Trong những năm gần đây, với sự phát triển của nền kinh tế, ngành tài chính – ngân hàng là một trong những ngành có bước phát triển mạnh mẽ nhất. Đặc biệt là khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO thì lĩnh vực ngân hàng lại càng trở nên nóng hơn bao giờ hết. Cùng với sức ép từ sự gia nhập của các tổ chức tín dụng nước ngoài vòa thị trường, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại trong nước cũng ngày càng trở nên gay gắt hơn. Điều đó đòi hỏi mỗi ngân hàng phải có những thay đổi phù hợp, tự hoàn thiện mình.
Ngân hàng thương mại là một trong những trung gian tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, đóng vai trò đặc biệt thức đẩy nển kinh tế phát triển. Là nơi tham gia tích cực vào hoạt động kinh doanh mặt hàng đặc biệt đó là tiền tệ. Đó là việc ngân hàng thương mại tích cực huy động vốn nhàn rỗi từ nền kinh tế để cho vay phát triển sản xuất và tiêu dùng.
Mục đích chính của ngân hàng là an toàn gắn liền với tăng trưởng. Nhưng để có thể hoạt động một cách an toàn thì bất kỳ một ngân hàng nào cũng cần phải có các biện pháp hạn chế rủi ro đem lại an toàn cao cho hoạt động của mình. Vấn đề đặt ra ở đây là làm sao hạn chế được rủi ro cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng trong điều kiện để tiến tới công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thì việc gia tăng số lượng các dự án đầu tư là điều tất yếu. Muốn vậy thì những dự án này phải đảm bảo chất lượng, tức là phải làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, trong đó có việc lập, thẩm định và phê duyệt dự án. Chính vì vậy, vai trò to lớn của công tác thẩm định tín dụng dự án đầu tư, đặc biệt là thẩm định tài chính dự án đầu tư là không thể phủ nhận được.
Hơn nữa, một yêu cầu có tính nguyên tắc đối với Ngân hàng trong hoạt động đầu tư tín dụng là phải xem xét, lựa chọn những dự án đầu tư thực sự có hiệu quả vừa mang lại lợi ích cho nền kinh tế, vừa phải đảm bảo lợi nhuận Ngân hàng, đồng thời hạn chế thấp nhất rủi ro và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Công tác thẩm định dự án đầu tư là công cụ đắc lực giúp các Ngân hàng thực hiện yêu cầu này.
Với ý nghĩa đó việc thẩm định dự án đầu tư góp phần cực kỳ quan trọng đối với sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác thẩm định tài chính dự án, trong quá trình thực tập tại Sở giao dịch I BIDV em đã tiến hành nghiên cứu và đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án. Những nghiên cứu đó được trình bày trong chuyên đề: “Nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam”
Đề tài được nghiên cứu hoàn thiện ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo gồm có các nội dung sau:
Chương I: Những lý luận cơ bản về chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư của Ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
80 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1855 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch I ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, với sự phát triển của nền kinh tế, ngành tài chính – ngân hàng là một trong những ngành có bước phát triển mạnh mẽ nhất. Đặc biệt là khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO thì lĩnh vực ngân hàng lại càng trở nên nóng hơn bao giờ hết. Cùng với sức ép từ sự gia nhập của các tổ chức tín dụng nước ngoài vòa thị trường, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại trong nước cũng ngày càng trở nên gay gắt hơn. Điều đó đòi hỏi mỗi ngân hàng phải có những thay đổi phù hợp, tự hoàn thiện mình.
Ngân hàng thương mại là một trong những trung gian tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, đóng vai trò đặc biệt thức đẩy nển kinh tế phát triển. Là nơi tham gia tích cực vào hoạt động kinh doanh mặt hàng đặc biệt đó là tiền tệ. Đó là việc ngân hàng thương mại tích cực huy động vốn nhàn rỗi từ nền kinh tế để cho vay phát triển sản xuất và tiêu dùng.
