Trong giai đoạn hội nhập với khu vực và thế giới về kinh tế, văn hóa xã hội, ngành ngân hàng nói chung và các NHTM nói riêng có một vai trò và vị trí quan trọng, góp phần đưa nên kinh tế phát triển. Là một tổ chức tài chính, ngân hàng cung cấp một danh mục tài chính các dịch vụ tài chính đa dạng nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Trải qua các thời kỳ phát triển các dịch vụ của ngân hàng trở nên ngày càng phong phú và đa dạng đáp ứng các nhu cầu ngày càng nhiều của khách hàng, bên cạnh những dịch vụ truyền thống như tiền gửi, bảo quản tài sản, cho vay. xuất hiện thêm những dịch vụ hiện đại khác như cho thuê tài sản, bảo lãnh, bao thanh toán. Do đặc điểm tương đồng về sản phẩm của các ngân hàng, để cạnh tranh đòi hỏi ngân hàng phải nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Trong đó, bảo lãnh là một dịch vụ quan trọng, góp phần nâng cao uy tín, tăng thu nhập cho ngân hàng mà chỉ phải trả một chi phi thấp và mức độ an toàn cao hơn so với hoạt động cho vay. Bên cạnh đó, đầu tư xây dựng cơ bản vốn được coi là một lĩnh vực thế mạnh của SGD nói riêng và toàn bộ ngân hàng ĐT& PTViệt Nam nói chung. Đây cũng là một lĩnh vực có nhiều cơ hội phát triển trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Quá trình tìm hiểu kỹ các hoạt động kinh doanh trong khi thực tập tại SGD ngân hàng ĐT&PT Việt Nam, kết hợp với những lý luận đã được học tập tại trường đã giúp cho việc đưa ra kết luận về đề tài được lựa chọn, đó là: “Nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh đối với doanh nghiệp xây lắp của Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam”. Đề tài được giới hạn chỉ nghiên cứu những sản phẩm bảo lãnh chủ yếu được sử dụng cho các DNXL. Đề tài gồm ba phần:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản của hoạt động bảo lãnh đối với các doanh nghiệp xây lắp.
Chương 2: Thực trạng hoạt động bảo lãnh đối với các doanh nghiệp xây lắp của SGD Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh đối với doanh nghiệp xây lắp của SGD Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam.
86 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2060 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh đối với doanh nghiệp xây lắp của Sở giao dịch ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 3
DANH MỤC BẢNG BIỂU 4
LỜI MỞ ĐẦU 5
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP 7
1.1 DOANH NGHIỆP XÂY LẮP 7
1.1.1 Khái niệm và vai trò của DNXL 7
1.1.2 Đặc điểm của DNXL 8
1.2 BẢO LÃNH CỦA NHTM ĐỐI VỚI DNXL 14
1.2.1 Tổng quan về bảo lãnh của NHTM 14
1.2.2 Bảo lãnh của NHTM đối với DNXL 16
1.2.2.1 Sự cần thiết của hoạt động bảo lãnh đối với DNXL 16
1.2.2.2 Các loại hình bảo lãnh được áp dụng chủ yếu trong xây lắp 18
1.2.2.3 Quy trình bảo lãnh 20
1.3 CHẤT LƯỢNG BẢO LÃNH ĐỐI VỚI DNXLL 23
1.3.1 Bảo lãnh DNXL và rủi ro 23
1.3.2 Chất lượng bảo lãnh đối với DNXL 26
1.3.2.1 Quan điểm về chất lượng bảo lãnh 26
1.3.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng bảo lãnh của các DNXL 28
1.3.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng bảo lãnh của NHTM đối với các DNXL 34
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH ĐỐI VỚI DNXL CỦA SGD NGÂN HÀNG ĐT&PT VIỆT NAM 37
2.1 TỔNG QUAN VỀ SGD NGÂN HÀNG ĐT&PT VIỆT NAM 37
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển 37
2.1.2 Mô hình tổ chức và quản lý 39
2.1.3 Những nét chính trong hoạt động kinh doanh 40
2.2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH ĐỐI VỚI CÁC DNXL CỦA SGD 46
