Chuyên đề Nâng cao chất lượng luận tội của kiểm sát viên, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp

Khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định rõ: “1. Sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội ” Với các quy định trên, chúng ta thấy, hoạt động luận tội của Kiểm sát viên (KSV) chỉ có trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm, hoạt động này là biểu hiện cụ thể việc thực hiện chức năng công tố của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Khi thực hành quyền công tố (THQCT) tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, việc luận tội của KSV vừa là nhiệm vụ vừa là quyền hạn. Điểm khác biệt giữa phiên tòa phúc thẩm với phiên tòa sơ thẩm ở chỗ, trong phần tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, KSV không trình bày luận tội mà phát biểu quan điểm của mình về tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án sơ thẩm trên cơ sở đánh giá những chứng cứ cụ thể, chứng cứ mới và kết quả điều tra tại phiên tòa phúc thẩm. Tranh luận là một thủ tục quan trọng của phiên tòa xét xử hình sự. Để bắt đầu cho việc tranh luận, sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm, KSV trình bày lời luận tội. Lời luận tội thể hiện quan điểm của KSV, đại diện VKSND THQCT về xử lý vụ án sau khi đã tham gia xét hỏi công khai tại phiên tòa. Về mặt hình thức, bản luận tội của KSV được chuẩn bị trước bằng văn bản để trình bày tại phiên tòa. Bản luận tội là một văn bản nghiệp vụ do KSV thực hiện và là một văn bản bắt buộc phải có trong hồ sơ kiểm sát xét xử. Tại khoản 1 Điều 23 Quy chế kiểm sát xét xử hình sự (KSXXHS) quy định: “Trước khi tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên phải viết bản dự thảo luận tội theo mẫu hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đối với vụ án trọng điểm, phức tạp hoặc xét xử lưu động, bản dự thảo luận tội của Kiểm sát viên phải báo cáo lãnh đạo Viện duyệt và cho ý kiến”. Vậy, bản luận tội là gì ? Bản luận tội là một văn bản nghiệp vụ do KSV trình bày tại phiên tòa hình sự sơ thẩm sau khi kết thúc phần xét hỏi, mở đầu cho việc tranh luận công khai, thể hiện rõ quan điểm của KSV đại diện cho VKSND kết luận về tội phạm, người phạm tội, vai trò của bị cáo, nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng năng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với bị cáo, nguyên nhân và điều kiện phạm tội nhằm buộc tội bị cáo và đưa ra các đề xuất về loại và mức hình phạt, về các biện pháp tư pháp và việc giải quết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự và đề xuất về các biện pháp đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

doc18 trang | Chia sẻ: tienduy345 | Lượt xem: 2534 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng luận tội của kiểm sát viên, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK CHUYÊN ĐỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LUẬN TỘI CỦA KIỂM SÁT VIÊN, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP - Chỉ đạo thực hiện: Trần Đình Sơn, Viện trưởng; - Chịu trách nhiệm nội dung: Nguyễn Thị Kim Liên, Phó Viện trưởng; - Trực tiếp biên soạn: Lê Văn Minh, Trưởng Phòng 3. Đắk Lắk, tháng 7 năm 2015 CHUYÊN ĐỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LUẬN TỘI CỦA KIỂM SÁT VIÊN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP * * * Chuyên đề gồm 04 phần 1. Khái niệm về luận tội; ý nghĩa của luận tội; 2. Kỹ năng xây dựng luận tôi; 3. Một số vấn đề rút kinh nghiệm trong việc xây dựng luận tội; 4. Thay lời kết. PHẦN I KHÁI NIỆM VỀ LUẬN TỘI; Ý NGHĨA CỦA LUẬN TỘI. I.1. Khái niệm về luận tội: Điều 18 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định: “Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. 