Mục đích chính của ngân hàng là an toàn gắn liền với tăng trưởng. Nhưng để có thể hoạt động một cách an toàn thì bất kỳ một ngân hàng nào cũng cần phải có các biện pháp hạn chế rủi ro đem lại an toàn cao cho hoạt động của mình. Vấn đề đặt ra ở đây là làm sao hạn chế được rủi ro cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng trong điều kiện để tiến tới công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thì việc gia tăng số lượng các dự án đầu tư là điều tất yếu. Muốn vậy thì những dự án này phải đảm bảo chất lượng, tức là phải làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, trong đó có việc lập, thẩm định và phê duyệt dự án. Chính vì vậy, vai trò to lớn của công tác thẩm định tín dụng dự án đầu tư, đặc biệt là thẩm định tài chính dự án đầu tư là không thể phủ nhận được.
Hơn nữa, một yêu cầu có tính nguyên tắc đối với Ngân hàng trong hoạt động đầu tư tín dụng là phải xem xét, lựa chọn những dự án đầu tư thực sự có hiệu quả vừa mang lại lợi ích cho nền kinh tế, vừa phải đảm bảo lợi nhuận Ngân hàng, đồng thời hạn chế thấp nhất rủi ro và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Công tác thẩm định dự án đầu tư là công cụ đắc lực giúp các Ngân hàng thực hiện yêu cầu này.
Với ý nghĩa đó việc thẩm định dự án đầu tư góp phần cực kỳ quan trọng đối với sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác thẩm định tài chính dự án, trong quá trình thực tập tại Sở giao dịch I BIDV em đã tiến hành nghiên cứu và đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án. Những nghiên cứu đó được trình bày trong chuyên đề: “Nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam”
Đề tài được nghiên cứu hoàn thiện ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo gồm có các nội dung sau:
Chương I: Những lý luận cơ bản về chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư của Ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
Do giới hạn về trình độ, kinh nghiệm và thời gian tìm hiểu thực tế, khóa luận của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến và chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo và các anh, chị cán bộ tại Sở giao dịch I để bài viết thêm hoàn thiện.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo: TS. Lê Hương Lan và các anh chị trong Phòng Quan hệ khách hàng 1 ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam đã giúp em hoàn thành bài viết này.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1. Ngân hàng thương mại và các hoạt động cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá: Các ngân hàng thương mại xuất hiện trong nền kinh tế với tư cách là các nhà tổ chức trung gian, nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế có dư thừa và trên cơ sở đó cấp tín dụng cho các đơn vị kinh tế có nhu cầu tức là luân chuyển vốn một cách gián tiếp. Hệ thống ngân hàng thương mại có phạm vi hoạt động rộng rãi vì nó cung cấp các dịch vụ tài chính cho tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế và các tầng lớp dân cư. Tuỳ theo cách tiếp cận mà có các quan điểm khác nhau về ngân hàng thương mại, điều đó còn phụ thuộc vào tính chất và mục tiêu của nó trên thị trường tài chính của từng nước.
( Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại.
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp: Một doanh nghiệp đặc biệt – hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng.
( Theo quan điểm của các nhà kinh tế Hoa Kỳ.
Ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
( Theo quan điểm của các nhà kinh tế Pháp.
Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận được của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
( Theo quan điểm của các nhà kinh tế Việt Nam.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, trên nguyên tắc hoàn trả, tiến hành cho vay, chiết khấu và làm các phương tiện thanh toán.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về ngân hàng thương mại, nhưng tựu chung lại có thể hiểu tổng quát: Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chính là huy động tiền gửi dưới các hình thức khác nhau của khách hàng, trên cơ sở nguồn vốn huy động này và vốn chủ sở hữu của ngân hàng để thực hiện các nghiệp vụ cho vay, đầu tư, chiết khấu đồng thời thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, môi giới, tư vấn và một số dịch vụ khác cho các chủ thể trong nền kinh tế.
