Vấn đề hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay đang được bàn đến rất nhiều trên các thông tin đai chúng, đặc biệt sau khi Việt Nam ra nhập tổ chức thương mại WTO. Đảng và Nhà nước đã khẳng định điều này sẽ mang đến nhiều cơ hội những cũng sẽ ẩn chứa nhiều thách thức mà ta sẽ phải đối mặt.
Muốn Việt Nam vững bước trên con đường hội nhập thì ta phải giải quyết triệt để các vấn đề nổi cộm trong xã hội hiện nay. Hiện nay, một trong những vấn đề gây bức xúc nhiều trong giới dư luận chính là việc các công trình đầu tư lớn của Nhà nước bị đổ sập. Năm vừa qua là năm liên tiếp sập các công trình xây dựng như vụ sập cầu Cần thơ, cao ốc Pacific cuối năm 1997 . . . Nó thật sự là thảm họa đã cướp đi sinh mạng của nhiều người và gây thiệt hại hàng tỷ đồng cho ngân sách nhà nước. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để giải quyết được tình trạng chất lượng công trình đang ngày càng bị vi phạm một cách nghiệm trọng như vậy. Phải chăng chúng ta nên quan tâm đúng mức hơn nữa đến vấn đề nâng cao chất lượng công trình? Đúng vậy, vấn đề này đã trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết trong toàn xã hội, trong đó doanh nghiệp xây dựng giữa vai trò hết sức quan trọng bởi họ chính là những người trực tiếp thực hiện các công trình. Do vậy, các doanh nghiệp cần chủ động hơn nữa trong việc nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng để tránh xảy ra những tình trạng đáng tiếc như trong năm vừa qua.
Công ty Tây Hồ là đơn vị thuộc tổng cục Công nghiệp quốc phòng, được thành lập năm 1996, từ đó đến nay Công ty đã tham gia nhiều công trình xây dựng cơ bản và tất cả các công trình đến nay vẫn trong quá trình sử dụng tốt. Nhưng cũng có một số công trình trong khi đang thi công đã gặp sự cố về chất lượng. Mặc dù Công ty đã kịp thời phát hiện và khắc phục nhưng dù sao thì nó cũng đã gây tổn thất về mặt tài chính cho Công ty và làm giảm sức cạnh tranh của Công ty với các đối thủ trên thị trường xây dựng. Thật ra đây là vấn đề cũng hay mắc phải của các doanh nghiệp Việt Nam, do trình độ máy móc kỹ thuật không cao và quan trọng hơn là trình độ quản lý chất lượng công trình còn yếu vì khái niệm quản lý chất lượng công trình chỉ mới du nhập vào nước ta trong mấy năm gần đây. Chính vì những lý do đó mà em quyết định chọn đề tài cho chuyên đề của mình là: “Một số giải pháp về quản lý nhằm nâng cao chất lượng công trình tại Công ty Tây hồ”. Chuyên đề gồm các phần chính sau:
Chương 1: Tổng quan về quản lý chất lượng công trình.
Chương 2: Thực trạng của công tác quản lý chất lượng công trình tại Công ty Tây Hồ.
Chương 3: Một số kiến nghị về quản lý nhằm nâng cao chất lượng công trình tại Công ty Tây Hồ.
106 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2312 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp về quản lý nhằm nâng cao chất lượng công trình tại công ty Tây Hồ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Vấn đề hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay đang được bàn đến rất nhiều trên các thông tin đai chúng, đặc biệt sau khi Việt Nam ra nhập tổ chức thương mại WTO. Đảng và Nhà nước đã khẳng định điều này sẽ mang đến nhiều cơ hội những cũng sẽ ẩn chứa nhiều thách thức mà ta sẽ phải đối mặt.