1. Công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, quyết định khác về buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa. 2. Xét hỏi, luận tội, tranh luận, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa. 3. Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội. 4. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự”. Điều 2 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự năm 2007 quy định: “Khi thực hành quyền công tố tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát có nhiệm vụ và quyền hạn: Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm” Khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định rõ: “1. Sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội” Với các quy định trên, chúng ta thấy, hoạt động luận tội của Kiểm sát viên (KSV) chỉ có trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm, hoạt động này là biểu hiện cụ thể việc thực hiện chức năng công tố của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Khi thực hành quyền công tố (THQCT) tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, việc luận tội của KSV vừa là nhiệm vụ vừa là quyền hạn. Điểm khác biệt giữa phiên tòa phúc thẩm với phiên tòa sơ thẩm ở chỗ, trong phần tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, KSV không trình bày luận tội mà phát biểu quan điểm của mình về tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án sơ thẩm trên cơ sở đánh giá những chứng cứ cụ thể, chứng cứ mới và kết quả điều tra tại phiên tòa phúc thẩm. Tranh luận là một thủ tục quan trọng của phiên tòa xét xử hình sự. Để bắt đầu cho việc tranh luận, sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm, KSV trình bày lời luận tội. Lời luận tội thể hiện quan điểm của KSV, đại diện VKSND THQCT về xử lý vụ án sau khi đã tham gia xét hỏi công khai tại phiên tòa. Về mặt hình thức, bản luận tội của KSV được chuẩn bị trước bằng văn bản để trình bày tại phiên tòa. Bản luận tội là một văn bản nghiệp vụ do KSV thực hiện và là một văn bản bắt buộc phải có trong hồ sơ kiểm sát xét xử. Tại khoản 1 Điều 23 Quy chế kiểm sát xét xử hình sự (KSXXHS) quy định: “Trước khi tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên phải viết bản dự thảo luận tội theo mẫu hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đối với vụ án trọng điểm, phức tạp hoặc xét xử lưu động, bản dự thảo luận tội của Kiểm sát viên phải báo cáo lãnh đạo Viện duyệt và cho ý kiến”. Vậy, bản luận tội là gì ? Bản luận tội là một văn bản nghiệp vụ do KSV trình bày tại phiên tòa hình sự sơ thẩm sau khi kết thúc phần xét hỏi, mở đầu cho việc tranh luận công khai, thể hiện rõ quan điểm của KSV đại diện cho VKSND kết luận về tội phạm, người phạm tội, vai trò của bị cáo, nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng năng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với bị cáo, nguyên nhân và điều kiện phạm tội nhằm buộc tội bị cáo và đưa ra các đề xuất về loại và mức hình phạt, về các biện pháp tư pháp và việc giải quết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự và đề xuất về các biện pháp đấu tranh phòng ngừa tội phạm. I.2. Ý nghĩa của luận tội. Như trên đã đề cập, hoạt động luận tội của KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là loại hoạt động thực hiện chức năng công tố, nó thể hiện quyền lực của Nhà nước. Do vậy hoạt động luận tội mang ý nghĩa pháp lý, chính trị - xã hội sâu sắc, bởi lẽ: I.2.1. Lời luận tội của KSV tại phiên tòa thể hiện quan điểm của VKSND trong việc xử lý đối với tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. I.2.2. Lời luận tội của KSV sau khi kết thúc việc xét hỏi đã mở đầu giai đoạn tranh luận giữa người tiến hành tố tụng (Kiểm sát viên) và những người tham gia tố tụng. Tranh luận tại phiên tòa là một thủ tục bắt buộc được quy định tại Chương XXI Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS), thể hiện nguyên tắc tranh tụng của các bên trong tố tụng hình sự. Trên cơ sở