Theo Pháp lệnh ngân hàng ngày 23/05/1990 của hội đồng Nhà nước Việt Nam thì ngân hàng được định nghĩa: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
1.1.1.2. Các hoạt động của ngân hàng thương mại
( Các hoạt động truyền thống của ngân hàng
- Thực hiện trao đổi ngoại tệ: Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ - một nhà ngân hàng đứng ra mua bán một loại ngoại tệ này, chẳng hạn USD lấy một loại tiền khác như EUR và hưởng phí dịch vụ. Sự trao đổi đó rất quan trọng đối với khách du lịch vì họ sẽ cảm thấy thuận tiện và thoải mái hơn khi có trong tay đồng bản tệ của quốc gia mà họ đến. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thực hiện vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
- Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại: Ngay từ thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân địa phương, những người bán các khoản nợ của các khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ hoặc xây dựng văn phòng và thiết bị sản xuất.
- Nhận tiền gửi: Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong những nguồn vốn quan trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm của khách hàng – một quỹ sinh lợi được gửi tại ngân hàng trong khoảng thời gian nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều năm, đôi khi được hưởng mức lãi suất tương đối cao.
- Bảo quản vật có giá: Ngay từ thời trung cổ, các ngân hàng đã bắt đầu thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Một điều hấp dẫn là các giấy chứng nhận do ngân hàng lý phát cho khách hàng có thể được lưu hành như tiền - đó là hình thức đầu tiên của séc, thẻ tín dụng. Ngày nay, nghiệp vụ bảo quản vật có giá cho khách hàng thường do phòng “Bảo quản” thực hiện.
- Tài trợ các hoạt động của chính phủ; trong thời kỳ trung cổ và những năm đầu của cách mạng công nghiệp, khả năng huy động và cho vay khối lượng lớn của ngân hàng đã thành trọng tâm chú ý của các chính phủ Âu-Mỹ. Thông thường, ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải mua trái phiếu chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được.
- Cung cấp các tài khoản giao dịch: Cuộc cách mạng công nghiệp ở Châu Âu và Châu Mỹ đã đánh dấu sự ra đời những hoạt động và dịch vụ ngân hàng mới. Một dịch vụ mới quan trong nhất được triển khai trogn thời kỳ này là tài khoản tiền gửi giao dịch – một tài khoản cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng bởi vì nó cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các giao dịch kinh doanh trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và an toàn hơn.
- Cung cấp dịch vụ ủy thác: Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã thực hiện quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp thương mại. Theo đó, ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài sản hay quy mô vốn mà họ quản lý. Chức năng quản lý tài sản này được gọi là dịch vụ ủy thác. Hầu hết các ngân hàng đều cung cấp cả hai loại: dịch vụ ủy thác thông thường cho cá nhân, hộ gia đình và ủy thác thương mại cho các doanh nghiệp.
Thông qua ủy thác cá nhân, các khách hàng có thể tiết kiệm các khoản tiền để cho con đi học. Ngân hàng sẽ quản lý và đầu tư khoản tiền đó cho đến khi khách hàng cần. Thậm chí phổ biến hơn, các ngân hàng đóng vai trò là người được ủy thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản thừa kế. Trong phòng Ủy thác thương mại, ngân hàng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và ké hoạch tiền lương cho các công ty kinh doanh. Ngân hàng đóng vai trò như những người đại lý cho công ty trong các hoạt động phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Điều này đòi hỏi phòng Ủy thác phải trả lãi hoặc cổ tức cho chứng khoán của công ty, thu hồi lại các chứng khoán đến hạn bằng cách thanh toán toàn bộ cho những người nắm giữ chứng khoán.
