Trong những năm vừa qua, số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ không ngừng tăng lên và đang dần khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế quốc dân. Hàng năm các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp khoảng 26% GDP, 31% tổng sản lượng công nghiệp, thu hút 26% lực lượng lao động. Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 97% tỷ trọng số lượng các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Đây là khu vực được đánh giá là rất có tiểm năng phát triển kinh tế.
Nghị định số 90/NĐ-CP ngày 23-11-2002 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đã nêu :" Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là một nhiệm vụ quan trọng trong Chiến lược phát tiển kinh tế- xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa vả nhỏ phát huy tính chủ động sáng tạo, nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học-công nghệ và nguồn lực."
Nhận thức được điều này, trong thời gian qua các ngân hàng thương mại đã chú trọng quan tâm đến các doanh nghiệp này. Nhất là khi môi trường kinh doanh giữa các ngân hàng này càng trở nên khốc liệt thì việc nhắm tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ như là một đối tượng khách hàng đầy tiềm năng là chiến lược phát triển tất yếu của các ngân hàng thương mại.
Nắm được chủ trưởng của Đảng và Nhà nước cũng như để bắt kịp với xu hướng vận động của nền kinh tế, ngân hàng Công Thương Thanh Xuân trong thời gian qua đã đẩy mạnh tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Và hoát động này đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ nhưng cũng bộc lộ nhiều khó khăn, hạn chế đòi hỏi ngân hàng phải nỗ lực tìm cách giải quyết để ngân hàng có thể phát triển hơn nữa và tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy sau một thời gian thực tập tại ngân hàng, em đã chọn đề tài :"Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương Thanh Xuân" cho chuyên đề tốt nghiệp.
Ngoài Lời mở đầu, Mục lục, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Chuyên đề được kết cấu thành ba chương như sau:
Chương I: Tín dụng ngân hàng và Chất lượng tín dụng ngân hàng đối với DNV&N
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNV&N tại NHCT Thanh Xuân
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNV&N ở NHCT Thanh Xuân
80 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2688 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng công thương Thanh Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Trong những năm vừa qua, số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ không ngừng tăng lên và đang dần khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế quốc dân. Hàng năm các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp khoảng 26% GDP, 31% tổng sản lượng công nghiệp, thu hút 26% lực lượng lao động. Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 97% tỷ trọng số lượng các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Đây là khu vực được đánh giá là rất có tiểm năng phát triển kinh tế.
Nghị định số 90/NĐ-CP ngày 23-11-2002 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đã nêu :" Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là một nhiệm vụ quan trọng trong Chiến lược phát tiển kinh tế- xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa vả nhỏ phát huy tính chủ động sáng tạo, nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học-công nghệ và nguồn lực..."
Nhận thức được điều này, trong thời gian qua các ngân hàng thương mại đã chú trọng quan tâm đến các doanh nghiệp này. Nhất là khi môi trường kinh doanh giữa các ngân hàng này càng trở nên khốc liệt thì việc nhắm tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ như là một đối tượng khách hàng đầy tiềm năng là chiến lược phát triển tất yếu của các ngân hàng thương mại.
Nắm được chủ trưởng của Đảng và Nhà nước cũng như để bắt kịp với xu hướng vận động của nền kinh tế, ngân hàng Công Thương Thanh Xuân trong thời gian qua đã đẩy mạnh tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Và hoát động này đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ nhưng cũng bộc lộ nhiều khó khăn, hạn chế đòi hỏi ngân hàng phải nỗ lực tìm cách giải quyết để ngân hàng có thể phát triển hơn nữa và tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy sau một thời gian thực tập tại ngân hàng, em đã chọn đề tài :"Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương Thanh Xuân" cho chuyên đề tốt nghiệp.
Ngoài Lời mở đầu, Mục lục, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Chuyên đề được kết cấu thành ba chương như sau:
Chương I: Tín dụng ngân hàng và Chất lượng tín dụng ngân hàng đối với DNV&N
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNV&N tại NHCT Thanh Xuân
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNV&N ở NHCT Thanh Xuân
Chương I-Tín dụng ngân hàng và Chất lượng tín dụng ngân hàng đối với DNV&N
1.1_Khái quát về DNV&N
1.1.1_Khái niệm
Việc đưa ra một khái niệm chính xác về doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất khó khăn. Hiện nay, trên thế giới mỗi nước lại có một khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ riêng của mình. Trong khu vực Đông Nam Á, Inđônêxia phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa trên 3 tiêu thức là số lượng lao động, tổng giá trị tài sản và doanh thu; Singapo thì chỉ dựa vào số lượng lao động và tổng giá trị tài sản. Trong khu vực Châu Á, Hồng Kông xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ dựa trên tiêu thức số lượng lao động, nhưng số lượng lao đông đặt ra cho các ngành là khác nhau, với ngành dịch vụ thì lượng lao động nhỏ hơn so với lượng lao động trong ngành công nghiệp. Cũng như vậy nhưng Hàn Quốc chia theo thành 3 ngành, đó là các ngành: chế tạo máy và khai khoáng, xây dựng, dịch vụ. Trên thế giới, Canada, Úc và Mỹ đều phân loại dựa vào số lượng lao động, nhưng số lượng lao động làm tiêu chí thì ở mỗi nước là khác nhau.
