Chuyên đề Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý ngân sách Nhà nước huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu

Sau hai mươi năm thực hiện cơ chế chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước ta, kể từ đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986. Mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội đã được cải thiện vượt bậc, tạo cho Việt Nam một bộ mặt với những thay đổi to lớn về diện mạo kinh tế mới trong mắt bạn bè quốc tế. Cùng với sự thay đổi về cơ chế chính sách như vậy, nền kinh tế nước nhà đã liên tục tăng trưởng qua các năm một cách ổn định và bền vững, tạo nguồn lực tài chính để thúc đẩy sự phát triển lâu dài. Từ những thành tựu đã đạt được Nhà nước ta đã không ngừng cải cách, đổi mới hệ thống Ngân sách Nhà nước cho phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giữ vững an ninh tài chính quốc gia, thúc đẩy hội nhập kinh tế, quốc tế. Song song với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Ngân sách Nhà nước là một trong những công cụ quan trọng với tính chất là nội lực cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Sự tồn tại và phát triển của một Nhà nước luôn luôn cần thiết phải có nguồn lực tài chính đảm bảo cho hoạt động chi tiêu thường xuyên của những tổ chức, cơ quan đơn vị thuộc bộ máy quản lý Nhà nước. Để đáp ứng nguồn kinh phí để đảm bảo cho các hoạt động như; Các cơ quan quản lý Nhà nước, quân đội, cảnh sát, sự ngiệp văn hoá, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, đầu tư phát triển kinh tế đất nước thì Nhà nước phải tạo ra các nguồn thu để bảo đảm, đó là nguồn thu từ các loại thuế và các nguồn khác. Tất cả quá trình thu nộp và sử dụng nguồn kinh phí đó của Nhà nước đều phải được phản ánh qua Ngân sách Nhà nước. Ngân sách huyện với tư cách là một bộ phận hữu cơ của Ngân sách Nhà nước cùng ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại phát triển của hệ thống ngân sách Nhà nước. Nó có chức năng trung gian giữa cấp ngân sách Trung ương, ngân sách cấp Tỉnh, thành phố và ngân sách cấp xã phường, thị trấn. Quản lý và phân phối lại nguồn tài chính của địa phương nhận từ ngân sách cấp trên hoặc từ nguồn thu được điều tiết theo quy định phát sinh trên địa bàn cho hoạt động của bộ máy quản lý cấp huyện và bổ sung cân đối cho hoạt động của cấp xã, phường, thị trấn. Ngân sách Nhà nước ta đã ra đời từ lâu, tuy nhiên nó chỉ được thể chế thành Luật năm 1996 và có hiệu lực thi hành từ năm 1997. Trong quá trình thực hiện đã nhiều lần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, luật ngân sách Nhà nước đã được hoàn thiện. Tại kỳ họp thứ 2 khoá XI của Quốc hội nước ta, Luật ngân sách Nhà nước đã được sửa đổi nhằm để quản lý thống nhất nền Tài chính Quốc gia, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng ngân sách Nhà nước, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả ngân sách và tải sản của Nhà nước, tăng tích luỹ nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

docx76 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2073 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý ngân sách Nhà nước huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Sau hai mươi năm thực hiện cơ chế chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước ta, kể từ đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986. Mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội đã được cải thiện vượt bậc, tạo cho Việt Nam một bộ mặt với những thay đổi to lớn về diện mạo kinh tế mới trong mắt bạn bè quốc tế. Cùng với sự thay đổi về cơ chế chính sách như vậy, nền kinh tế nước nhà đã liên tục tăng trưởng qua các năm một cách ổn định và bền vững, tạo nguồn lực tài chính để thúc đẩy sự phát triển lâu dài. Từ những thành tựu đã đạt được Nhà nước ta đã không ngừng cải cách, đổi mới hệ thống Ngân sách Nhà nước cho phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giữ vững an ninh tài chính quốc gia, thúc đẩy hội nhập kinh tế, quốc tế. Song song với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Ngân sách Nhà nước là một trong những công cụ quan trọng với tính chất là nội lực cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Sự tồn tại và phát triển của một Nhà nước luôn luôn cần thiết phải có nguồn lực tài chính đảm bảo cho hoạt động chi tiêu thường xuyên của những tổ chức, cơ quan đơn vị thuộc bộ máy quản lý Nhà nước. Để đáp ứng nguồn kinh phí để đảm bảo cho các hoạt động như; Các cơ quan quản lý Nhà nước, quân đội, cảnh sát, sự ngiệp văn hoá, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, đầu tư phát triển kinh tế đất nước thì Nhà nước phải tạo ra các nguồn thu để bảo đảm, đó là nguồn thu từ các loại thuế và các nguồn khác. Tất cả quá trình thu nộp và sử dụng nguồn kinh phí đó của Nhà nước đều phải được phản ánh qua Ngân sách Nhà nước. Ngân sách huyện với tư cách là một bộ phận hữu cơ của Ngân sách Nhà nước cùng ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại phát triển của hệ thống ngân sách Nhà nước. Nó có chức năng trung gian giữa cấp ngân sách Trung ương, ngân sách cấp Tỉnh, thành phố và ngân sách cấp xã phường, thị trấn. Quản lý và phân phối lại nguồn tài chính của địa phương nhận từ ngân sách cấp trên hoặc từ nguồn thu được điều tiết theo quy định phát sinh trên địa bàn cho hoạt động của bộ máy quản lý cấp huyện và bổ sung cân đối cho hoạt động của cấp xã, phường, thị trấn. Ngân sách Nhà nước ta đã ra đời từ lâu, tuy nhiên nó chỉ được thể chế thành Luật năm 1996 và có hiệu lực thi hành từ năm 1997. Trong quá trình thực hiện đã nhiều lần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, luật ngân sách Nhà nước đã được hoàn thiện. Tại kỳ họp thứ 2 khoá XI của Quốc hội nước ta, Luật ngân sách Nhà nước đã được sửa đổi nhằm để quản lý thống nhất nền Tài chính Quốc gia, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng ngân sách Nhà nước, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả ngân sách và tải sản của Nhà nước, tăng tích luỹ nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Sau một thời gian nghiên cứu thực tập, thu thập các thông tin, kiến thức thực tế để bổ sung cho kiến thức đã học tại nhà trường, em đã nhận thấy rằng trước những đòi hỏi bức xúc về quản lý điều hành ngân sách Nhà nước nói chung và quản lý điều hành ngân sách cấp quận, huyện nói riêng, em xin mạnh dạn nghiên cứu chuyên đề thực tập với nội dung “Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý Ngân sách Nhà nước huyện Than Uyên - tỉnh Lai Châu” Qua thực tiễn tại đơn vị phòng Tài chính - Kế hoạch huyện Than Uyên, em đã nhận thấy rõ được kiến thức về công tác quản lý điều hành Ngân sách Nhà nước nói chung và ngân sách cấp huyện nói riêng. Em mong rằng một số ý kiến đề xuất của cá nhân em sẽ đóng góp phần nào nhỏ bé vào công tác quản lý điều hành ngân sách tại địa phương và luật Ngân sách Nhà nước. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của Thầy giáo Đỗ Hoàng Toàn cùng tập thể các đồng chí trong phòng Tài chính - Kế hoạch huyện Than Uyên đã giúp em hoàn thành chuyên đề thực tập này. Mong rằng các bạn đọc đóng góp ý kiến tham gia những khiếm khuyết và thiếu xót trong đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn! Than Uyên 01-2007 CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGÂN SÁCH CẤP HUYỆN. I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC. 1. Khái niệm về Ngân sách Nhà nước. - Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. (4) 2. Nội dung của Ngân sách Nhà nước. (4,5,8) - Nội dung của Ngân sách Nhà nước gồm các khoản thu và chi. Các khoản thu bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; các khoản thu đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Các khoản chi bao gồm