( Các dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây
- Cho vay tiêu dùng: Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay với các cá nhân, hộ gia đình vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói chung có quy mô rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Đầu thế kỷ này, các ngân hàng bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi của khách hàng để tài trợ cho những món vay thương mại lớn. Và rồi, sự cạnh tranh khốc liệt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như một khách hàng trung thành tiềm năng. Cho tới những năm 1920 và 1930, nhiều ngân hàng lớn do Citicorp và Bank of America dẫn đầu đã thành lập những phòng tín dụng tiêu dùng lớn mạnh. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng có mức tăng trưởng nhanh nhất. Mặc dù vậy, tốc độ tăng trưởng gần đây đã chậm lại do cạnh tranh về tín dụng tiêu dùng ngày càng trở nên gay gắt trong khi đó nền kinh tế đã phát triển chậm lại. Tuy nhiên, người tiêu dùng vẫn tiếp tục là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng và tạo ra một trong số những nguồn thu quan trọng nhất.
- Tư vấn tài chính: Các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực hiện hoạt động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày nay cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư vấn về các cơ hội thị trường trong nước và ngoài nước cho các khách hàng kinh doanh của họ.
- Quản lý tiền mặt: Qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng, một số dịch vụ mà họ làm cho bản thân mình cũng có lợi ích với các khách hàng. Một trong những ví dụ nổi bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Trong khi các ngân hàng có xu hướng chuyên môn hóa vào dịch vụ quản lý tiền mặt cho các tổ chức, hiện nay có một xu hướng đang gia tăng về cung cấp các dịch vụ tương tự cho người tiêu dùng. Sở dĩ khuynh hướng này đang gia lan rộng là do các công ty môi giới chứng khoán, các tập đoàn tài chính khác cung cấp cho người tiêu dùng tài khoản môi giới với hàng loạt dịch vụ tài chính có liên quan.
- Dịch vụ thuê mua thiết bị: Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh lựa chọn mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Ban đầu các qui định yêu cầu khách hàng sử dụng dịch vụ thuê mua thiết bị phải trả tiền thuê đồng thời phải chịu chi phí sửa chữa và thuế. Năm 1987, quốc hội Mỹ đã bỏ phiếu cho phép ngân hàng quốc gia sở hữu ít nhất một số tài sản cho thuê khi hợp đồng thuê mua đã hêt hạn. Điều đó có lợi cho các ngân hàng cũng như khách hàng bởi vì với tư cách là người chủ thực sự của tài sản cho thuê, ngân hàng có thể khấu hao cúng nhằm làm tăng lợi ích về thuế.
- Cho vay tài trợ dự án: Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho chi phí xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong ngành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao nên chúng thường được thực hiện qua một công ty đầu tư, là thành viên cảu công ty sở hữu ngân hàng, cùng với sự tham gia của các nhà đầu tư khác để chia sẻ rủi ro.
- Bán các dịch vụ bảo hiểm: Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bảo hiểm tín dụng cho khách hàng, điều đó đảm bảo việc trả trong trường hợp khách hàng vay vốn bị chết hay tàn phế. Hiện nay, ngân thường bảo hiểm cho khách hàng thông qua các liên doanh hoặc các thỏa thuận đại lý kinh doanh độc quyền theo đó một công ty bảo hiểm đồng ý đặt một văn phòng đại lý tại hành lang của ngân hàng và ngân hàng sẽ nhận một phần thu nhập từ dịch vụ ở đó.
- Cung cấp các kế hoạch hưu trí: Phòng Ủy thác của ngân hàng rất năng động trong việc quản lý kê hoạch hưu trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao động, đầu tư vốn và phát lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn phế. Ngân hàng cũng bán kế hoạch tiền gửi hưu trí cho các nhân và giữ nguồn tiền gửi cho đến khi người sở hữu các kê hoạch này cần đến.
- Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Trên thị trường tài chính hiện nay nhiều ngân hàng đang phấn đấu trở thành bách hóa tài chính thực sự, cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính cho phép thỏa mãn mọi nhu cầu tại một địa điểm. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hộ mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán.
