Chuyên đề Một số giải pháp tăng cường tác động tích cực của tỷ giá hối đoái lên hoạt động ngoại thương Việt Nam

Ngoại thương Việt Nam đã bước đi trên chặng đường đổi mới được gần 20 năm. Từ đó đến nay, thế giới thực sự đã đổi khác. Các quốc gia ngày càng liên kết chặt chẽ với nhau hơn bởi sự vận động của những luồng hàng hóa, dịch vụ không thể nào kìm hãm nổi. Cùng với sự di chuyển các luồng hàng hóa dưới tốc độ chóng mặt, tỷ giá hối đoái các đồng tiền chủ chốt trên thế giới như USD, JPY, EUR cũng liên tục biến động, phản ánh chính xác tương quan sức mua giữa các nước trên thế giới. Là một quốc gia đang bước những bước đầu tiên trong quá trình hội nhập, đã đến lúc Việt Nam chúng ta phải có những nhìn nhận đúng đắn hơn về công cụ tỷ giá, đặc biệt là tác động tích cực của tỷ giá hối đoái lên ngoại thương Việt Nam. Có ý kiến cho rằng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay sẽ chủ yếu được gây dựng nhờ việc đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, xúc tiến thương mại., rằng với cơ cấu xuất-nhập khẩu ở thời điểm hiện tại thì tỷ giá hối đoái sẽ không có tác động mấy đến hoạt động ngoại thương Việt Nam.Xin thưa nếu sản phẩm của chúng ta có cải tiến đến đâu, mẫu mã có phong phú đến cỡ nào, khi vận động dưới một chế độ tỷ giá bị áp đặt cao hơn nhiều lần so với giá trị thực của nó như tại thời điểm này thì cánh cửa hội nhập chắc chắn sẽ dần khép lại. Ấy là chưa kể đến việc hàng hóa của Việt Nam vốn kém tính cạnh tranh trên trường quốc tế, chất lượng thấp, giá thành cao. Các doanh nghiệp nhà nước với thói quen làm ăn kiểu cũ dù được đầu tư khá nhiều song đóng góp cho kim ngạch xuất khẩu không được là bao. Tăng trưởng xuất khẩu chủ yếu dựa vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, trong khi đó mấy năm trở lại đây, đầu tư nước ngoài lại không ngừng suy giảm. Lúc Việt Nam bước chân lên thương trường quốc tế cũng chính là lúc hàng hóa Việt Nam liên tiếp gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ nhiều phía. Đằng sau những thái độ cởi mở, giảm dần mức thuế quan hay cho hưởng đãi ngộ tối huệ quốc là những rào cản vô hình do các quốc gia trên thế giới ngấm ngầm tạo ra nhằm bảo vệ sản xuất nước họ. Chiêu bài mà các nước phát triển thường sử dụng để ngăn cản sự xâm lấn của hàng hóa các nước đang phát triển trên thị trường nước họ chính là bán phá giá hàng hóa. Điều này cho thấy việc cạnh tranh dựa trên giảm giá thành sản xuất tiến đến giảm giá bán hàng xuất khẩu không còn là biện pháp tối ưu. Bài học đau lòng về vụ kiện cá tra, cá basa còn đó và tôm của chúng ta cũng rất có thể sẽ lâm vào tình cảnh tương tự, khi ấy liệu các nhà hoạch định của chúng ta có còn quay lưng với tỷ giá ? Thiết nghĩ đây chính là thời điểm thích hợp nhất để tỷ giá hối đoái được trả về vận động theo đúng xu thế tự nhiên của nó.