tranh tụng dân chủ và bình đẳng của các bên tham gia tại phiên tòa cùng những phân tích và kết luận của KSV khi luận tội, Hội đồng xét xử (HĐXX) cân nhắc khi nghị án và ra bản án, quyết định có căn cứ pháp lý, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Như vậy, ngoài ý nghĩa pháp lý. Luận tội của KSV còn mang ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc, phù hợp với các yêu cầu của cải cách tư pháp được nêu tại Nghị quyết 08-NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay. I.2.3. Thông qua lời luận tội, KSV phân tích làm sáng tỏ các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm và kiến nghị đến các cơ quan, tổ chức để có những biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế, sơ hở trong công tác quản lý có tác dụng lớn trong công tác phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. I.2.4. Cũng thông qua lời luận tội, với những phân tích sâu sắc, khách quan, toàn diện và mang tính thuyết phục, quần chúng nhân dân sẽ hiểu biết thêm về pháp luật, nhận thức sâu sắc hơn về sự công minh của pháp luật hình sự và chính sách của Nhà nước ta, từ đó họ nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật và nâng cao trách nhiệm trong việc phòng, chống tội phạm. Với ý nghĩa pháp lý, chính trị - xã hội của bản luận tội như trên, việc chuẩn bị dự thảo luận tội và trình bày luận tội tại phiên tòa của KSV phải có căn cứ và có tính thuyết phục cao. Làm tốt việc luận tội cũng chính là làm tốt chức năng THQCT tại phiên tòa sơ thẩm hình sự; vị trí, vai trò của KSV tại phiên tòa sẽ được nâng cao. PHẦN II. KỸ NĂNG VIẾT DỰ THẢO LUẬN TỘI CỦA KIỂM SÁT VIÊN II.1. Yêu cầu của luận tội Luận tội phải đạt các yêu cầu sau đây: II.1.1. Luận tội phải có căn cứ, chính xác, khách quan và cụ thể. Đây là yêu cầu cơ bản đầu tiên của luận tội. Luận tội là sự buộc tội chính thức cuối cùng tại phiên tòa sơ thẩm của VKSND đối với bị cáo; là căn cứ để bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tự bào chữa hoặc bào chữa, là căn cứ để HĐXX xác định giới hạn xét xử và ra bản án đúng pháp luật. Vì vậy luận tội phải có căn cứ, chính xác, khách quan và cụ thể. Trong luận tội, các kết luận về hành vi phạm tội của bị cáo phải được viện dẫn chứng cứ chứng minh. Các chứng cứ nêu trong luận tội phải là các chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa trong giai đoạn xét hỏi. Việc đánh giá tính chất, mức độ phạm tội, vai trò, trách nhiệm của bị cáo trong vụ án; việc viện dẫn các căn cứ pháp luật (điểm, khoản, Điều luật áp dụng) phải bảo đảm chính xác. Nếu trong quá trình xét hỏi bị cáo tại phiên tòa mà xuất hiện tình tiết mới làm thay đổi quyết định truy tố đã ghi trong cáo trạng, thì trong lời luận tội, KSV phải phân tích, đánh giá tình tiết mới đó và trong những trường hợp được pháp luật cho phép, KSV đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội danh nhẹ hơn; nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị HĐXX tuyên bị cáo không có tội. Khi đề xuất quan điểm, đường lối giải quyết vụ án, KSV phải nêu cụ thể về hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các biện pháp tư pháp cần áp dụng. II.1.2. luận tội phải có tính thuyết phục, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Khi một bản luận tội bảo đảm được tính có căn cứ, chính xác, khách quan và cụ thể thì bản thân nó đã có tính thuyết phục rồi. Thuyết phục ở đây trước hết là thuyết phục đối với Tòa án (HĐXX) rằng những yêu cầu buộc tội đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp với pháp luật. Tiếp theo là thuyết phục với bên bào chữa và đối với tất cả những người có mặt tại phiên tòa. Thông qua việc trích dẫn và phân tích Điều luật mà hành vi phạm tội của bị cáo đã vi phạm, luận tội có tác dụng tuyên truyền, giáo dục pháp luật, giúp cho bị cáo và những người tham dự phiên tòa hiểu rõ những hành vi nào