Như vậy, ta thấy cho mặc dù có nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ thì 2 tiêu thức được sử dụng phổ biến nhất là số lượng lao động trung bình và tổng sổ vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ đơn thuần phản ánh qui mô của doanh nghiệp mà nó còn bao chùm nội dung về kinh tế, tổ chức sản xuất, quản lý và tiến bộ khoa hoc công nghiệp. Tuỳ theo thực trạng về quy mô của các doanh nghiệp trong nền kinh tế của mỗi nước khác nhau, trình độ phát triển của mỗi nền kinh tế có tính đến xu hướng phát triển trong thời gian tới mà các nước có tiêu chí xác định riêng của mình. Như vậy việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ mang tính tương đối và nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Đối với Việt Nam, sau một thời gian nghiên cứu yêu cầu thực tế và học hỏi kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, ngày 23/11/20011, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/NĐ-CP quy định lại tiêu chí để xác định doang nghiệp vừa và nhỏ, như sau: " Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng kí không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người ".
1.1.2_Đặc điểm
Đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là mối quan tâm của các NHTM vì đây là đối tượng khách hàng ngày càng có vai trò quan trọng trong hoạt động của các ngân hàng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ bên cạnh những hạn chế còn có những mặt tích cực. Việc tìm hiểu đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ giúp cho hoạt động giữa NHTM và các doanh nghiệp này đạt được hiệu quả cao.
a_Quy mô hoạt động nhỏ
Quy mô hoạt động của một doanh nghiệp thường được đánh giá dựa trên hai tiêu chí cơ bản là số vốn hoạt động và số lượng lao động trung bình. Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, số vốn đăng kí là dưới 10 tỷ đồng và số lượng lao động trung bình không quá 300 người. Do đó, có thể nói quy mô hoạt động của những doanh nghiệp này là không lớn khi so sánh trong tương quan nền kinh tế.
Quy mô vốn nhỏ bé, nên hầu hết các doanh nghiệp này đều gặp khó khăn về vốn. Việc tiếp cận với các nguồn tài chính khác với những doanh nghiệp này cũng là một vấn đề nan giải. Nguồn vốn tự có thấp, khả năng tiếp cận với các nguồn vốn từ những tổ chức tín dụng thấp đã khiến cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp hàng loạt các khó khăn khác trong quá trình sản xuất kinh doanh.
b_Khả năng cạnh tranh thấp
Do đặc điểm lượng vốn hoạt động nhỏ, thêm vào đó khả năng tiếp cận các nguồn tài chính khác là thấp nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường gặp khó khăn trong việc mở rộng quy mô hoạt động, triển khai các dự án lớn, đầu tư sản xuất mới. Bên cạnh đó, do không đủ vốn để đầu tư nâng cấp, đổi mới các máy móc thiết bị, càng không đủ vốn cho hoạt động nghiên cứu khoa học kĩ thuật, các doanh nghiệp này thường sử dụng công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý kém. Chính vì vậy, các sản phẩm sản xuất ra thường có chất lượng thấp mà chi phí bỏ cũng không nhỏ. Điều này làm giảm tính cạnh tranh của sản phẩm. Cũng vì lý do vốn mà các doanh nghiệp này có nhiều hạn chế trong việc marketing, quảng cáo sản phẩm, nắm bắt thông tin thị trường...Những điều này đã hạn chế khả năng chiếm lĩnh thị trường, cũng như việc phát triển doanh nghiệp, do đó mà sức cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường thấp.
c_Chịu ảnh hưởng lớn từ môi trường bên ngoài
Số lượng các doanh nghiệp nhỏ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số các doanh nghiệp, tuy nhiên tổng lượng vốn của các doanh nghiệp này lại không chiếm phần lớn lượng vốn của nền kinh tế. Trong nền kinh tế, các doanh nghiệp lớn là trụ cột và được ví như đầu tàu của nền kinh tế. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường làm vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, hoặc nếu là đối thủ thì cũng luôn tránh phải đối đầu trực tiếp với các doanh nghiệp lớn vì khả năng cạnh tranh thấp. Họ hoạt động không chỉ tuân theo xu thế vận động của nền kinh tế như các doanh nghiệp lớn mà còn chịu ảnh hưởng rất lớn từ các doanh nghiệp này.
d_Tính linh hoạt cao
Bên cạnh những những khuyết điểm kể trên, doanh nghiệp vừa và nhỏ còn có một số ưu điểm nổi bật như bộ máy tổ chức đơn giản, gọn nhẹ, có tính năng động, sự linh hoạt cao và khả năng thích ứng cao hơn các doanh nghiệp lớn trước những biến động của thị trường.