chi phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm Quốc phòng - An ninh; chi bảo đảm cho hoạt động của bộ máy Nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. - Ngân sách Nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm. Hệ thống ngân sách Nhà nước bao gồm ngân sách Trung ương và Ngân sách địa phương, Ngân sách địa phương bao gồm Ngân sách sách của các đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. - Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và quan hệ giữa các cấp ngân sách được thực hiện theo các nguyên tắc sau đây: + Ngân sách Trung ương và Ngân sách mỗi cấp chính quyền địa phương được phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể; + Ngân sách Trung ương giữ vai trò chủ đạo, đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ chiến lược, quan trọng của quốc gia và hỗ trợ những địa phương chưa cân đối được thu, chi ngân sách. + Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động trong thực hiện những nhiệm vụ được giao; tăng cường nguồn lực cho ngân sách xã. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Gọi chung là cấp tỉnh) quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách giữa các cấp chính quyền địa phương cho phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và trình độ quản lý của mỗi cấp trên địa bàn. + Nhiệm vụ chi thuộc ngân sách cấp nào do ngân sách cấp đó đảm bảo, việc ban hành và thực hiện các chính sách, chế độ mới làm tăng chi ngân sách phải có giải pháp đảm bảo nguồn tài chính phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách từng cấp. + Trường hợp cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên uỷ quyền cho cơ quan quản lý Nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi của mình, thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó. + Thực hiện phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) đối với các khoản thu phân chia giữa ngân sách các cấp và bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để đảm bảo công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng, các địa phương. Tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu và bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới được ổn định từ 3 đến 5 năm. Số bổ sung từ ngân sách cấp trên là nguồn thu của ngân sách cấp dưới. + Trong thời kỳ ổn định ngân sách, các địa phương được sử dụng nguồn tăng thu hàng năm mà ngân sách địa phương được hưởng để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn; sau mỗi thời kỳ ổn định ngân sách, phải tăng khả năng tự cân đối ngân sách, phát triển ngân sách địa phương, thực hiện giảm dần số bổ sung từ ngân sách cấp trên hoặc tăng tỷ lệ phần trăm (%) điều tiết số thu nộp về ngân sách cấp trên. 3. Nguyên tắc của Ngân sách Nhà nước. (4,5,8) - Về thu ngân sách Nhà nước, phải được thực hiện theo quy định của luật Ngân sách Nhà nước và các quy định khác của pháp luật. - Về chi ngân sách chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây: + Đã có trong dự toán Ngân sách được giao. Trừ trường hợp vào đầu năm ngân sách, dự toán ngân sách và phương án phân bổ ngân sách chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định theo quy định thì lập lại dự toán ngân sách Nhà nước. Trường hợp dự toán ngân sách Nhà nước, phương án phân bổ Ngân sách Trung ương chưa được Quốc hội quyết định, Chính phủ lập lại dự toán ngân sách Nhà nước, phương án phân bổ ngân sách Trung ương trình Quốc hội vào thời gian do Quốc hội quy định. Trường hợp dự toán Ngân sách địa phương, phương án phân bổ ngân sách cấp mình chưa được Hội đồng nhân dân quyết định, Uỷ ban nhân dân lập lại dự toán ngân sách địa phương, phương án phân bổ ngân sách cấp mình, trình Hội đồng nhân dân vào thời gian do Hội đồng nhân dân quyết định, tuy nhiên không được chậm hơn thời hạn do Chính phủ quy định. Trong quá trình chấp hành ngân sách Nhà nước, nếu