doc125 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2911 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp tăng cường tác động tích cực của tỷ giá hối đoái lên hoạt động ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1: Lý luận chung về tỷ giá hối đoái và tác động của tỷ giá tới ngoại thương Tỷ giá hối đoái là một trong những biến số kinh tế vĩ mô hết sức nhạy cảm. Tỷ giá biến động từng ngày, từng giờ và chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố. Bên cạnh các yếu tố mà ảnh hưởng của chúng đến tỷ giá dễ dàng nhận biết như cung cầu ngoại hối, lãi suất, lạm phát, cán cân thanh toán…tỷ giá còn chịu tác động bởi những yếu tố nếu thoáng qua sẽ tưởng như chẳng có mối ràng buộc nào cả. Ví như công việc của một người bán hàng rong: xét một cách cụ thể công việc của một người bán hàng rong ảnh hưởng đến thu nhập của anh ta, đến lượt thu nhập lại tác động lên chi tiêu thực tế, gây ảnh hưởng đến chỉ số giá tiêu dùng và cuối cùng là tỷ giá hối đoái thực tế. Mặc dù biến động của tỷ giá hối đoái là vô cùng phức tạp song tỷ giá luôn là đề tài hấp dẫn đối với giới nghiên cứu kinh tế cũng như các nhà quản lý vĩ mô trong bối cảnh tự do hóa thương mại hiện nay. Các quốc gia trên thế giới từ lớn đến nhỏ, từ mạnh đến yếu đều ý thức được rằng tỷ giá hối đoái sẽ là một công cụ hữu hiệu, một liều thuốc cứu cánh cho thương mại các quốc gia nói chung cũng như ngoại thương nói riêng đang trong tình trạng hấp hối. Việc nghiên cứu những lý luận cơ bản về tỷ giá hối đoái dưới đây do đó sẽ giúp ta hiểu hơn tại sao tỷ giá hối đoái lại quan trọng đối với các quốc gia đến như vậy. 1.1.Khái niệm, cơ chế hình thành và phân loại tỷ giá hối đoái: 1.1.1. Khái niệm: Tất cả chúng ta đã quá quen thuộc với khái niệm thương mại trong nước, khi ta mua cam Sài Gòn hay bưởi Vĩnh Long, tất nhiên chúng ta sẽ trả bằng tiền đồng của Việt Nam và tất cả những người bán cũng muốn chúng ta trả cho họ bằng đồng tiền như vậy. Điều đó cho thấy các giao dịch kinh tế trong phạm vi một nước rất đơn giản. Song nếu chúng ta muốn mua cam California (Mỹ) thì mọi việc sẽ hoàn toàn khác. Các nhà xuất khẩu Mỹ sẽ muốn chúng ta trả cho họ đô la Mỹ chứ không phải tiền đồng Việt Nam, do đó ta sẽ phải mua đô la Mỹ, từ đó dùng lượng đô la này để trả cho họ. Một câu hỏi đặt ra liệu chúng ta sẽ cần bao nhiêu đô la Mỹ ? Khi ấy, chúng ta sẽ phải quan tâm đến một khái niệm mới đó là: tỷ giá hối đoái. Karl Mark (1818-1883) chính là người đầu tiên đưa ra khái niệm tỷ giá hối đoái. Trong bộ “Tư bản”(1858) ông viết: “Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế lịch sử, gắn với giai đoạn phát triển sản xuất của xã hội, tính chất,cường độ tác động của nó phụ thuộc vào trình độ phát triển thị trường và các giai đoạn cụ thể trong lưu thông tiền tệ thế giới”. Đây là một khái niệm khá phức tạp mang nặng tính lý luận hơn nghiên cứu thực tế song cũng đã thể hiện được phần nào tính lịch sử cũng như sự vận động của tỷ giá. Sau Mark, tỷ giá hối đoái đã được hiểu đơn giản hơn và cho đến nay khái