Vì chịu ảnh hưởng lớn từ môi trường bên ngoài nên trong hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tính nhạy cảm cao đối với sự thay đổi không ngừng của thị trường. Họ luôn phải cập nhật các thông tin từ thị trường, từ các doanh nghiệp lớn và từ đối thủ.
Bên cạnh đó, chỉ cần một lượng vốn bổ sung không nhiều, các doanh nghiệp này có thể dễ dàng đổi mới thiết bị và công nghệ hơn so với các doanh nghiệp lớn. Ngoài ra, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể ứng dụng được các kĩ thuật tiên tiến kết hợp tự động hoá, cơ khí hoá với lao động thủ công, trên cơ sở đó từng bước đổi mới công nghệ. Do đó các doanh nghiệp này có thể thay đổi một cách linh hoạt theo xu hướng của thị trường mà không cần quá nhiều vốn đầu tư. Tuy nhiên, vốn lại luôn là vấn đề khó khăn của các doanh nghiệp này, vì vậy nếu được đánh giá đúng khả năng, có dự án khả thi thì việc đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ đem lại lợi nhuận cao cho các NHTM
1.1.3_Vai trò của DNV&N
Khi nói đến sự phát triển kinh tế của một quốc gia, chúng ta thường nghĩ ngay đến các doanh nghiệp khổng lồ quen thuộc. Chẳng hạn như khi nói đến nền kinh tế Nhật Bản thì người ta nghĩ ngay tới Mitsubishi, Toyota; nói đến Hàn Quốc là Samsung...Trong khi đó, trên thực tế thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại đóng một vai trò không nhỏ đối với sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
a_Tạo việc làm và thu nhập cho người lao động
Do có lợi thế là chỉ cần một lượng vốn nhỏ cũng có thể thành lập được công ty, nhà xưởng, mở văn phòng... với chi phí thấp, tính năng động và tính linh hoạt cao, có khả năng thích ứng với những nhu cầu thường xuyên thay đổi của thị trường nên ở các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn chiếm khoảng hơn 90% tổng số các doanh nghiệp.
Thêm vào đó, phần lớn các doanh nghiệp này hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến nông sản, xây dựng và giao thông vận tải...., lại thường sử dụng công nghệ lạc hậu, nửa cơ giới nửa thủ công do vậy khả năng thu hút lao động của các doanh nghiệp này là rất lớn. Ở Việt Nam, các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ đóng góp hơn 25% GDP, 26% việc làm thường xuyên và tạo ra 1,2 triệu việc làm mới mỗi năm. Trong khi đó các doanh nghiệp lớn có kĩ thuật sản xuất hiện đại, công nghệ tiên tiến, nhất là đối với các xí nghiệp tự động hoá sản xuất đã làm cho số người thất nghiệp ngày càng tăng, phát sinh nhiều tiêu cực cho xã hội.
Ở Việt Nam, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đóng một vai trò quan trọng trong việc thu hút các lao động nông nghiệp ở nông thôn trong các làng nghề truyền thống. Các doanh nghiệp này đã giúp cho người nông dân có thêm được thu nhập với các nghề truyền thống từ bao đời bằng việc xuất khẩu các mặt hàng thủ công mĩ nghệ. Nhờ đó giảm được lượng lao động ồ ạt đổ lên thành phố trong lúc nông nhàn, hơn thế nữa là giữ gìn được bản sắc văn hoá dân tộc từ bao đời nay của Việt Nam.
b_Thu hút nguồn vốn trong dân
Tiềm lực tài chính trong dân là rất lớn, tuy nhiên lại nằm rải rác, không tập trung thành những khoản lớn đủ để đáp ứng cho những nhu cầu vốn với quy mô lớn. Để thành lập các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì yêu cầu về vốn là không lớn do đó các doanh nghiệp này được thành lập một cách dễ dàng, nằm phân tán trong dân, đi vào tận các làng xóm. Vì vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò quan trọng trọng việc thu hút nguồn vốn từ dân, tận dụng những nguồn vốn nhỏ bé này cho sản xuất kinh doanh không để chúng nhàn rỗi. Mặc dù, số vốn của một doanh nghiệp loại này nhỏ nhưng do số lượng doanh nghiệp là rất lớn nên tổng lượng vốn thu hút được khá lớn.