2.2.1 Cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo lãnh tại Việt Nam hiện nay 46
2.2.2 Quy trình bảo lãnh củai SGD đối với DNXL 48
2.2.3 Chính sách bảo lãnh và biểu phí của SGD hiện nay 51
2.2.4 Thực trạng hoạt động bảo lãnh của các NHTM đối với lĩnh vực xây lắp 53
2.3 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG BẢO LÃNH CÁC DNXL CỦA SGD 55
2.3.1 Phân tích các chỉ tiêu định lượng 55
2.3.2 Phân tích các chỉ tiêu định tính 61
2.3.3 Thực trạng chất lượng bảo lãnh đối với các DNXL tại SGD 62
2.3.3.1 Những kết quả đạt được 62
2.3.3.2 Hạn chế và nguyên nhân 64
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH ĐỐI VỚI DNXL TẠI SGD NGÂN HÀNG ĐT&PT VIỆT NAM 68
3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH ĐỐI VỚI DNXL CỦA SGD NGÂN HÀNG ĐT&PT VIỆT NAM 68
3.2 GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH ĐỐI VỚI DNXL TẠI SGD NGÂN HÀNG ĐT&PT VIỆT NAM 70
3.2.1 Xây dựng kế hoạch phát triển hoạt động bảo lãnh nói chung và bảo lãnh đối với DNXL linh hoạt 70
3.2.2 Xây dựng chính sách giá hợp lý 71
3.2.3 Nâng cao chất lượng đồng thời kết hợp với quá trình mở rộng hoạt động bảo lãnh xây lắp đặc biệt với các DNXL nước ngoài. 72
3.2.4 Tăng cường kiểm tra và giám sát trước và sau khi bảo lãnh 72
3.2.5 Tiếp nhận và xử lý TSBD cẩn trọng và linh hoạt 73
3.2.6 Phát triển hoạt động tái bảo lãnh trong lĩnh vực xây lắp 74
3.2.7 Nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng 74
3.2.8 Khai thác hiệu quả những ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ 75
3.3 KIẾN NGHỊ 76
3.3.1 Kiến nghị đối với Chính phủ và các cơ quan nhà nước 76
3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 77
3.3.3 Kiến nghị đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 78
KẾT LUẬN 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
Danh mục các chữ viết tắt
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHNN: NGân hàng Nhà nước
TCTD: Tổ chức tín dụng
ĐT&PT: Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
BIDV: Tên viết tắt của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
SGD: Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
TSĐB: Tài sản đảm bảo
DNXL: Doanh nghiệp xây lắp
XDCB: Xây dựng cơ bản
BHXH: Bảo hiểm xã hội
Danh mục bảng biểu
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ quy trình bảo lãnh
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ tổ chức bộ máy của SGD
Bảng 2.1: Kết quả thực hiện kế hoạch kinh doanh từ năm 2002-2006
Bảng 2.2: Kết quả huy động vốn
Bảng 2.3: Cơ cấu nguồn vốn huy động
Bảng 2.4: Kết quả hoạt động tín dụng
Bảng 2.5: Biểu phí bảo lãnh của SDG
Bảng 2.6: Doanh số bảo lãnh cơ cấu theo sản phẩm bảo lãnh
Bảng 2.7: Doanh số bảo lãnh theo loại hình doanh nghiệp
Bảng 2.8: Thu dịch vụ năm 2005-2006
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu doanh số bảo lãnh theo hình thức bảo lãnh
LỜI MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn hội nhập với khu vực và thế giới về kinh tế, văn hóa xã hội, ngành ngân hàng nói chung và các NHTM nói riêng có một vai trò và vị trí quan trọng, góp phần đưa nên kinh tế phát triển. Là một tổ chức tài chính, ngân hàng cung cấp một danh mục tài chính các dịch vụ tài chính đa dạng nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Trải qua các thời kỳ phát triển các dịch vụ của ngân hàng trở nên ngày càng phong phú và đa dạng đáp ứng các nhu cầu ngày càng nhiều của khách hàng, bên cạnh những dịch vụ truyền thống như tiền gửi, bảo quản tài sản, cho