niệm thường được sử dụng nhất là: Tỷ giá hối đoái là giá cả của đồng tiền nước này tính theo đồng tiền nước khác(2). Điều đó có nghĩa tỷ giá hối đoái cũng là giá cả song giá cả của một loại hàng hóa đặc biệt: tiền tệ. Mỗi quốc gia hiện nay thường tạo dựng cho mình một đồng tiền riêng, đồng tiền nước này là ngoại tệ của nước khác, việc thanh toán giữa các quốc gia đòi hỏi phải sử dụng đồng tiền này đổi lấy đồng tiền kia, từ đó lại xuất hiện hai khái niệm cụ thể hơn về tỷ giá hối đoái xét trên phạm vi một quốc gia: *Tỷ giá là giá của đồng ngoại tệ tính theo đơn vị nội tệ. Khái niệm này biểu trưng cho cách yết giá trực tiếp (ngoại tệ/nội tệ). Ví dụ tỷ giá EUR/VND (EUR: euro, đồng tiền chung Châu Âu) trên thị trường Việt Nam ngày 5/11/2003 là 18.142VND và ở đây giá 1EUR đã được biểu hiện trực tiếp bằng VND. *Tỷ giá là giá cả của đồng nội tệ tính theo ngoại tệ. Đây là khái niệm chỉ cách yết giá gián tiếp (nội tệ/ngoại tệ), ví dụ như tỷ giá CNY/VND (CNY: Nhân dân tệ) tại Bắc Kinh là 1.842, giá VND chưa biểu hiện ra bên ngoài, do vậy để biết được giá VND, phải tiến hành chuyển đổi như sau: 1VND = 1/1.842CNY. Điều 4 mục 3.5 nghị định của Chính phủ về quản lý ngoại hối ban hành 17/8/1998 quy định: Tỷ giá hối đoái là giá một đơn vị tiền tệ nước ngoài tính bằng đơn vị tiền tệ Việt Nam. Để tiện nghiên cứu, trong toàn bộ đề tài này nếu không có ghi chú gì đặc biệt thì tỷ giá tăng sẽ được hiểu là tỷ giá nội tệ tăng tức đồng nội tệ tăng giá, còn tỷ giá giảm sẽ được hiểu là tỷ giá nội tệ giảm, đồng nội tệ giảm giá. Điều này cũng có nghĩa phá giá làm tỷ giá hối đoái giảm còn nâng giá làm tỷ giá hối đoái tăng. Trong cách viết EUR/VND, EUR đứng trước gọi là tiền yết giá và là một đơn vị tiền tệ; VND đứng sau là tiền định giá, là một số đơn vị tiền tệ thay đổi phụ thuộc vào thời giá của tiền yết giá(35). 1.1.2.Cơ chế hình thành tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái có một quá trình phát triển lâu dài, trải qua nhiều chế độ khác nhau, các chế độ tỷ giá hối đoái luôn gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của thương mại thế giới. Từ chế độ bản vị vàng (1875-1914) đến chế độ bản vị hối đoái vàng (1944-1972) rồi chế độ tỷ giá thả nổi, thả nổi có quản lý (1975 - nay), tỷ giá đều được hình thành trên tương quan so sánh giá trị đồng tiền quốc gia này với quốc gia khác bất kể đó là vàng hay là tiền tệ của một quốc gia đơn lẻ nào đó. Có thể nói trong lịch sử phát triển của mình, tỷ giá được hình thành trên hai ngang giá chính đó là ngang giá vàng và ngang giá sức mua. 1.1.2.1.Ngang giá vàng: Trước năm 1850, rất nhiều quốc gia trên thế giới theo đuổi một chế độ tiền tệ song bản vị: bạc và vàng là hai loại tiền tệ chính được lưu hành trong thanh toán thương mại giữa các quốc gia, tỷ giá hối đoái do đó được hình thành trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng và bạc. Năm 1850, khi khám phá ra hai mỏ vàng mới ở Mỹ và Úc, lượng