Muốn Việt Nam vững bước trên con đường hội nhập thì ta phải giải quyết triệt để các vấn đề nổi cộm trong xã hội hiện nay. Hiện nay, một trong những vấn đề gây bức xúc nhiều trong giới dư luận chính là việc các công trình đầu tư lớn của Nhà nước bị đổ sập. Năm vừa qua là năm liên tiếp sập các công trình xây dựng như vụ sập cầu Cần thơ, cao ốc Pacific cuối năm 1997 . . . Nó thật sự là thảm họa đã cướp đi sinh mạng của nhiều người và gây thiệt hại hàng tỷ đồng cho ngân sách nhà nước. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để giải quyết được tình trạng chất lượng công trình đang ngày càng bị vi phạm một cách nghiệm trọng như vậy. Phải chăng chúng ta nên quan tâm đúng mức hơn nữa đến vấn đề nâng cao chất lượng công trình? Đúng vậy, vấn đề này đã trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết trong toàn xã hội, trong đó doanh nghiệp xây dựng giữa vai trò hết sức quan trọng bởi họ chính là những người trực tiếp thực hiện các công trình. Do vậy, các doanh nghiệp cần chủ động hơn nữa trong việc nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng để tránh xảy ra những tình trạng đáng tiếc như trong năm vừa qua.
Công ty Tây Hồ là đơn vị thuộc tổng cục Công nghiệp quốc phòng, được thành lập năm 1996, từ đó đến nay Công ty đã tham gia nhiều công trình xây dựng cơ bản và tất cả các công trình đến nay vẫn trong quá trình sử dụng tốt. Nhưng cũng có một số công trình trong khi đang thi công đã gặp sự cố về chất lượng. Mặc dù Công ty đã kịp thời phát hiện và khắc phục nhưng dù sao thì nó cũng đã gây tổn thất về mặt tài chính cho Công ty và làm giảm sức cạnh tranh của Công ty với các đối thủ trên thị trường xây dựng. Thật ra đây là vấn đề cũng hay mắc phải của các doanh nghiệp Việt Nam, do trình độ máy móc kỹ thuật không cao và quan trọng hơn là trình độ quản lý chất lượng công trình còn yếu vì khái niệm quản lý chất lượng công trình chỉ mới du nhập vào nước ta trong mấy năm gần đây. Chính vì những lý do đó mà em quyết định chọn đề tài cho chuyên đề của mình là: “Một số giải pháp về quản lý nhằm nâng cao chất lượng công trình tại Công ty Tây hồ”. Chuyên đề gồm các phần chính sau:
Chương 1: Tổng quan về quản lý chất lượng công trình.
Chương 2: Thực trạng của công tác quản lý chất lượng công trình tại Công ty Tây Hồ.
Chương 3: Một số kiến nghị về quản lý nhằm nâng cao chất lượng công trình tại Công ty Tây Hồ.
Trong quá trình nghiên cứu em đã sử dụng hai phương pháp chủ yếu là phương pháp nghiên cứu tài liệu và phương pháp phân tích, điều tra.
Em rất cám ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo hướng dẫn và tập thể ban lãnh đạo của Công ty Tây Hồ đã tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành tốt chuyên đề thực tập.
Mặc dù đã cố gắng hết sức để viết tốt chuyên đề này nhưng thiếu xót là điều khó tránh khỏi . Em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ dẫn của thầy và đơn vị thực tập.
Em xin chân thành cám ơn!
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Bích Ngọc.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG CÔNG TRÌNH.
1.1. CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM VÀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM.
1.1.1. Chất lượng sản phẩm.
1.1.1.1. Khái niệm về chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là một khái niệm đã xuất hiện từ lâu và được sử dụng rất phổ biến trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Tuy nhiên, để hiểu rõ và đầy dủ về khái niệm chất lượng sản phẩm thì thật không hề đơn giản. Bởi đây là một phạm trù phức tạp phản ánh tổng hợp các nội dung kỹ thuật, kinh tế và xã hội. Đứng ở những góc độ khác nhau và tùy theo mục tiêu, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh có thể đưa ra những quan niệm về chất lượng sản phẩm thành những nhóm chủ yêu sau:
- Quan niệm siêu việt: cho rằng chất lượng là sự tuyệt vời và hoàn hảo nhất của sản phẩm.
Quan niệm này quá tính trừ tượng bởi chất lượng sản phẩm không thể xác định một cách chính xác.