vay... xuất hiện thêm những dịch vụ hiện đại khác như cho thuê tài sản, bảo lãnh, bao thanh toán... Do đặc điểm tương đồng về sản phẩm của các ngân hàng, để cạnh tranh đòi hỏi ngân hàng phải nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Trong đó, bảo lãnh là một dịch vụ quan trọng, góp phần nâng cao uy tín, tăng thu nhập cho ngân hàng mà chỉ phải trả một chi phi thấp và mức độ an toàn cao hơn so với hoạt động cho vay. Bên cạnh đó, đầu tư xây dựng cơ bản vốn được coi là một lĩnh vực thế mạnh của SGD nói riêng và toàn bộ ngân hàng ĐT& PTViệt Nam nói chung. Đây cũng là một lĩnh vực có nhiều cơ hội phát triển trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Quá trình tìm hiểu kỹ các hoạt động kinh doanh trong khi thực tập tại SGD ngân hàng ĐT&PT Việt Nam, kết hợp với những lý luận đã được học tập tại trường đã giúp cho việc đưa ra kết luận về đề tài được lựa chọn, đó là: “Nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh đối với doanh nghiệp xây lắp của Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam”. Đề tài được giới hạn chỉ nghiên cứu những sản phẩm bảo lãnh chủ yếu được sử dụng cho các DNXL. Đề tài gồm ba phần:
Những vấn đề cơ bản của hoạt động bảo lãnh đối với các doanh nghiệp xây lắp.
Thực trạng hoạt động bảo lãnh đối với các doanh nghiệp xây lắp của SGD Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam.
Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh đối với doanh nghiệp xây lắp của SGD Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam.
Do còn thiếu nhiều kinh nghiệm thực tế nên quá trình nghiên cứu sẽ không tránh khỏi những sai sót, mong thầy cô giáo góp ý và bổ sung cho bài viết hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
Doanh nghiệp xây lắp
Khái niệm và vai trò của DNXL
Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp là những doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật có đăng ký kinh doanh về xây lắp. Các công trình xây dựng được phân loại như sau: công trình dân dụng (nhà ở chung cư và riêng lẻ, công trình văn hóa, giáo dục, y tế...); công trình công nghiệp (công trình khai thác than quặng, dầu khí, hóa chất, công trình cơ khí chế tạo, công nghiệp năng lượng...); công trình giao thông (đường bộ, đường sắt, cầu phà, bến cảng, sân bay...); công trình thủy lợi (hồ chức nước, đập cống trạm bơm, ống dẫn nước...); công trình hạ tầng kỹ thuật (công trình nhà máy xử lý nước thải, bãi chứa chôn lấp rác, công trình chiếu sang đô thị...)
Sản xuất xây lắp là một ngành sản xuất mang tính công nghiệp tạo ra những sản phẩm là cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế. Vì vậy, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp có vai trò quyết định đối với việc thay đổi cơ cấu nền kinh tế quốc dân mỗi nước, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của đất nước. Khuyến khích sự hoạt động của các DNXL sẽ huy động được một lượng vốn đáng kể nằm trong dân cư, tạo điều kiện cho năng lực của con người được giải phòng và phát huy. DNXL còn thu hút một số lượng lao động đông đảo, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp đồng thời đóng góp một phần chủ yếu vào ngân sách nhà nước. Thêm vào đó, nhiệm vụ của xây lắp là xây dựng mới, mở rộng khôi phục và sửa chữa cơ sở hạ tầng của đất nước, hoạt động xây lắp lại nâng cao trình độ của công nhân và cập nhật những công nghệ sản xuất hiện đại trên thế giới, vì vậy nó góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở các nước đang phát triển .