vàng khai thác được đổ dồn về các quốc gia Châu Âu. Nếu trước đó chỉ có Anh tiến hành vàng hóa thanh toán (tức mọi giấy bạc của Anh đều đổi được ra vàng) thì năm 1851, Pháp và một số quốc gia khác cũng đi theo bước chân của Anh. Đồng bạc bị loại khỏi thanh toán và chế độ bản vị vàng bắt đầu. Tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền của hai nước bất kì thời kỳ bản vị vàng được quyết định dựa trên việc so sánh hàm lượng vàng của hai nước với nhau. Giả sử hàm lượng vàng của đồng bảng Anh (GBP) là 1 ounce = 6 GBP trong khi hàm lượng vàng của franc Pháp (FRF) là 1 ounce = 12 FRF thì suy ra: 6GBP = 12FRF 1GBP = 2FRF Có thể tổng quát hóa bằng công thức sau: Tỷ giá hối đoái (đồng A/ đồng B)=  Dưới chế độ bản vị vàng, khi tiền giấy tự do đổi ra vàng và ngược lại, thì mọi biến động của tỷ giá hối đoái sẽ tự động được điều chỉnh về mức cân bằng. Hãy lấy ví dụ trên làm minh chứng. Với hàm lượng vàng như trên giữa các đồng tiền GBP và FRF, giả sử GBP bị sụt giá trên thị trường ngoại hối tức 1GBP= 1,8FRF; một nhà nhập khẩu Anh cần 1000FRF để mua hàng hóa từ Pháp; nếu nhà nhập khẩu mua trực tiếp FRF bằng GBP, nhà nhập khẩu sẽ phải bỏ ra 555,56 GBP để có 1000FRF. Tuy nhiên, nhà nhập khẩu này đã dùng 1000FRF để mua vàng tại Anh sau đó đổi từ vàng sang GBP. Qui trình 1 khiến nhà nhập khẩu phải mua vàng để có 1000FRF với giá (1000/12)*6 = 500GBP; như vậy nhà nhập khẩu này đã lãi 55,56 GBP. Các nhà nhập khẩu khác cũng sẽ làm tương tự như vậy dẫn đến cầu đồng bảng tăng cho đến khi tỷ giá quay trở lại vị trí cân bằng ban đầu 1GBP = 2FRF. Chế độ bản vị vàng với cơ chế ngang giá vàng đã đem lại nguồn lợi cho rất nhiều quốc gia đặc biệt là Anh. Tuy nhiên đến cuối thế kỉ 19, các mỏ vàng đứng trước nguy cơ bị khai thác hết, lượng cung vàng khan hiếm dần, tình trạng giảm phát liên tiếp xảy ra, một cơ chế hình thành tỷ giá hối đoái mới xuất hiện: Cơ chế ngang giá sức mua. 1.1.2.2. Ngang giá sức mua: Thời kì bản vị vàng qua đi, tiền giấy đảm nhận toàn bộ chức năng thanh toán, cùng với việc giấy bạc không được tự do đổi ra vàng theo hàm lượng vàng ấn định, ngang giá vàng không còn là cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái; thay vào đó, việc so sánh hai đồng tiền với nhau được thực hiện bằng so sánh sức mua của hai loại tiền tệ. Tỷ giá hối đoái hình thành trên cơ chế ngang giá sức mua ra đời. Và để nghiên cứu cơ chế này, chúng ta hay cùng nhau tìm hiểu thuyết ngang giá sức mua. Ý tưởng ngang giá sức mua xuất phát từ thế kỉ thứ 19 với sự góp mặt của nhà kinh tế học trường phái cổ điển David Ricardo, sau đó được mở rộng và hệ thống hóa bởi nhà kinh tế học Thụy Điển Gustav Cassel những năm 1920. Ngang giá sức mua nhanh chóng được đón nhận trong bối cảnh siêu lạm phát diễn ra ở Đức, Hungari và Liên bang Xô Viết khi sức mua tiền tệ các quốc gia này đột nhiên sụt giảm bất ngờ. Thuyết ngang giá sức mua được xây dựng trên sự phát triển qui luật