bị pháp luật ngăn cấm. Từ đó họ tự điều chỉnh hành vi của mình theo đúng quy định của pháp luật. Trong bản luận tội vụ án Nguyễn Văn Đô phạm tội “Trốn tránh nghĩa vụ quân sự”, KSV đã viết: “Tại phiên tòa hôm nay, Nguyễn Văn Đô đã khai nại ra nhiều lý do và nguyên nhân dẫn đến hành vi không chấp hành luật nghĩa vụ quân sự của mình, nhưng bất luận là vì lý do gì đi nữa thì hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự của Nguyễn Văn Đô cũng đã phạm vào khoản 1 Điều 259 BLHS. Điều luật quy định “Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự. 1. Người nào không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, lệnh gọi tập trung huấn luyện, đã bị xử lý hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm”. Như vậy, tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với hành vi phạm tội của Nguyễn Văn Đô đã được luật hình định rõ. Song để có cơ sở cá thể hóa trách nhiệm hình sự, áp dụng một mức hình phạt thỏa đáng đối với bản thân bị cáo, chúng ta cần thấy rằng: Để phải đứng trước vành móng ngựa hôm nay và phải chịu phán quyết của pháp luật hình sự trước hết nguyên nhân và trách nhiệm thuộc về bị cáo. Bị cáo sinh ra và lớn lên trên một quê hương có truyền thống cách mạng, đã có biết bao thế hệ cha anh đã hy sinh xương máu, cuộc đời để giải phóng quê hương, đất nước, giành lấy độc lập dân tộc, vững bước tiến lên trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Quyền cao quý và nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi một thanh niên là phải tự giác lên đường thi hành nghĩa vụ quân sự, góp phần gìn giữ độc lập dân tộc, bảo vệ thành quả cách mạng của cha ông ta để lại. Song bị cáo đã đi ngược lại tất cả, tự chọn cho mình con đường phạm tội “Trốn tránh nghĩa vụ quân sự”. Đoạn văn dưới đây là của một KSV VKSND thành phố Buôn Ma Thuột viết trong bản luận tội vụ án “Cố ý gây thương tích”: “Điều đáng lên án hơn trong vụ án này là bị cáo đã gây thương tích cho chính mẹ ruột của mình, là người đã sinh và nuôi dưỡng bị cáo hơn 36 năm. Đáp lại công ơn ấy, đáng lẽ ra bị cáo phải học hành, tu dưỡng, rèn luyện bản thân để trở thành người tốt, có ích cho xã hội, có hiếu với cha mẹ. Nhưng ở đây, bị cáo lại bỏ bê học hành, đàn đúm nhậu nhẹt để rồi trở thành một người lười lao động, ăn bám gia đình. Khi được cha mẹ khuyên can thì không tỉnh ngộ mà vẫn mê muội ngày ngày làm bạn với rượu chè. Sau mỗi chầu nhậu thì lại về chửi mắng, cãi lời cha mẹ. Ngày 13/11/2014, ngủ dậy sau cơn say rượu, do không tìm thấy thức ăn nên Y Sai lớn tiếng hỏi mẹ. Khi bà H’Băm Ênuôl nói “thức ăn hết rồi ! mày lớn rồi không lo đi làm kiếm tiền về mà mua thức ăn !” thì đáng lẽ ra bị cáo phải cảm thấy hổ thẹn về bản thân, một người đàn ông đã 36 tuổi đời mà vẫn ăn bám gia đình, nhưng ở đây, bị cáo lại tỏ thái độ bực tức và dùng cây đánh liên tiếp vào người bà H’Băm Ênuôl gây nên thương tích”. Một KSV của Phòng 2 VKSND tỉnh đã có đoạn viết trong bản luận tội vụ án “Mua bán trái phép chất ma túy” là: “Như chúng ta đã biết, ma túy là chất gây nghiện rất độc hại, khi con người đã sử dụng ma túy thì sẽ rất khó từ bỏ; sử dụng ma túy trái phép sẽ làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe, làm băng hoại nhân cách con người, suy giảm nguồn nhân lực, ảnh hưởng đến sự phát triển nòi giống, là nguyên nhân gây ra căn bệnh thế kỷ HIV, AIDS; Và, loại tội phạm về ma túy này cũng gây mất trật tự an toàn xã hội, làm phát sinh các tội phạm khác như trộm cắp, cướp của, giết người v.v, bỡi lẽ, khi người nghiện lên cơn khát thuốc, họ sẽ bất chấp tất cả để có ma túy sử dụng Tệ nạn ma túy đã làm cho nhiều gia đình lâm vào cảnh bần cùng, tan cửa nát nhà, gây ra những hậu quả và hệ lụy to lớn cho xã hội. Chính vì vậy Nhà nước độc quyền quản lý loại chất độc hại này, mọi hành vi trồng, sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, chiếm