có sự thay đổi về thu, chi thì thực hiện như sau: Thứ nhất số tăng thu và tiết kiệm chi so với dự toán được giao được sử dụng để giảm bội chi, tăng chi trả nợ, tăng chi đầu tư phát triển, bổ sung quỹ dự trữ tài chính, tăng dự phòng ngân sách. Chính phủ dự kiến phương án sử dụng đối với từng nhiệm vụ chi, báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến trước khi thực hiện; Uỷ ban nhân dân dự kiến phương án đối với từng nhiệm vụ chi, thống nhất ý kiến với thường trực Hội đồng nhân dân trước khi thực hiện; đối với cấp xã, Uỷ ban nhân dân thống nhất ý kiến với chủ tịch và phó chủ tịch Hội đồng nhân dân trước khi thực hiện. Thứ hai trường hợp số thu không đạt dự toán được Quốc hội, Hội đồng nhân dân quyết định, Chính phủ báo cáo với Uỷ ban thường vụ quốc hội, Uỷ ban nhân dân báo cáo với thường trực Hội đồng nhân dân, đối với cấp xã, Uỷ ban nhân dân thống nhất ý kiến với Chủ tịch và phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân điều chỉnh giảm một số khoản chi tương ứng. Thứ ba trường hợp có nhu cầu chi đột xuất ngoài dự toán nhưng không thể ttrì hoãn được mà dự phòng ngân sách không thể đáp ứng được, Thủ tướng Chính phủ, chủ tịch Uỷ ban nhân dân phải xắp xếp lại các khoản chi trong dự toán được giao hoặc sử dụng các nguồn dự trữ để đáp ứng nhu cầu chi đột xuất. Thứ tư trường hợp biến động lớn về ngân sách so với dự toán đã được phân bổ cần phải điều chỉnh tổng thể, Chính phủ lập dự toán điều chỉnh ngân sách Nhà nước trình quốc hội, Uỷ ban nhân dân lập dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương trình Hội đồng nhân dân theo quy trình lập, quyết định theo quy định của luật Ngân sách Nhà nước hiện hành. Ngoài ra còn một số trường hợp khác cần phải điều chỉnh dự toán nêu trong luậ Ngân sách Nhà nước năm 2002. + Chi ngân sách Nhà nước phải đúng tiêu chuẩn, đúng chế độ và định mức do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định. + Đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được uỷ quyền quyết định chi. + Các cấp, các ngành, các đơn vị không được đặt ra các khoản thu, chi trái với quy định của pháp luật. + Người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức sử dụng ngân sách Nhà nước có trách nhiệm tổ chức thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống thất thoát, tham nhũng. - Các khoản thu, chi ngân sách Nhà nước phải được hạch toán kế toán, quyết toán đầy đủ, kịp thời, đúng chế độ. 4. Vai trò của Ngân sách Nhà nước. - Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Ngân sách Nhà nước là đảm bảo nguồn tài chính để thực hiện chức năng Nhà nước công quyền, duy trì sự tồn tại của hệ thống chính trị từ Trung ương tới địa phương. Ngân sách Nhà nước là công cụ quan trọng để thúc đẩy sự phát triển về kinh tế, tạo đà tăng trưởng và ổn định nền kinh tế vĩ mô của Nhà nước, bù đắp những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường, thực hiện tiến trình công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. - Ngân sách Nhà nước đảm bảo chi thường xuyên cho sự hoạt động của bộ máy hành chính, đảm bảo công bằng xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường sinh thái, giữ gìn an ninh, quốc phòng, bảo vệ chủ quyền đất nước và trật tự xã hội. - Ngân sách Nhà nước đầu tư cho sự phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng ổn định và điều khiển nền kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Ngoài việc đảm bảo ngân sách cho chi thường xuyên. Nhà nước cần phải tác động vào quá trình phát triển kinh tế bằng các kế hoạch ngắn hạn, trung hạn hoặc kế hoạch dài hạn. Với ý nghĩa đó, tiềm lực tài chính của Nhà nước phải đủ mạnh đảm bảo cho Nhà nước chủ động thực hiện chính sách tài khoá nới lỏng hoặc thắt chặt, thực hiện kích cầu đầu tư, tiêu dùng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. - Hiện nay trong nền kinh tế năng động, thời