- Quan niệm theo hướng công nghệ: cho rằng chất lượng sản phẩm là tồng hợp những đặc tính bên trong sản phẩm, có thể đo được hoặc so sánh được, phản giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm đó đáp ứng yêu cầu định trước cho nó, trong những yêu cầu xác định về kinh tế xã hội.
Ưu điểm của quan niệm này là có thể dễ dàng đánh giá được chất lượng đơn thuần về mặt kỹ thuật và ở mặt tương đối tĩnh.
Tuy nhiên, nó cũng có nhược điểm là dễ dẫn đến nguy cơ làm cho chất lượng không kịp thời cải tiến, không gắn chặt với nhu cầu thị trường và dẫn đến kết quả là tiêu thụ sản phẩm kém.
- Quan niệm theo hướng khách hàng: theo hướng này có rất nhiều chuyên gia nổi tiếng như:
Theo W.E.Deming: “ Chất lượng là mức độ dự đoán trước về tính đồng đều và có thể tin cậy được, tại mức chi phí thấp và được thị trường chấp nhận”.
Theo Philip B.Crosby trong quyển “ Chất lượng là thứ cho không” đã diễn tả: “ Chất lượng là sự phù hợp với yêu cầu”.
Theo A. Feigenbaum: “ Chất lượng là những đặc điểm tổng hợp của sản phẩm dịch vụ mà khi sử dụng sẽ làm cho sản phẩm, dịch vụ đáp ứng được mong đợi của khách hàng”.
Hầu hết các tác giả đều khẳng định chất lượng sản phẩm chính là mức độ thỏa mãn nhu cầu hay sự phù hợp với những đòi hỏi của khách hàng. Từ đó mà mức độ đáp ứng nhu cầu là cơ sở đánh giá trình độ chất lượng sản phẩm đạt được. Chất lượng sản phẩm không chỉ là các chỉ tiêu kỹ thuật mà cả về những yêu cầu về mặt kinh tế xã hội.
Điểm đặc biệt nổi bật của quan niệm này là ở chỗ chất lượng sản phẩm luôn gắn bó chặt chẽ với nhu cầu và xu hướng vận động của nhu cầu thị trường nên sản phẩm phải thường xuyên cải tiến, đổi mới phù hợp cho thích ứng với đòi hỏi của khách hàng.
- Ngoài ra, xuất phát từ việc nhấn mạnh đến mục tiêu chủ yếu của từng doanh nghiệp theo đổi nhằm thích ứng với đòi hỏi của thị trường như lợi thế cạnh tranh, tính hoàn thiện không ngừng của sản phẩm, khả năng vượt những đòi hỏi của khách hàng,…ta còn có các quan điểm khác về chất lượng sản phẩm như:
Quan niệm của tổ chức tiêu chuẩn chất lượng của nhà nước Liên Xô (IOCT: 15467:70): “Chất lượng sản phẩm là tổng thể những thuộc tính của nó quy định tính thích hợp sử dụng của sản phẩm để thỏa mãn những nhu cầu phù hợp với công dụng của nó”.
Quan niệm của tổ chức tiêu chuẩn chất lượng Quốc tế ISO: “Chất lượng là tổng thể các chỉ tiêu, những đặc trưng của nó thể hiện được sự thỏa mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng của sản phẩm mà người tiêu dung mong muốn.”
Cho tới nay quan niệm chất lượng sản phẩm tiếp tục được mở rộng hơn nữa, “Chất lượng là sự kết hợp giữa các đặc tính của sản phẩm thỏa mãn những nhu cẩu của khách hàng trong giới hạn chi phí nhất định. Trong thực tế ta thấy rằng các doanh nghiệp không theo đuổi chất lượng cao với bất cứ giá nào mà luôn đặt nó trong một giới hạn về công nghệ, kinh tế, xã hội.