một giá cho rằng: Tỷ giá hối đoái giữa tiền tệ hai quốc gia sẽ bằng tỷ lệ giữa mức giá của hai quốc gia đó. Từ đây, tỷ giá hối đoái được hình thành như sau: nếu xem PD là mức giá của giỏ hàng hóa trong nước (tính bằng nội tệ), PF là mức giá của giỏ hàng hóa (tính bằng ngoại tệ) thì : Tỷ giá hối đoái (số đơn vị nội tệ /1 đơn vị ngoại tệ) = PD / PF Ví dụ tại Mỹ, một áo sơ mi bán với giá 4 USD trong khi tại Anh, cũng áo đó nhưng giá bán là 3 GBP thì trên thị trường Mỹ, tỷ giá sẽ là 1GBP = 4/3 = 1,3 USD. Cách áp dụng tính tỷ giá như trên gọi là PPP tuyệt đối, chỉ đúng trong trường hợp chi phí vận chuyển thấp, không có rào cản nào giữa hoạt động thương mại hai nước còn khi chi phí vận chuyển cao đi cùng với cạnh tranh không hoàn hảo, có sự can thiệp của nhà nước bằng các hàng rào thuế và phi thuế thì tỷ giá hối đoái chắc chắn sẽ không hoàn toàn được xác định như trên. PPP tương đối được đưa ra để khắc phục nhược điểm này. Đối với PPP tương đối thì tỷ giá được hình thành trên cơ sở xem xét chênh lệch lạm phát giữa hai nước. %∆S = %∆ PD - %∆PF Trong đó: %∆S: Tốc độ thay đổi của tỷ giá %∆PD: Tỷ lệ lạm phát trong nước %∆PF: Tỷ lệ lạm phát nước ngoài Điều này có thể hiểu là nếu tỉ lệ lạm phát ở Việt Nam là 10%, ở Mỹ là 5% thì giá đồng đô la sẽ được nâng lên 5% so với đồng Việt Nam. Tuy nhiên, PPP tương đối lại chỉ xem xét hàng hóa mậu dịch; đối với hàng hóa phi mậu dịch như dịch vụ cắt tóc thì PPP tương đối chưa giải thích được cơ chế hình thành tỷ giá, PPP tương đối không giải thích được tại sao cắt một kiểu đầu mới giá ở Mỹ là 20 USD trong khi ở Mêhicô chỉ có 7 USD. Song dù thế nào đi nữa thì PPP cũng đã đưa ra được một cơ chế hình thành tỷ giá mới dựa trên cơ sở ngang giá sức mua, mặc dù tỷ giá được xem là chịu tác động của nhiểu yếu tố như lạm phát, lãi suất…song cái cốt lõi của việc hình thành tỷ giá trong chế độ tiền giấy ngày nay vẫn chính là ngang giá sức mua. 1.1.3. Phân loại: Tỷ giá hối đoái trên cơ sở thực tiễn đã được phân làm nhiều loại, dựa trên những căn cứ khác nhau mà người ta phân loại ra những cặp tỷ giá khác nhau. Trong khuôn khổ của đề tài, người viết xin đưa ra những tỷ giá tiêu biểu nhất được xem là khuôn mẫu cho quá trình vận động của tỷ giá. *Căn cứ vào thời điểm thanh toán: _Tỷ giá giao ngay: là tỷ giá dùng cho các mua bán ngoại hối thanh toán ngay vào ngày hôm đó hoặc sau đó 2 ngày. _ Tỷ giá kỳ hạn : là tỷ giá được dùng cho các giao dịch kỳ hạn, thời gian giữa ngày kí hợp đồng và ngày giao tiền thường kéo dài từ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng hay 1 năm. *Căn cứ vào tính chất của tỷ giá: _Tỷ giá danh nghĩa: Tỷ giá danh nghĩa được hiểu là tỷ giá đo lường giá trị danh nghĩa của đồng tiền mà không phản ánh sức cạnh tranh của hàng hóa trong nước trong trao đổi thương mại quốc tế. Sự phá giá tỷ giá danh nghĩa vì vậy cũng không phản ánh được sự thay đổi trong tính cạnh tranh quốc tế hàng hóa một nước như