Tuy nhiên, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp cũng phải đối mặt với những khó khăn vốn có đặc trưng của ngành xây lắp xuất phát từ tính đặc thù của sản phẩm xây lắp và quá trình sản xuất sản phẩm xây lắp. Những đặc điểm riêng của ngành và đặc điểm sản phẩm xây lắp sẽ chi phối công tác tổ chức quản lý, điều hành. Việc nghiên cứu nắm rõ các đặc điểm này, giúp ngân hàng đưa ra những quyết định chính xác, nắm rõ được những rủi ro và đề ra những phương án khắc phục rủi ro nhằm tiến hành cho vay, bảo lãnh có hiệu quả.
Đặc điểm của DNXL
Đặc điểm của sản xuất kinh doanh
Địa điểm sản xuất không cố định. Do đặc điểm của sản phẩm xây dựng là đơn chiếc, quy mô lớn, thời gian sử dụng dài... dẫn đến đặc điểm sản xuất của ngành xây dựng khác với các ngành sản xuất khác. Sản xuất nông nghiệp thì gắn liền với đồng ruộng, sản xuất công nghiệp thì gắn liền với nhà máy.... nhưng đối với xây lắp, mỗi công trình được tiến hành ở một địa điểm khác nhau. Sau khi hoàn thành công trình, con người và công cụ lao động đều phải chuyển đến địa điểm mới. Các phương án về xây dựng, về kỹ thuật và tổ chức sản xuất cũng luôn phải thay đổi theo từng địa điểm. Như vậy, sản phẩm và nơi tiêu thu sản phẩm là cố định; nơi sản xuất, địa điểm sản xuất thì luôn di động. Đặc điểm này làm cho sản xuất xây lắp hay bị gián đoạn (có thời gian chết), vì công nhân máy móc phải di chuyển địa điểm làm cho việc tổ chức sản xuất không ổn định, khó cải thiện cho người lao động. Từ đó làm nảy sinh nhiều chi phí khác cho khâu di chuyển lực lượng thi công và chi phí để xây dựng các công trình tạm phục vụ thi công.
Chu kỳ sản xuất (thời gian xây dựng công trình) thường lâu. Sản phẩm của xây dựng là công trình xây dựng hoàn chỉnh mang tính chất là tài sản cố định nên thời gian sản xuất ra chúng thường dài (theo tháng, theo năm). Thời gian xây lắp do bị chi phối bởi quy mô và mức độ phức tạp về kỹ thuật, công trình, dự án, và đối tượng sinh học của đối tượng dự án. Từ đặc điểm này làm cho công tác thanh toán vốn đầu tư gặp khó khăn. Nếu chờ xây xong công trình mới thanh toán sẽ làm cho các DNXL không có vốn hoạt động. Vì vậy phải có phương thức thanh toán vốn phù hợp nếu không sẽ làm cho các DNXL dễ gặp phải rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian như thời tiết, lãi suất, tỷ giá... Bên cạnh đó tiến độ hoàn thành công trình cũng là một vấn đề quan trọng. Nếu công trình hoàn thành đưa vào sử dụng không đúng tiến độ không những làm thiệt hại về kinh tế do vốn “chết” trong thời gian xây dựng mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các ngành có liên quan.