1.1.1.2. Phân loại chất lượng sản phẩm.
Qua sự phân tích nghiên cứu, các chuyên gia chất lượng sản phẩm đã đưa ra 6 loại chất lượng sản phẩm như sau:
Chất lượng thiết kế: là chất lượng thể hiện những thuộc tính chỉ tiêu của sản phẩm được phác thảo trên cơ sở nghiên cứu thị trường được định ra để sản xuất, chất lượng thiết kế được thể hiện trong các bản vẽ, bản thiết kế, các yêu cầu về vật liệu chế tạo, những yêu cầu về gia công, sản xuất chế tạo, yêu cầu về bảo quản, về thử nghiệm và những yêu cầu hướng dẫn sử dụng. Chất lượng thiết kế còn gọi là chất lượng chính sách nhằm đáp ứng đơn thuần về lý thuyết đối với nhu cầu thị trường, còn thực tế có đạt được điều đó hay không thì nó còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố.
Chất lượng chuẩn: là loại chất lượng mà thuộc tính và chỉ tiêu của nó được phê duyệt trong quá trình quản lý chất lượng và người quản lý chính là các cơ quan quản lý và chính chỉ có họ mới có quyền phê chuẩn. Sau khi phê chuẩn rồi thì chất lượng này trở thành pháp lệnh, văn bản pháp quy.
Chất lượng thực tế: là mức độ thực tế đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của sản phẩm và nó được thể hiện sau quá trình sản xuất, trong quá trình sử dụng sản phẩm.
Chất lượng cho phép: là mức độ cho phép về độ lệch giữa chất lượng chuẩn và chất lượng thực tế của sản phẩm. Chất lượng cho phép do cơ quan quản lý chất lượng sản phẩm, cơ quan quản lý thị trường, hợp đồng quốc tế, hợp đồng giữa đôi bên quy định.
Chất lượng tối ưu: biểu thị khả năng toàn diện đáp ứng nhu cầu của thị trường trong điều kiện xác định với những chi phí xã hội thấp nhất. Nó nói lên mối quan hệ giữa chất lượng sản phẩm và chi phí.
Chất lượng toàn phần: là mức chất lượng thể hiện mức tương quan giữa hiệu quả có ích cho sử dụng sản phẩm có chất lượng cao và tổng chi phí để sản xuất và sử dụng sản phẩm đó.
1.1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố nhưng ta có thể chia thành hai nhóm yếu tố chủ yếu. Đó là nhóm yếu tố bên ngoài và nhóm yếu tố bên trong.
* Nhóm yếu tố bên ngoài:
- Nhu cầu của nền kinh tế:
Ở bất cứ trình độ nào, với mục đích sử dụng gì, chất lượng sản phẩm bao giờ cũng bị chi phối, rằng buộc bởi hoàn cảnh, điều kiện nhu cầu nhất định của nền kinh tế, được thể hiện ở những mặt sau:
+ Nhu cầu của thị trường: là xuất phát điểm của quá trình quản lý chất lượng. Trước khi tiến hành thiết kế, sản xuất sản phẩm, cần phải tiến hành nghiêm túc, thận trọng công tác điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường, phân tích môi trường kinh tế - xã hội, nắm bắt chính xác các yêu cầu chất lượng cụ thể của khách hàng cũng như những thói quen tiêu dung, phong tục tập quán, văn hóa lối sống, khả năng thanh toán của khách hàng …để có đối sách đúng đắn.
+ Trình độ kinh tế, trình độ sản xuất: đảm bảo chất lượng luôn là vấn đề nội tại của bản thân nền sản xuất xã hội nhưng việc nâng cao chất lượng không thể vượt ra ngoài khả năng cho phép của nền kinh tế.
+ Chính sách kinh tế: hướng đầu tư, hướng phát triển loại sản phẩm nào đó cũng như mức thỏa mãn các loại nhu cầu được thể hiện trong các chính sách kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm.
- Sự phát triển của khoa học - kỹ thuật:
Trong thời đại ngày nay, trình độ chất lượng của bất cứ sản phẩm nào cũng gắn liền và bị chi phối bởi sự phát triển của khoa học – kỹ thuật, đặc biệt là sự ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Hướng chính của việc áp dụng các kỹ thuật tiến bộ hiện nay là:
+ Sáng tạo ra vật liệu mới hay vật liệu thay thế.