tỷ giá thực tế trình bày dưới đây. _Tỷ giá thực tế(i): là tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh theo mức giá tương đối giữa các nước, có tính đến sức mua thực tế và quyết định tính cạnh tranh của hàng hóa quốc gia. *Căn cứ vào phương tiện thanh toán: _Tỷ giá điện hối: tỷ giá chuyển ngoại hối bằng điện, là cơ sở xác định các loại tỷ giá khác _ Tỷ giá thư hối: tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư. (i)Tỷ giá danh nghĩa được công bố hàng ngày trên thông tin đại chúng trong khi tỷ giá thực tế phải được tính toán dựa trên tỷ giá danh nghĩa như sau: Tỷ giá thực tế = (Tỷ giá danh nghĩa * Mức giá nước ngoài)/ Mức giá trong nước *Căn cứ vào cơ chế quản lý ngoại hối, ở những nước kém phát triển, ngoài thị trường ngoại hối chính thức còn xuất hiện thị trường chợ đen, tỷ giá được chia thành tỷ giá chính thức do ngân hàng trung ương quy định và tỷ giá chợ đen do quan hệ cung cầu ngoại hối quyết định(35). *Căn cứ vào hoạt động thanh toán ngoại thương: _Tỷ giá xuất khẩu: tỷ giá xuất khẩu được tính bằng tỷ số của giá bán hàng xuất khẩu theo điều kiện F.O.B bằng ngoại tệ với giá bán buôn xí nghiệp cộng thuế xuất khẩu bằng nội tệ. _Tỷ giá nhập khẩu: tỷ giá nhập khẩu được tính bằng tỷ số giữa giá bán buôn hàng nhập khẩu tại cảng bằng nội tệ với với giá nhập khẩu bằng ngoại tệ. Khái niệm tỷ giá xuất khẩu và tỷ giá nhập khẩu chính xác hơn chính là tỷ suất phí của hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu. Để doanh nghiệp xuất nhập khẩu có lãi thì bất đẳng thức sau phải được thỏa mãn: tỷ giá xuất khẩu < tỷ giá chính thức < tỷ giá nhập khẩu (xem (5),(35)). *Căn cứ vào chế độ tỷ giá hối đoái: có 3 loại tỷ giá chính. _Tỷ giá hối đoái cố định: là tỷ giá được nhà nước ấn định cố định trong tương quan giá cả giữa nội tệ và ngoại tệ. Tỷ giá cố định được áp đặt một cách cứng nhắc, mọi biến động của tỷ giá cố định sẽ phải xoay quanh mức tỷ giá với biên độ rất nhỏ do nhà nước cho phép. Nhà nước sẽ là tổ chức duy nhất được quyền quyết định thay đổi lại tỷ giá nếu có biến động quá lớn giữa ngang giá sức mua các đồng tiền. Mặc dù tỷ giá cố định có ưu điểm là tạo niềm tin về đồng tiền ổn định cho các nhà đầu tư, giúp các nhà xuất, nhập khẩu tránh được rủi ro hối đoái…song tỷ giá cố định thường là căn nguyên của các cuộc khủng hoảng kinh tế do chính sách tiền tệ thường xuyên bị phụ thuộc vào quốc gia có đồng tiền được neo tỷ giá, đi kèm với việc ngân hàng trung ương phải thường xuyên can thiệp vào thị trường ngoại hối giữ tỷ giá ổn định, dẫn đến cạn kiệt lượng ngoại hối dự trữ… _Tỷ giá thả nổi hoàn toàn: tỷ giá thả nổi được ưa chuộng sau khi hệ thống Bretton Wood sụp đổ, tỷ giá thả nổi hoàn toàn được xác lập hoàn toàn dựa trên cung cầu ngoại hối, sự vận động hàng ngày của tỷ giá thả nổi đều phản ánh chính xác sự luân chuyển các luồng tiền tệ giữa các quốc gia, ngân hàng trung ương sẽ không còn gặp nguy cơ cạn kiệt dự trữ ngoại hối