đoạt; tổ chức sử dụng; chứa chấp việc sử dụng; lôi kéo, cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy đều bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc; các tội phạm về ma túy và những người thực hiện tội phạm đều bị xã hội lên án”. Tính phòng ngừa tội phạm của luận tội thể hiện ở việc phân tích những nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh dẫn đến hành vi phạm tội. Trong đó có việc phân tích những sơ hở, thiếu sót, vi phạm trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý con người. Từ đó kiến nghị với các cơ quan, tổ chức, đơn vị rút kinh nghiệm, đề ra biện pháp khắc phục vi phạm, “bịt” các sơ hở thiếu sót. II.1.3. Về văn phong Luận tội phải được viết với văn phong trong sáng, mạch lạc, dễ hiểu; bố cục phải chặt chẽ và có logic; từ ngữ phải chuẩn xác, không dùng những từ ngữ có tính miệt thị bị cáo như gọi bị cáo là “thị”, “y”, không “đao to búa lớn”, phân tích tính chất mức độ phạm tội thì rất nghiêm trọng song đề nghị xử lý vụ án lại quá nhẹ (cho bị cáo hưởng án treo) làm cho người nghe hụt hẫng. Luận tội là một bài văn, nhưng lại không được “văn” quá làm cho người nghe cảm thấy “sáo rỗng”. II.2. Cơ cấu và nội dung của bản dự thảo luận tội Khoản 1 Điều 23 Quy chế KSXXHS quy định: “Trước khi tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên phải viết dự thảo luận tội theo mẫu hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đối với vụ án trọng điểm, phức tạp hoặc xét xử lưu động bản dự thảo luận tội của Kiểm sát viên phải báo cáo lãnh đạo Viện duyệt và cho ý kiến”. Để thống nhất chung cho toàn ngành, VKSND tối cao đã có mẫu hướng dẫn số 136 kèm theo Quy chế KSXXHS về viết luận tội với cơ cấu gồm 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. II.2.1. Phần mở đầu Phần này mang tính chất mở đề và được bắt đầu bằng câu: “Thưa Hội đồng xét xử !” tiếp đó, KSV tự giới thiệu về mình là đại diện VKSND THQCT và KSXX tại phiên tòa sơ thẩm xét xử về hình sự đối với vụ án (nêu tên vụ án). Sau đó nêu mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, tầm quan trọng của việc xét xử vụ án. Trong phần mở đầu bản luận tội vụ án Nguyễn Đức Hiệp cùng đồng bọn phạm tội “Cướp tài sản” ở huyện Krông Năng, KSV đã viết: “Thưa Hội đồng xét xử ! Phần xét hỏi công khai tại phiên tòa đến đây kết thúc. Tôi, đại diện VKSND huyện Krông Năng THQCT và KSXX tại phiên tòa hôm nay, phát biểu quan điểm của VKS về vụ án này như sau: Đạo đức, lối sống của thanh niên luôn luôn là vấn đề quan tâm của xã hội. Đa số thanh niên nước ta hiện nay có phẩm chất tốt, tôn trọng các chuẩn mực đạo đức xã hội, giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, có ý thức công dân, sống có nghĩa tình, luôn biết quan tâm, giúp đỡ người khác, có đời sống văn hóa, tinh thần phong phú, nhu cầu giải trí lành mạnh Tuy nhiên, hiện nay cũng còn không ít thanh niên không có chí hướng rõ ràng, lười lao động, lười học tập, ngại khó, ngại khổ, chưa làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ của mình ở gia đình và xã hội; đề cao hưởng thụ, sống thực dụng, ích kỷ, đua đòi, thờ ơ, vô cảm trước nỗi đau của người khác, thiếu trách nhiệm với cộng đồng. Một số thanh thiếu niên mắc tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật. Rất nhiều vụ án hình sự xảy ra mà đối tượng phạm tội đang ở độ tuổi thanh niên. Tính trên địa bàn huyện Krông Năng từ đầu năm tới nay, TAND huyện đã đưa ra xét xử 180 bị cáo thì trong đó có tới 150 bị cáo đang ở độ tuổi thanh niên. Một con số đáng báo động, nhưng chưa dừng lại ở đó. Hôm nay, TAND huyện Krông Năng lại tiếp tục đưa 04 bị cáo đang ở độ tuổi thanh niên là: Nguyễn Đức Hiệp, Phạm Ngọc Thành, Dương Hoàng và Trần Văn Tình, phạm tội “Cướp tài sản” ra xét xử. Đây là việc làm nhanh chóng, kịp thời của các cơ quan chức năng, không những nhằm mục đích trừng trị những đối tượng