+ Cải tiến hay đổi mới công nghệ.
+ Cải tiến sản cũ và chế thử sản phẩm mới.
- Hiệu lực của cơ chế quản lý:
Có thể nói rằng khả năng cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm của mỗi tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào cơ chế quản lý của mỗi nước.
Hiệu lực quản lý nhà nước là đòn bẩy quan trọng trong việc quản lý chất lượng sản phẩm, đảm bảo cho sự phát triển ổn định của sản xuất, đảm bảo uy tín và quyền lợi của nhà sản xuất và người tiêu dung.
Mặt khác, nó còn góp phần tạo tính tự chủ, độc lập, sáng tạo trong cải tiến chất lượng sản phẩm của các tổ chức, hình thành môi trường thuận lợi cho việc huy động các nguồn lực, các công nghệ mới, tiếp thu ứng dụng những phương pháp quản lý chất lượng hiện đại.
* Nhóm yếu tố bên trong tổ chức.
Trong phạm vi một tổ chức thì có 4 yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm ( được biệu thị bằng quy tắc 4 M), đó là:
- Men (con người): lực lượng lao động trong tổ chức (bao gồm tất cả thành viên trong tổ chức, từ cán bộ lãnh đạo đến nhân viên thừa hành). Năng lực, phẩm chất của mỗi thành viên và mối liên kết giữa các thành viên có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng.
- Methods (phương pháp): phương pháp công nghệ, trình độ tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất của tổ chức. Với phương pháp công nghệ thích hợp, với trình độ quản lý và tổ chức sản xuất tốt sẽ tạo điều kiện cho tổ chức có thể khai thác tốt nhất các nguồn lực hiện có, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Machines (máy móc thiết bị): khả năng về công nghệ, máy móc thiết bị của tổ chức. Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị có tác động rất lớn trong việc nâng cao những tính năng kỹ thuật của sản phẩm và nâng cao năng suất lao động.
- Materials (nguyên vật liệu): vật tư, nguyên nhiên liệu và hệ thống tổ chức đảm bảo vật tư, nguyên nhiên liệu của tổ chức. Nguồn vật tư, nguyên nhiên liệu được đảm bảo những yêu cầu chất lượng và được cung cấp đúng số lượng, đúng thời hạn sẽ tạo điều kiện đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm.[1]
1.1.2. Quản lý chất lượng.
1.1.2.1. Khái niệm về quản lý chất lượng.
Quản lý chất lượng là một khái niệm rộng xét từ khái niệm “quản lý” và “chất lượng”. Theo định nghĩa của Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế (ISO) nêu trong Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000:2000:
- Chất lượng là mức độ đáp ứng yêu cầu của một tập hợp các đặc tính vốn có.
- Quản lý chất lượng được hiểu là các hoạt động nhằm điều chỉnh và kiểm soát một cơ quan, tổ chức về (vấn đề) chất lượng.
Theo các định nghĩa này ta có thể thấy phạm vi quản lý là rất rộng. Tuy nhiên, đứng ở phạm vi quốc gia quản lý chất lượng được thực hiện chủ yếu ở hai cấp độ chính là Nhà nước và Doanh nghiệp. Xét về đối tượng, đối tượng của quản lý chất lượng chính là các sản phẩm của tổ chức, trong đó bao gồm hàng hóa, dịch vụ hoặc quá trình.[2]
1.1.2.2. Sự ra đời của quản lý chất lượng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Ta sẽ chỉ xét quản lý chất lượng ở cấp doanh nghiệp. Hoạt động quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp hay nói rộng hơn là của các tổ chức không phải là nhà nước hết sức đa dạng do tính chất hoạt động của các tổ chức này.