kỳ kinh tế Việt Nam hội nhập với các nền kinh tế trên toàn cầu, việc sử dụng Ngân sách Nhà nước để tác động vào nền kinh tế là hết sức quan trọng. Do đó luật ngân sách cũng cần phải được sửa đổi, bổ sung cho hoàn thiện để đáp ứng đúng yêu cầu là vài trò thúc đẩy sự phát triển và ổn định cho một nền kinh tế năng động của nước ta hiện nay. Ngân sách Nhà nước với tư cách là một công cụ tài chính vĩ mô sắc bén, nhạy cảm, hiệu quả để Nhà nước can thiệp, điều chỉnh nền kinh tế. Do vậy, Nhà nước cần phải nắm chắc cơ chế tác động của thu, chi ngân sách đối với kinh tế thông qua nhận thức đầy đủ và làm chủ cơ chế tác động của hiệu ứng kích thích kinh tế của Ngân sách Nhà nước để tăng cường vai trò thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều khiển kinh tế vĩ mô của Ngân sách Nhà nước. - Song song với việc chi đảm bảo cho hoạt động của hệ thống chính trị, đầu tư cho phát triển đem lại những thành tựu to lớn. Nhiệm vụ quan trọng không kém là những khiếm khuyết mà nền kinh tế thị trường đã tạo ra là môi trường sinh thái ô nhiễm, sự mất cân đối về cơ hội phát triển kinh tế - xã hội, sự chênh lệch giữa các vùng miền trong cả nước. Vì vậy để giảm bớt tình trạng ô nhiễm môi trường và đảm bảo công bằng xã hội thì Ngân sách Nhà nước cần có các biện pháp nhằm giải quyết các hậu quả do nền kinh tế thị thường đã đem lại cho xã hội. 5. Chức năng của Ngân sách Nhà nước. (4) - Ngân sách Nhà nước có những chức năng cơ bản sau: Thứ nhất là chức năng phân phối giữa các cấp ngân sách; thực hiện phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) đối với các khoản thu phân chia giữa các cấp ngân sách và bổ sung cân đối ngân sách cho cấp dưới để đảm bảo công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng. Thứ hai là chức năng đôn đốc; kiểm tra, giám sát, chức năng này cụ thể là các nghiệm vụ như kiểm tra việc chấp hành ngân sách Nhà nước, kế toán, kiểm toán và quyết toán ngân sách Nhà nước một cách thường xuyên liên tục. Thực hiện tốt chức năng này sẽ đem lại những thông tin trung thực cho việc quản lý các hoạt động của Ngân sách Nhà nước, giúp cho Nhà nước phát hiện những thiếu sót, kịp thời chỉnh sửa, phát huy những kết quả tốt đã đạt được góp phần thúc đẩy hoàn thiện luật Ngân sách Nhà nước, tiến tới các mục tiêu chiến lược quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta đã xác định. 6. Hệ thống Ngân sách Nhà nước Việt Nam. (4) Hệ thống Ngân sách Nhà nước Việt Nam được phân cấp thành 4 cấp: Ngân sách Trung ương, Ngân sách tỉnh, thành phố, ngân sách quận, huyện và ngân sách xã, phường, thị trấn tương ứng với hệ thống chính trị của Việt Nam. Ngân sách Trung ương đóng vai trò chủ đạo đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ chiến lược quan trọng của quốc gia, ngân sách xã, phường, thị trấn đóng vai trò chủ đạo, ngân sách cấp tỉnh, thành phố, quận huyện đóng vai trò trung gian. 7. Niên độ ngân sách Nhà nước. (4) Niên độ ngân sách nước ta; được thực hiện bắt đầu vào ngày 01/01 hàng năm tính theo dương lịch và kết thúc vào 31/12 các năm tính theo dương lịch. Niên độ Ngân sách là năm ngân sách chỉ thời gian mà trong đó dự toán thu, chi ngân sách đã được phê chuẩn, quyết định và thực hiện. Chu trình của một niên độ ngân sách nước ta; là xây dựng kế hoạch thu chi ngân sách Nhà nước, chấp hành thực hiện kế hoạch ngân sách Nhà nước và cuối cùng là kiểm tra quyết toán ngân sách Nhà nước. 8. Phân cấp ngân sách Nhà nước. (4) 8.1 Nguyên tắc phân cấp ngân sách; Nhằm đảm bảo tính chủ động trong việc quản lý điều hành Ngân sách Nhà nước của từng cấp, phù hợp với thực tế, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và trình độ quản lý của mỗi cấp gắn liền với trách nhiệm, quyền hạn của mỗi cấp. 8.2 Nội dung của phân cấp ngân sách; Là phân cấp nội dung thu và các nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách. II. NHẬN THỨC