có hành vi phạm tội, mà qua đây, những người tới dự phiên tòa biết được sự nghiêm minh của pháp luật, không khoan nhượng đối với người có hành vi phạm tội, từ đó cùng chung tay, góp sức nhằm góp phần giáo dục thế hệ trẻ trở thành những người có ích cho gia đình và xã hội”. Một KSV của VKSND huyện Ea H’leo đã viết ở phần mở đầu của bản luận tội trong vụ án “Hủy hoại rừng” như sau: “Thưa Hội đồng xét xử ! Phần xét hỏi công khai tại phiên tòa đến đây đã kết thúc, trước khi chuyển sang phần tranh luận, tôi đại diện VKSND huyện Ea H’leo thực hành quyền công tố nhà nước và kiểm sát hoạt động xét xử hình sự tại phiên tòa phát biểu quan điểm của VKSND huyện Ea H’leo về vụ án như sau: Như chúng ta đã biết, rừng là tài nguyên vô cùng quý giá của quốc gia và nhân loại. Rừng không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế và quốc phòng mà còn là yếu tố quan trọng trong việc duy trì sự ổn định về môi trường sinh thái, gắn liền với đời sống của cộng đồng. Với ý nghĩa quan trọng đó, Đảng, nhà nước và các cấp, các ngành cũng đã ra sức tuyên truyền và có nhiều văn bản quy định về bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng; nghiêm cấm các hành vi hủy hoại rừng. Thế nhưng, trong những năm qua, đặc biệt trong thời gian gần đây, tình hình vi phạm và tội phạm ở lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng vẫn diễn biến phức tạp; số vụ vi phạm không những không giảm mà còn có chiều hướng gia tăng. Hậu quả từ việc phá rừng ngày càng nghiêm trọng. Việc chặt phá rừng tự nhiên để lấy gỗ và đất làm nương rẩy xảy ra ngày càng nhiều và diễn biến phức tạp. Vì vậy, việc TAND huyện Ea H’leo đưa ra xét xử công khai đối với bị cáo Nông Văn Sình phạm tội “Hủy hoại rừng” không chỉ nhằm trừng trị kẻ phạm tội, mà còn góp phần tuyên truyền, giáo dục pháp luật để nhân dân nêu cao ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ rừng”. Trong luận tội vụ án Lê Văn Việt và Nguyễn Công Trước phạm tội “Hiếp dâm trẻ em” một KSV của VKSND tỉnh Quảng Nam đã viết: “Thưa Hội đồng xét xử ! Phần xét hỏi công khai tại phiên tòa hôm nay đến đây đã kết thúc. Tôi, đại diện VKSND tỉnh Quảng Nam THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử tại phiên tòa phát biểu quan điểm của VKSND trong việc đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, trên cơ sở đó đề nghị mức hình phạt để HĐXX tuyên một mức án đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Như chúng ta đã biết, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người là vô giá, thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì thế luật pháp Quốc tế cũng như pháp luật Nhà nước ta luôn luôn bảo vệ trẻ em, vì đây là đối tượng đặc biệt. Liên hiệp quốc đã có Công ước về quyền trẻ em năm 1989, Việt Nam là một trong những nước đầu tiên trên thế giới phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em và năm 1999 Quốc hội nước ta thông qua luật “Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em” có hiệu lực từ ngày 16/8/1999. Theo đó, luật pháp quốc tế và pháp luật của Nhà nước ta nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm đến các quyền của trẻ em, trong đó có các hành vi xâm phạm đến tình dục, lạm dụng tình dục đối với trẻ em; nghiêm trị thích đáng những đối tượng xâm phạm đến quyền của trẻ em nói chung, đặc biệt là xâm phạm đến tình dục của trẻ em nói riêng, nhất là trong những năm qua, tình trạng lạm dụng tình dục trẻ em còn xảy ra nhiều. Do vậy hôm nay, TAND tỉnh Quảng Nam đưa các bị cáo Lê Văn Việt và Nguyễn Công Trước ra trước vành móng ngựa để xét xử là biện pháp tích cực, thể hiện quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh chống các hành vi lạm dụng tình dục đối với trẻ em, nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác đấu tranh phòng và chống loại tội phạm này”. II.2.2. Phần nội dung
Luận văn liên quan