như trong trường hợp tỷ giá cố định nữa, chính sách tiền tệ trở nên độc lập hơn... Tuy vậy, trong sự vận động không hoàn hảo của thị trường, tỷ giá hoàn toàn thả nổi cũng ẩn chứa nhiều rủi ro; đó là hễ tỷ giá hối đoái thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi trong cán cân thanh toán, cụ thể hơn là cán cân thương mại để phù hợp với mức tỷ giá mới. Tỷ giá thả nổi sẽ luôn gây ra sự sụt giá trên thị trường nội địa do những thay đổi về lợi nhuận của các nhà đầu tư, các nhà xuất- nhập khẩu. Chưa hết, tỷ giá thả nổi còn là miếng mồi béo bở cho những kẻ đầu cơ tiền tệ, việc đầu cơ theo trào lưu rất dễ gây tổn thương khu vực tài chính, tiền tệ của nền kinh tế. _Tỷ giá thả nổi có quản lý: Đây là loại tỷ giá được ưa chuộng nhất, đứa con ruột của cuộc hôn phối giữa tỷ giá cố định và tỷ giá thả nổi, nó khắc phục được các nhược điểm của cả hai loại tỷ giá trên. Trong tỷ giá thả nổi có quản lý, tỷ giá vận hành theo sự biến động cung cầu thị trường, chính phủ sẽ can thiệp vào thị trường ngoại hối khi cần thiết, việc điều chỉnh tỷ giá sẽ dựa trên điều chỉnh tỷ giá chính thức. Tỷ giá thả nổi có quản lý một mặt phản ánh cung cầu ngoại hối, mặt khác đáp ứng được mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế thông qua việc điều chỉnh tỷ giá của nhà nước nên được các quốc gia rất ưa chuộng. Tính từ đầu năm 1970 đến nay, số quốc gia áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý đã tăng từ 23% (trong tổng số các quốc gia) lên tới 84% năm 2002 và Việt Nam chúng ta cũng nằm trong số các quốc gia này (47). 1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái trong nền kinh tế mở: Dưới con mắt các nhà kinh tế học, tỷ giá hối đoái luôn vận động theo những biến động vĩ mô của nền kinh tế. Mặc dù khoác cho mình tấm áo tỷ giá danh nghĩa có lúc được xem là ổn định song tỷ giá danh nghĩa đối với các nước áp dụng chế độ thả nổi tỷ giá hoặc thậm chí cố định cũng thường xuyên thay đổi. Tỷ giá giữa đô la Mỹ và đồng Yên Nhật ngày 31/9 năm 2003 đang dừng ở mức 118 JPY ăn 1 USD thì chỉ tám ngày sau đó đã lên đến 109 JPY một USD, một mức biến động khá lớn, ấy là chưa kể trong khoảng thời gian chưa đầy một tuần từ 3/9 đến 8/9 năm 2003 tỷ giá giữa đồng Baht (Thái Lan) đã tăng giá 2% so với USD (39) . Thế giới ngày nay thực sự đã đổi khác, các hoạt động thương mại, đầu tư trở nên gấp gáp hơn, những bữa ăn trưa của các doanh nhân cũng vội vàng hơn, thời gian dường như bị thu hẹp lại, tất cả bị cuốn đi trong vòng xoáy toàn cầu hóa, tự do hóa. Và tỷ giá hối đoái, người bạn đồng hành của lưu thông hàng hóa tiền tệ cũng không tránh khỏi nhịp sống đó. Hãy nhìn lại trước kia khi đa số các quốc gia theo đường lối Xã Hội Chủ Nghĩa phủ nhận vai trò tỷ giá thì tỷ giá dường như chỉ là cái bóng mờ nhạt bên cạnh những người bạn đồng hành của nó ví như lạm phát, lãi suất…Cụ thể hơn, đối với một nền kinh tế đóng mà hiện nay Bắc Triều Tiên là một quốc gia điển