CHUNG VỀ NGÂN SÁCH CẤP HUYỆN 1. Sự tồn tại khách quan của ngân sách huyện. Cùng với quá trình phát triển của lịch sử, ngân sách Nhà nước đã xuất hiện và tồn tại từ lâu. Với chức năng là công cụ tài chính rất quan trọng của Nhà nước, Ngân sách Nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển trên cơ sở hai tiền đề khách quan là Nhà nước và kinh tế hàng hoá tiền tệ. Nhà nước tất yếu kéo theo yêu cầu tập trung nguồn lực tài chính vào tay Nhà nước để làm phương tiện vật chất trang trải, đáp ứng cho các chi phí nuôi sống bộ máy thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước. Ngân sách Nhà nước ta đã có từ lâu, song chỉ được thể chế thành Luật năm 1996 và có hiệu lực từ năm 1997, sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung, Luật ngân sách Nhà nước đã được hoàn thiện và thông qua. Tại kỳ họp thứ 2 khoá XI của Quốc hội nhằm quản lý ngày càng tốt hơn nền Tài chính Quốc gia, nâng cao tính chất chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng ngân sách Nhà nước, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả ngân sách và tải sản của Nhà nước, tăng tích luỹ nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Ngân sách huyện với tư cách là một bộ phận hữu cơ của Ngân sách Nhà nước, cũng ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại phát triển của hệ thống ngân sách Nhà nước, đảm bảo chức năng là cấp ngân sách trung gian giữa ngân sách cấp tỉnh và ngân sách cấp xã, phường cùng một số nhiệm vụ được uỷ quyền từ ngân sách Trung ương. 2. Vai trò của Ngân sách huyện. Như đã nêu ở trên, Ngân sách huyện là một bộ phận hữu cơ của ngân sách địa phương. Đóng vai trò Ngân sách Nhà nước trên địa bàn huyện, đó là vai trò đảm bảo chức năng Nhà nước của Chính quyền cấp huyện thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo luật định. Ngân sách cấp huyện cùng ra đời và trải qua chặng đường hình thành và phát triển, cùng với sự vận động, biến đổi của hoàn cảnh kinh tế - xã hội, sự tồn tại và phát triển của chính quyền cấp quận - huyện cả về lượng và chất là một thực tế không thể phủ nhận được. Vị trí, vai trò của Ngân sách huyện được thể hiện rõ trong Luật Ngân sách Nhà nước được Quốc hội thông qua vào kỳ họp thứ 2 khoá XI. Ngân huyện là một cấp ngân sách quan trọng, đóng vai trò là cầu nối giữa các đơn vị cơ sở với các cơ quan quản lý cấp trên. Mọi chủ chương, chính sách của Nhà nước, hiệu lực quản lý Nhà nước đều có sự tham gia của cấp ngân sách này, giúp cho công tác quản lý điều hành đạt hiệu quả tốt hơn. Đồng thời cũng phản ánh kết quả của chủ trương chính sách, chế độ đó khi triển khai thực hiện tại cơ sở. Là một cấp chính quyền cơ sở cũng tổ chức cho mình một bộ máy quản lý với hệ thống các cơ quan, đoàn thể, hành chính nhằm tổ chức thực hiện các chức năng của Nhà nước. Điều này cũng có nghĩa rằng để cho các cơ quan, đoàn thể, tổ chức đó hoạt động được thì cần phải có một quỹ tài chính tập trung, đó chính là Ngân sách huyện. Mặc dù không thực hiện các nhiệm vụ quan trọng và các mục tiêu chiến lược như ngân sách Trung ương nhưng Ngân sách huyện cũng tạo cho mình một vị trí nhất định, nhằm chủ động trong việc thực hiện chức năng Nhà nước tại ở địa phương tuỳ theo địa giới hành chính, tình hình kinh tế xã hội của từng huyện mà nhu cầu đảm bảo này sẽ khác nhau. Trong thời gian qua, cùng với sự chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế và thay đổi của đất nước, sự năng động của Chính quyền các cấp cơ sở đã giúp cho kinh tế nhiều địa phương phát triển mạnh mẽ, đó chính là đóng góp không nhỏ của ngân sách huyện, nguồn thu không ngừng tăng lên, các khoản chi được quản lý ngày một chặt chẽ, điều này khẳng định vai trò của ngân sách huyện. Trong giai đoạn đổi mới hội nhập giao lưu kinh tế quốc tế, tăng cường vai trò, vị trí ngân sách huyện là hết sức cấp thiết, ngoài việc tăng c
Luận văn liên quan