- Cung cấp dịch vụ tương hỗ và trợ cấp: Do ngân hàng cung cấp các tài khoản tiền gửi truyền thống với lãi suất quá thấp, nhiều khách hàng đã hướng về sử dụng cái gọi là sản phẩm đầu tư đặc biệt là các khoản của quỹ tương hỗ và hợp đồng trợ cấp, những loại hình cung cấp triển vọng thu nhập cao hơn tài khoản tiền gửi nhưng cũng nhiều rủi ro hơn. Hợp đồng trợ cấp bao gồm các kế hoạch tiết kiệm dài hạn cam kết thanh toán một khoản tiền mặt hàng năm cho khách hàng bắt đầu từ một ngày nhất định trong tương lai (có thể ngày nghỉ hưu). Ngược lại quỹ tương hỗ bao gồm các chương trình đầu tư được quản lý một cách chuyên nghiệp nhằm vào việc mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phù hợp với mục tiêu của quỹ.
- Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn: Ngân hàng ngày nay theo chân các tổ chức tài chính hàng đầu trong việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn cho các tập đoàn lớn. Những dịch vụ này bao gồm xác định mục tiêu hợp nhất, tài trợ mua lại công ty, mua bán chứng khoán cho khách hàng, cung cấp dịch vụ marketing chiến lược, các dịch vụ hạn chế rủi ro để bảo vệ khách hàng. Các ngân hàng cũng dấn sau vào thị trường đảm, hỗ trợ các khoản nợ do chính phủ và công ty phát hành để những khách hàng này có thể vay vốn với chi phí thấp nhất từ thị trường tự do hay các tổ chức cho vay khác.
1.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại
Trong khi nhiều người tin rằng các ngân hàng chỉ đóng một vai trò rất nhỏ trong nền kinh tế là nhận tiền gửi và cho vay. Song trên thực tế, ngân hàng hiện đã phải thực hiện nhiều vai trò mới có thể duy trì khả năng cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu của xã hội. Các ngân hàng ngày nay có các vai trò cơ bản sau:
( Vai trò trung gian: Chuyển các khoản tiết kiệm, chủ yếu từ hộ gia đình thành các khoản tín dụng cho các tổ chức kinh doanh và các thành phần khác để đầu tư vào nhà cửa, thiết bị và các tài sản khác.
Như chúng ta đã biết, ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính tương tự như các quỹ tương hỗ, các công ty bảo hiểm, các tổ chức kinh doanh dịch vụ tài chính khác. Thuật ngữ trung gian tài chính đơn giảm là một khái niệm dùng để chỉ những công việc kinh doanh đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: (1) Các cá nhân, tổ chức thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt qua thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn từ bên ngoài thông qua việc vay mượn. (2) Các cá nhân, tổ chức thặng dư trong chi tiêu tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Các ngân hàng thực hiện nhiệm vụ không thê thiếu là làm trugn gian giữa hai nhóm nêu trên, cung cấp những dịch vụ tài chính thuận lợi cho nhóm “thặng dư” để thu hút vốn và cho vay số vốn đó đối với nhóm “thâm hụt”.
Hoạt động trung gian của các ngân hàng sẽ diễn ra: (1) Nếu có một mức chênh lệch dương giữa thu nhập dự tính từ các khoản tín dụng đối với nhóm “thâm hụt” và lãi suất dự tính trên các khoản vay từ nhóm “thặng dư”. (2) Nếu có một tương quan dương giữa thu nhập trên khoản tín dụng và lãi suất phải trả cho các khoản tiền gửi và các nguồn vốn vay khác từ nhóm “thặng dư”. Nếu quan hệ giữa lãi suất cho vay và chi phí đi vay là tương quan dương thì nó sẽ giảm tính bất trắc của lợi nhuận dự tính, khuyến khích ngân hàng huy động vốn để tiếp tục cho vay.
( Vai trò thanh toán: Thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ (bằng cách phát hành sec, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và phân phối tiền mặt).
Ở đây ngân hàng thương mại đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khác thu khác theo lệnh của họ.
Việc ngân hàng thương mại thực hiện chức năng thanh toán có ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Với chức năng này, các ngân hàng thương mại cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng,…Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này mô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tố độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế. Đồng thời việc thanh toán không dùn