn vốn trên, NHTM còn có các nguồn vốn khác, đó là: Vốn ủy thác đầu tư, vốn tài trợ, vốn trong thanh toán... Hoạt động sử dụng vốn: Tín dụng: Đây là nghiệp vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các nghiệp vụ của NHTM về mặt giá trị, đồng thời nó là nghiệp vụ đem lại nguồn thu, lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng (chiếm từ 70 - 90% thu nhập của ngân hàng). Tuy nhiên, các NHTM đang có xu hướng làm giảm tỷ trọng về lợi nhuận của hoạt động tín dụng mà phát triển các loại hình dịch vụ khác, nhất là các dịch vụ hiện đại để tăng doanh thu. Mặt khác, đây cũng là nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro nhất đối với ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng cần phải thực hiện tốt công tác thẩm định trước, trong và sau khi cho vay để hạn chế rủi ro xuống mức tối thiểu, đảm bảo sự an toàn của các khoản tín dụng, tránh gây mất vốn, thất thoát vốn của ngân hàng. Quản l‎ý ngân quỹ Nghiệp vụ quản l‎ý ngân quỹ của một NHTM thường bao gồm quản lý dự trữ bắt buộc và quản lý đảm bảo khả năng thanh toán. + Quản lý dự trữ bắt buộc: Mục đích là để đáp ứng yêu cầu về mặt pháp l‎ý do Ngân hàng Trung ương đề ra. Ngân hàng Trung ương quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc trên tổng tiền gửi đối với các NHTM, tỷ lệ này thay đổi theo chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương. Mặt khác, mục đích mà Ngân hàng Trung ương đề ra tỷ lệ dự trữ bắt buộc này là để đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng cũng như sự an toàn cho vốn của khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng. Lượng dự trữ bắt buộc này thường được gửi tại Ngân hàng Trung ương. + Quản lý ngân quỹ đảm bảo khả năng thanh toán: Dựa vào kinh nghiệm quản lý ngân quỹ trong quá trình hoạt động của chính mình cũng như của các ngân hàng khác mà NHTM xác định một tỷ lệ dự trữ phù hợp, dôi ra ngoài so với dự trữ bắt buộc. Khoản dự trữ này thường được duy trì tại chính ngân hàng đó hoặc gửi tại các NHTM khác. Mục đích của khoản mục này là để đáp ứng nhu cầu thanh toán, rút tiền của khách hàng. Tóm lại, quản lý ngân quỹ của NHTM mục đích chủ yếu là để duy trì khả năng thanh khoản của ngân hàng. Tuy nhiên, lượng tiền được sử dụng trong quản l‎ý ngân quỹ có khả năng sinh lời rất kém, nhiều khi là khoản tiền chết nên các ngân hàng thường không muốn duy trì khoản mục này ở tỷ lệ cao. Như vậy ngân quỹ là khoản không thể thiếu để hạn chế rủi ro thanh khoản nhưng lại có thể gây lãng phí nguồn lực của ngân hàng. Cân đối hai yếu tố này là nhiệm vụ của ngân hàng. Đầu tư tài chính Các NHTM thường đầu tư tài chính vào nhiều lĩnh vực nhưng chủ yếu là đầu tư vào chứng khoán. Mục đích của việc đầu tư này là vì mục tiêu thanh khoản và đa dạng hóa tài sản, cũng như để tăng thu nhập cho ngân hàng. Các loại giấy tờ có giá mà ngân hàng lựa chọn thường là những loại chứng khoán rất có giá trị trên thị trường, tức là khả năng thanh khoản và sinh lời lớn như chứng khoán Chính phủ, chứng khoán của các ngân hàng khác, chứng khoán của các công ty tài chính và chứng khoán của các công ty lớn, có uy tín khác. Mua bán ngoại tệ Đây là nghiệp vụ được ngân hàng thực hiện nhằm đề phòng và hạn chế rủi ro hối đoái, tỷ giá cũng như để tạo thêm thu nhập cho ngân hàng. Việc mua bán ngoại tệ thường được ngân hàng thực hiện với các loại ngoại tệ mạnh và thực hiện ở thị trường liên ngân hàng trong nước và thế giới. Nghiệp vụ này đòi hỏi ngân hàng phải có chuyên môn cao cũng như sự nhanh nhạy với thị trường. Tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ Trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, các NHTM cũng thường tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ theo sự yêu cầu của Chính phủ hoặc có sự tự nguyện từ phía ngân hàng. Các hoạt động khác: Bảo quản vật có giá. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán. Cho thuê thiết bị trung và dài hạn. Cung cấp các dịch vụ ủy thác và tư vấn đầu tư. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm. Cung cấp các dịch vụ đại lý. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại Để có thể tiến hành hoạt động kinh doanh, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải có vốn. NHTM cũng vậy, NHTM thực hiện kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn, đa dạng hơn các doanh nghiệp khác. Vốn đối với NHTM rất quan trọng. Nó quyết định quy mô, khả năng sinh lời, xu hướng hoạt động và phát triển của ngân hàng. Một NHTM thường có các loại vốn sau: Vốn chủ sở hữu Khái niệm Để bắt đầu hoạt động ngân hàng, chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn mà ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa của ngân hàng. Vốn chủ sở hữu là vốn thuộc sở hữu của NHTM, được hình thành từ nguồn vốn hình thành ban đầu, nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động và các quỹ của ngân hàng. Vai trò của vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu (VCSH) của một NHTM đóng vai trò quan trọng sống còn trong việc duy trì các hoạt động thường nhật và đảm bảo cho ngân hàng khả năng phát triển lâu dài. Thứ nhất, VCSH là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy phép tổ chức và hoạt động trước khi nó có thể huy động được các khoản tiền gửi đầu tiên. Khi mới thành lập, một ngân hàng luôn cần vốn để mua sắm đất đai, xây dựng cơ sở hạ tầng, t
Luận văn liên quan