hình thì sự tồn tại của tỷ giá hối đoái chỉ đồng nghĩa với việc trao đổi thuần túy hàng hóa giữa các quốc gia, chức năng của nó chẳng qua là chỉ để thay thế cho phương trình trao đổi 1chiếc rìu bằng 3 quả tạ mà thôi. Nhà nước hoàn toàn ấn định tỷ giá theo sự cảm nhận chủ quan của mình, cũng có tính đến những nhân tố tác động đến tỷ giá hối đoái song những tính toán đó có thể coi là không chính xác, không theo kịp mọi bước đi gấp gáp của vũ điệu thương mại thế giới. Nói một cách khác, trong nền kinh tế đóng, sự vận động của tỷ giá hối đoái không phản ánh đúng tác động gây ra bởi các nhân tố như cán cân thanh toán, đầu cơ, lạm phát, lãi suất, buôn lậu…Trái lại, trong một nền kinh tế mở cửa, dù là mở cửa ở mức độ nào thì tỷ giá hối đoái cũng được xem là vô cùng nhạy cảm, hấp thu mọi tác động từ các biến số kinh tế vĩ mô khác, các nhà hoạch định do đó cần phải rất thận trọng khi điều chỉnh tỷ giá hối đoái, phải cân nhắc tới mọi động thái, mọi nhân tố tác động để có thể đạt được mục tiêu hiệu quả trên tổng thể trên toàn bộ nền kinh tế. Xuất phát từ thực tiễn hơn 80% tổng số quốc gia trong đó có Việt Nam theo đuổi chiến lược mở cửa nền kinh tế, phần này sẽ chỉ tập trung phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái trong nền kinh tế mở và hãy bắt đầu bằng một nhân tố quen thuộc: Độ mở nền kinh tế. 1.2.1. Độ mở nền kinh tế: Theo Tiến sĩ kinh tế học Johnathan Heward hiện đang là giảng viên trường Đại học Arizona (Mỹ) thì độ mở nền kinh tế chính là mức độ mà một quốc gia tham gia thương mại quốc tế, quan hệ quốc tế, tiến hành việc giao lưu hàng hóa, tiền tệ, lao động, bí quyết công nghệ và vốn với phần còn lại của thế giới. Ông cũng đã tiến hành nghiên cứu và đặt trọng số về độ mở nền kinh tế, vấn đề này có thế được khái quát giản đơn bằng sơ đồ sau: Sơ đồ 1: Sơ đồ giới hạn mức độ mở cửa Mức độ mở cửa (%) 0 50 +100 (Đóng cửa) (Độ mở trung bình) (Hoàn toàn mở cửa) Nguồn: Báo cáo chiến lược kinh tế bang Arizona (Mỹ), 11/2001. Ở mức 0%, nền kinh tế trong trạng thái “ngủ”, nhân tố mở không còn, khái niệm độ mở không tồn tại và do đó cũng sẽ không có tác động của độ mở nền kinh tế lên tỷ giá hối đoái. Mức 0% đến 50% là các quốc gia có độ mở vừa phải, đa số là các quốc gia đang phát triển, nền kinh tế nhỏ mở cửa, thu nhập bình quân đầu người ở mức thấp đến trung bình (dưới 1000 USD) trong đó có thể kể đến Lào, Việt Nam, Tuynidi, Nevanda… Việc mở cửa nền kinh tế các quốc gia này được tiến hành một cách từ từ, có tính chất thăm dò và chủ yếu dựa trên các hiệp định thương mại song phương, mục đích kinh tế vẫn còn bị chính trị chi phối, mọi khía cạnh tự do hóa thị trường tài chính, tự do hóa đầu tư, lãi suất…vẫn còn nằm trong ý chí chủ quan của nhà nước. Mức trung bình đến 90% là mức độ mở cửa của các quốc gia như Mỹ, Nhật, EU, Canada… các quốc gia này tìm kiếm tự do hóa thương mại dựa trên hiệp định cả song phương lẫn đa phương, v
Luận văn liên quan