Theo Bộ Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000 được thông qua lần đầu tiên vào năm 1987 (ISO 9000:1987), đến năm 2000 bộ tiêu chuẩn này đã được sửa đổi bổ xung lần thứ ba với ký hiệu ISO 9000:2000. Đây là sự thay đổi về chất đối với bộ tiêu chuẩn này, đó chính là sự thay đổi khái niệm “đảm bảo chất lượng” bằng “quản lý chất lượng”. Khái niệm “quản lý chất lượng” không chỉ dành cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hóa và dịch vụ, mà còn cho tất cả các tổ chức khác như tổ chức sự nghiệp: Nhà trường, bệnh viện, viện nghiên cứu…và cả các cơ quan hành chính nhà nước, các tổ chức chính trị. Nghĩa là có thể áp dụng cho tất cả những tổ chức nào muốn nâng cao hiệu quả hoạt động của mình nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu ngày càng tăng của khách hàng khi sử dụng sản phẩm của mình. Khái niệm sản phẩm ở đây theo đó cũng hết sức rộng: ‘nó là kết quả của một quá trình hoạt động của con người’. Đây cũng là hệ quả tất yếu của quá trình quản lý chất lượng của thế giới trước tác động của quá trình toàn cầu hóa nói chung và tự do hóa thương mại nói riêng đang ngày càng sâu rộng. Các phương pháp quản lý chất lượng gồm:
- Kiểm tra chất lượng (Quality Inspection) với mục tiêu để sàng lọc các sản phẩm không phù hợp, không đáp ứng yêu cầu, có chất lượng kém ra khỏi các sản phẩm phù hợp, đáp ứng yêu cầu, có chất lượng tốt. Mục đích là chỉ có sản phẩm đảm bảo yêu cầu đến tay khách hàng.
- Kiểm soát chất lượng (Quality Control – QC) với mục tiêu ngăn ngừa việc tạo ra, sản xuất ra các sản phẩm khuyết tật. Để làm được điều này, phải kiểm soát các yếu tố như con người, phương pháp sản xuất, tạo ra sản phẩm (như dây truyền công nghệ), các đầu vào (như nguyên, nhiên vật liệu…), công cụ sản xuất (như trang thiết bị công nghệ) và yếu tố môi trường (như địa điểm sản xuất).
- Kiểm soát chất lượng toàn diện (Total Quality Control – TQC) với mục tiêu kiểm soát tất cả các quá trình tác động đến chất lượng kể cả các quá trình xảy ra trước và sau quá trình sản xuất sản phẩm, như khảo sát thị trường, nghiên cứu, lập kế hoạch, phát triển, thiết kế và mua hàng; và lưu kho, vận chuyển, phân phối, bán hàng và dịch vụ sau khi bán hàng.
- Quản lý chất lượng toàn diện (Total Quality Management – TQM) với mục tiêu của TQM là cải tiến chất lượng sản phẩm và thỏa mãn khách hàng ở mức tốt nhất có thể. Phương pháp này cung cấp một hệ thống toàn diện cho hoạt động quản lý và cải tiến mọi khía cạnh có liên quan đến chất lượng và huy động sự tham gia của tất cả các cấp, của mọi người nhằm đạt được mục tiêu chất lượng đã đặt ra.
Sự liệt kê các phương pháp quản lý chất lượng nêu trên cũng phản ảnh sự phát triển của hoạt động quản lý chất lượng trên phạm vi thế giới diễn ra trong hàng thế kỷ qua, thông qua sự thay đổi tư duy của các nhà quản lý chất lượng trong tiến trình phát triển kinh tế, thương mại, khoa học và công nghệ của thế giới.
Ngoài các bộ tiêu chuẩn của ISO về hệ thống quản lý chất lượng (ISO 9001), nhiều các hệ thống khác cũng đang được các doanh nghiệp Việt Nam xem xét áp dụng, như ISO 14001 – hệ thống quản lý môi trường, HACCP – Hệ thống Phân tích các nguy cơ và Kiểm soát các điểm trọng yếu trong lĩnh vực nông sản thực phẩm, GMP – Quy chế thực hành sản xuất tốt trong lĩnh vực dược và thực phẩm, OHSAS 18001 – Hệ thống quản lý an toàn và sức khỏe nghề nghiệp, SA 8000 Hệ thống trách nhiệm xã hội và các hệ thống quản lý chất lượng tích hợp hoặc đặc thù như ISO 22000 Hệ thống quản lý an toàn thực phẩm (food chain), ISO/TS 29001 Công nghiệp dầu khí và hóa dầu – Hệ thống quản lý chất lượng trong các ngành công nghiệp đặc thù- yêu cầu đối với các tổ chức cung cấp sản phẩm và dịch vụ.