Sản xuất xây lắp mang tính đơn chiếc theo đơn đặt hàng. Sản phẩm của ngành khác thường được sản xuất hàng loạt theo một thiết kế thống nhất để bán, nhưng sản phẩm xây dựng thì mỗi sản phẩm đều phải có một thiết kế riêng, mỗi công trình riêng biệt đều có khối lượng theo đồ án thiết kế riêng đều phải đảm bảo thời gian hoàn thành, đều có yêu cầu riêng về công nghệ, về tiện nghi, về mỹ quan an toàn... ngay cả việc xây lắp theo thiết kế mẫu thì mỗi công trình đều phải được bổ sung thay đổi cho phù hợp với điều kiện, khí hậu, điệu kiện cung cấp nguyên vật liệu tại địa điểm xây lắp công trình cụ thể. Do vậy, sản phẩm xây lắp sản suất từng chiếc theo đơn đặt hàng thông qua hình thức ký kết hợp đồng sau khi thắng thầu, hoặc chỉ định thầu. Người mua và người bán được xác định trước khi có sản phẩm: đối tượng sản phẩm, giá cả, chất lượng sản phẩm, hình thức và kết cấu sản phẩm... Vì vậy rất khó khăn khi doanh nghiệp muốn chuyển đổi mục đích sử dụng của sản phẩm
Hoạt động xây lắp chủ yếu ngoài trời, chịu ảnh hưởng rất lớn của các yếu tố tự nhiên, điều kiện làm việc nặng nhọc. Điền kiện tự nhiên, thời tiết, khí hậu, mưa gió, bão lụt... đều ảnh hưởng đến quá trình xây lắp. Ảnh hưởng này thường làm gián đoạn quá trình thi công, năng lực của các doanh nghiệp không được điều hòa. Từ đó ảnh hưởng đến sản phẩm dở dang, đến vật tư thiết bị thi công... ảnh hưởng đến sức khỏe của người lao động. Đặc điểm này đòi hỏi các DNXL khi tiến hành xây lắp các dự án đầu tư phải lập tiến độ thi công hợp lý để tránh thời tiết xấu, giảm tổn thất do thời tiết gây ra, phải có các giải pháp an toàn lao động và chế độ chính sách thích hợp đối với người lao động, đồng thời tổ chức tốt hệ thống kho bãi bảo quản vật tư, sản phẩm dở dang...
Công tác tổ chức quá trình sản xuất xây lắp rất phức tạp. Quá trình thi công thường gồm nhiều đơn vị tham gia, nhiều thành phần kinh tế tham gia thực hiện phần việc của mình theo một trình tự nhất định về thời gian và không gian trên một mặt bằng thi công chật hẹp. Đặc điểm này đòi hỏi các DNXL phải có trình độ phối hợp cao trong sản xuất để đảm bảo tiến độ thi công và chất lượng công trình. Với đặc điểm này khi xảy ra sự cố do một đơn vị thi công gây ra làm ảnh hưởng tới chất lượng và thời gian hoàn thành công trình. Như vậy gây ra sự tranh cãi giữa các đơn vị tham gia về khoản bồi thường, vì theo nguyên tắc thì các đơn vị sẽ phải cùng bồi thường theo tỷ lệ. Vì vậy các đơn vị thường phải thỏa thuận trước những điều kiện, giới hạn trách nhiệm phòng khi có sự cố xảy ra. Cho dù như vậy thì việc tìm ra nguyên nhân của sự cố và quy kết trách nhiệm cũng vô cùng phức tạp.
Đặc điểm về sản phẩm xây lắp
Xuất phát từ những đặc thù riêng của ngành xây lắp, sản phẩm xây lắp cũng có đặc điểm riêng, khác với hàng hóa của các ngành sản xuất vật chất khác. Cụ thể:
Sản phẩm xây lắp có tính chất cố định, nơi sản xuất gắn liền với nơi tiêu thụ sản phẩm, phục thuộc trực tiếp vào điều kiện địa chất, thủy văn khí hậu. Chất lượng giá cả (chi phí xây lắp) sản phẩm chịu ảnh hưởng trực tiếp của các điều kiện tự nhiên. Do vậy để giảm thiểu lãng phí, thất thoát do nguyên nhân khách quan bởi các tác động trên đòi hỏi phải làm thật tốt công tác chuẩn bị đầu tư và chuẩn bị xây dựng đặc biệt là công tác điều tra khảo sát thăm dò các điều kiện tự nhiên. Dự án không đảm bảo đúng yêu cầu các quy phạm kỹ thuật, kết cấu phù hợp với các điều kiện tự nhiên, chất lượng công trình kém.