Ngoài các doanh nghiệp, việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức sự nghiệp và các cơ quan hành chính nhà nước cũng được quan tâm. Điều này chứng tỏ quản lý chất lượng ngày càng trở nên quan trọng và được áp dụng sâu rộng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.
1.1.2.3. Các nguyên tắc quản lý chất lượng
Nguyên tắc 1: Định hướng bởi khách hàng.
Doanh nghiệp phụ thuộc vào khách hàng của mình và vì thế cần hiểu những nhu cầu hiện tại và tương lai của khách hàng để không chỉ đáp ứng mà còn vượt cao hơn sự mong đợi của họ.
Nguyên tắc 2: Sự lãnh đạo.
Lãnh đạo thiết lập sự thống nhất đồng bộ giữa mục đích và đường lối của doanh nghiệp. Lãnh đạo cần tạo ra và duy trì môi trường nội bộ trong doanh nghiệp để hoàn toàn lôi cuốn mọi người trong việc đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp.
Nguyên tắc 3: Sự tham gia của mọi người.
Con người là nguồn lực quan trọng nhất của một doanh nghiệp và sự tham gia đầy đủ với những hiểu biết và kinh nghiệm của họ rất có ích cho doanh nghiệp.
Nguyên tắc 4: Quan điểm quá trình.
Kết quả mong muốn sẽ đạt được một cách hiệu quả khi các nguồn và các hoạt động có liên quan được quản lý như một quá trình.
Nguyên tắc 5: Tính hệ thống.
Việc xác định, hiểu biết và quản lý một hệ thống các quá trình có liên quan lẫn nhau đối với mục tiêu đề ra sẽ đem lại hiệu quả của doanh nghiệp.
Nguyên tắc 6: Cải tiến liên tục.
Cải tiến liên tục là mục tiêu, đồng thời cũng là phương pháp của mọi doanh nghiệp. Muốn có khả năng cạnh tranh và mức độ chất lượng cao nhất, doanh nghiệp phải liên tục cải tiến.
Nguyên tắc 7: Quyết định dựa trên sự kiện.
Mọi quyết định và hành động của hệ thống quản lý hoạt động kinh doanh muốn có hiệu quả phải được xây dựng dựa trên việc phân tích dữ liệu và thông tin.
Nguyên tắc 8: Quan hệ hợp tác cùng có lợi với người cung ứng.
Doanh ngiệp và người cung ứng phụ thuộc lẫn nhau và mối quan hệ tương hỗ cùng có lợi sẽ nâng cao năng lực của cả hai bên để tạo ra giá trị.
1.2. QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG CÔNG TRÌNH.
1.2.1. Khái niệm quản lý chất lượng công trình.
Thông thường, xét từ góc độ bản thân sản phẩm xây dựng và người thụ hưởng sản phẩm xây dựng:
Chất lượng công trình được đánh giá bởi các đặc tính cơ bản như: công năng, độ tiện dụng; tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật; độ bền vững, tin cậy; tính thẩm mỹ; an toàn trong khai thác, sử dụng, tính kinh tế; và đảm bảo về tính thời gian (thời gian phục vụ của công trình).
Rộng hơn, chất lượng công trình xây dựng còn có thể và cần được hiểu không chỉ từ góc độ của bản thân sản phẩm và người hưởng thụ sản phẩm xây dựng mà còn cả trong quá trình hình thành sản phẩm xây dựng đó với các vấn đề liên quan khác. Một số vấn đề cơ bản trong đó là:
- Chất lượng công trình xây dựng cần được quan tâm ngay từ trong khi hình thành ý tưởng về xây dựng công trình, từ khâu quy hoạch, lập dự án, đến khảo