Sản phẩm xây lắp có quy mô lớn, kết cấu phức tạp. Sản phẩm xây lắp với tư cách là công trình lắp đã được hoàn thành và đưa vào sử dụng, đưa ra trao đổi mua bán trên thị trường bất động sản là tài sản cố định nên không thể là những sản phẩm bé nhỏ, sản xuất hàng loạt trong sản xuất công nghiệp. Thể tích của sản phẩm xây lắp có loại cao như tháp truyền hình, tháp nước, có loại ngầm dưới đất như đường hầm tàu điện ngầm, đường ống nước thải, ống dẫn khí, có loại lại nổi trên mặt đất như nhà ở, nhà xưởng. Ngay cả trong bản thân sản phẩm cũng có đầy đủ ba phần: phần ngầm, phần nổi, phần cao. Kết cấu của sản phẩm phức tạp, một công trình có thể gồm nhiều hạng mục công trình; một hạng mục có thể bao gồm nhiều đơn vị công trình; một công trình bao gồm nhiều kết cấu công trình. Các bộ phận công trình có yêu cầu kỹ thuật khác nhau. Từ đặc điểm này đòi hỏi: khối lượng vốn đầu tư lớn, vật tư lao động, máy thi công nhiều...
Với đặc điểm này dẫn đến chu kỳ sản xuất dài. Do đó vốn đầu tư bỏ vào dễ bị ứ đọng, gây lãng phí hoặc ngược lại nếu thiếu vốn dễ làm công tác thi công bị gián đoạn kéo dài thời gian xây lắp.
Sản phẩm xây lắp có thời gian sử dụng lâu dài, chất lượng của sản phảm có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động của các ngành khác. Sản phẩm của ngành sản xuất vật chất khác là vật phẩm tiêu dùng (dùng cho sản xuất hay dùng cho đời sống sinh hoạt của con người, của xã hội) có thời gian sử dụng rất ngắn như: nguyên vật liệu dùng vào sản xuất để sau đó nó biến đổi thành bán thành phẩm và thành phẩm. Sản phẩm xây lắp với tư cách là công trình xây lắp đã hoàn thành mang tính chất là một tài sản cố định nên có thời gian sử dụng rất dài và tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, sử dụng nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu cho tới khi thanh lý. Do đặc điểm thời gian sử dụng dài, tuổi thọ cao, nên sai lầm trong xây lắp sẽ gây tổn thất lớn cả về giá trị (chi phí xây lắp dự án) và chất lượng dự án, công trình, từ đó gây hậu quả trước mắt và lâu dài. Do đó, trong quá trình thực hiện phải giám sát chặt chẽ mọi chi phí phát sinh ở trong từng giai đoạn và giám sát chất lượng công trình nhằm đảm bảo việc sử dụng vốn đúng mục đích, và có hiệu quả.
Về phương tiện sử dụng sản phẩm xây lắp có liên quan đến nhiều ngành, vùng địa phương như các đường giao thông quốc lộ, tỉnh lộ, đường sắt, các cảng biển, cảng hàng không... Từ đó đòi hỏi phải chú ý cân nhắc ký về chủ chương đầu tư nhằm thực hiện dự án có hiệu quả tối ưu cả về mặt kinh tế và mặt xã hội.
Sản phẩm xây lắp mang tính tổng hợp về kỹ thuật kinh tế, xã hội, văn hóa, nghệ thuật và quốc phòng. Đặc điểm này có thể dẫn đến phát sinh các mâu thuẫn, mất cân đối trong quan hệ phối hợp đồng bộ giữa các khâu công tác từ quá trình chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị xây lắp cũng như quá trình thi công.
Sản phẩm xây lắp có tính chất đơn chiếc, riêng lẻ. Mỗi sản phẩm đều có thiết kế riêng theo yêu cầu của nhiệm vụ thiết kế. Mỗi công trình có yêu cầu riêng về công nghệ, qui phạm, về tiện nghi, mỹ quan và an toàn. Do đó khối lượng, chất lượng và chi phí của mỗi công trình khác nhau mặc dù về hình thức có thể giống nhau khi xây trên những địa điểm khác nhau. Đồng thời các công trình, hạng mục công trình đòi hỏi nhiều chủng loại nguyên vật liệu, sử dụng nhiều máy thi công gây khó khăn trong công tác tính toán chi phí xây lắp.
Tóm lại, nghiên cứu những đặc thù riêng của sản phẩm xây lắp và tổ chức sản xuất xây lắp có thể rút ra một số những đặc điểm chủ yếu sau. Thứ nhất, thời gian sản xuất lâu dài lại chịu ảnh hưởng của thời tiết khí hậu. Thứ hai, thời gian sử dụng sản phẩm lâu dài. Thứ ba, quy mô sản phẩm to lớn phức tạp, đòi hỏi quy mô vốn lớn, quy trình công nghệ cao. Thứ tư, sản phẩm thường bất động gắn liền với địa điểm sản xuất, trong khi địa điểm sản xuất lại không cố định. Với những đặc điểm này thường khiến các DNXL gặp rất nhiều rủi ro hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác như do thời gian xây dựng lâu dài, khối lượng vốn lớn thường xảy ra tính trạng ứ đọng vốn, hoặc phát sinh thêm những chi phí bất thường, hay hoàn thành công trình xong chưa được nhà đầu tư thanh toán ngay...Vì vậy, các DNXL khó tiếp cận nguồn tài trợ của ngân hàng, hoặc nếu có thì phải chịu những điều kiện rất khắt khe và thủ tục phức tạp. Ngoài ra, do đặc điểm của sản phẩm và sản xuất nên DNXL thường có tổng dư nợ tương đối lớn, và TSCĐ của doanh nghiệp lớn. Đây là điểm mà các cán bộ thực hiện cần chú ý khi thẩm định tài chính doanh nghiệp. Như vậy, khi đánh giá DNXL ngân hàng thường xem xét hai khía cạnh là năng lực tài chính và năng lực thi công của doanh nghiệp. Khả năng thực hiện công trình thể hiện ở chất lượng máy móc thi công, đội ngũ công nhân, kinh nghiệm của doanh nghiệp... Đánh giá về mặt tài chính sẽ rất phức tạp và khó chính xác, ngân hàng thưòng phải xem xét khả năng thực hiện công trình của DNXL coi đây là một yêu tố quan trọng đầu tiên để ra quyết định.
Đồng thời, các DNXL muốn được tham gia xây dựng một công trình đều phải thông qua hoạt động đấu thầu. Điều kiện của quy chế dự thầu là người dự thầu phải cung cấp bảo lãnh dự thầu. Khi trúng thầu, chủ đầu tư thường xuyên yêu cầu chủ thầu phải thực hiện bảo lãnh thực hiện hợp đồng nhằm đảm bảo hoàn thành công trình xây lắp đúng như các điều khoản trong hợp đồng cơ sở. Còn sau khi công trình hoàn thành và bàn giao đưa vào sử dụng, đến hạn thanh toán tiền cho nhà thầu, chủ đầu tư vẫn giữ lại một số tiền để buộc nhà thầu có trách nhiệm bảo hành sửa chữa khi có sự cố. Nếu muốn được thanh toán số tiền này, chủ thầu phải có một hợp đồng bảo lãnh của ngân hàng bảo đảm chất lượng công trình.... Bảo lãnh ngân hàng ra đời là một trong những hoạt động quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho DNXL mà có độ rủi ro thấp hơn so với cho vay.
Bảo lãnh của NHTM đối với DNXL
Tổng quan về bảo lãnh của NHTM
“Ngân hàng là một tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Nghiệp vụ kinh doanh truyền thống của NHTM là các nghiệp vụ nội bảng, nói cách khác với chức năng là trung gian tài