c_Đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế
Do qui mô vừa và nhỏ nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đặt văn phòng làm việc, nhà xưởng ở khắp mọi nơi trên lãnh thổ, ở cả những nơi cơ sở hạ tầng chưa phát triển nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, phát triển kinh tế địa phương. Quy mô hoạt động cũng như trình độ công nghệ của các doanh nghiệp này rất thích hợp với những ngành cần nhiều lao động thủ công như ngành chế biến thuỷ-hải sản, may mặc, da giày, mà đây lại là những ngành đem lại nhiều kim ngạch xuất khẩu cho cả nước. Đặc biệt với ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống, ngành mà việc sử dụng các công nghệ hiện đại và sản xuất hàng loạt là rất khó khăn, thêm vào đó là việc phân bố rải rác ở khắp các vùng nông thôn, thì doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc thu gom, tiêu thụ sản phẩm không chỉ với thị trường trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài.
Bên cạnh đó, do lợi thế của mình các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thích hợp với khu vực kinh doanh thương mại-dịch vụ bán lẻ. Trong khi đó các doanh nghiệp lớn khó có thể tổ chức được một mạng lưới bán lẻ để tiêu thụ hàng hoá của mình mà phải thông qua mạng lưới bán lẻ của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính vì vậy, doanh nghiệp vừa và nhỏ đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng kể cả ở những nơi xa xôi, cơ sở hạ tầng thấp kém một cách nhanh chóng thuận tiện, do đó mà rút ngắn khoảng cách về kinh tế giữa các vùng, góp phần làm cho nền kinh tế phát triển một cách đồng đều trên toàn lãnh thổ.
Thu hút được một lượng vốn lớn nhàn rỗi trong dân, khai thác tận dụng được các tiềm năng thế mạnh của từng vùng, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Theo số liệu của UNDP thì doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đóng góp 26%GDP. Sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã góp phần đáng kể trong việc huy động vốn đầu tư toàn xã hội, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu cho ngân sách Nhà nước, đóng góp phần lớn trong giá trị GDP mà nền kinh tế tạo ra hàng năm.
d_Tạo sự linh hoạt cho nền kinh tế
Trên thực tế, tỷ trọng số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước luôn chiếm trên 90%. Với ưu thế về yêu cầu vốn không lớn, và linh hoạt trong hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ gia tăng không ngừng. Điều này góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn nhàn rỗi từ dân, như vậy sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tăng hiệu quả cho việc sử dụng các nguồn lực tài chính. Đây là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với công cuộc phát triển kinh tế đặc biệt là với Việt Nam- một nước đang phát triển và đang trong lộ trình hội nhập kinh tế thế giới.
Bên cạnh đó, sự phát triển không ngừng các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã thu hút được một lượng lớn lao động nông nghiệp đang gia tăng ở các vùng nông thôn chuyển sang làm việc ở lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ; nâng cao đời sống cho nhiều bộ phận dân cư nông thôn, thúc đẩy quá trình đô thị hoá. Có thể nói, sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã góp phần quan trọng trong quá trình chuyến dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Việc phát triển không ngừng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra sự cạnh tranh không nhỏ giữa các doanh nghiệp kể cả với các doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế. Trong một thị trường cạnh tranh, những sản phẩm được sản xuất ra phải không ngừng nâng cao chất lượng nếu không muốn bị đào thải. Mà doanh nghiệp vừa và nhỏ lại nhạy cảm với sự biến động của thị trường, có tính linh hoạt trong sản xuất, các sản phẩm sản xuất ra luôn bám sát với yêu cầu của thị trường với chi phí thấp. Đây là thách thức rất lớn với những doanh nghiệp lớn, khiến cho các doanh nghiệp này khó có thể lũng đoạn thị trường. Do đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm cho nền kinh tế trở nên năng động, linh hoạt hơn, lộ trình hội nhập với kinh tế thế giới cũng vì thế được rút ngắn hơn.
1.2_Tín dụng ngân hàng
1.2.1_Tín dụng- một hoạt động chủ yếu của các NHTM
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Ngân hàng được ví như mạch máu của nền kinh tế. Sự phát triển kinh tế là điều kiện ra đời ngân hàng, đến lượt mình hệ thống ngân hàng lại thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng.
Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng. Người làm nghề đổi tiền thường là người giàu có. Họ thực hiện cất trữ hộ, việc cất trữ hộ nhiều nghười khác là điều kiện để thực hiện thanh toán hộ. Điều này đã thu hút các thương gia gửi tiền nhiều hơn. Do tính chất vô danh của tiền, nhà buôn tiền có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của khách để cho vay. Hoạt động này làm thay đổi cơ bản hoạt động của nhà buôn tiền- kẻ cho vay nặng lãi- thành nhà buôn tiền- Ngân hàng. Hoạt động cho vay dựa trên tiền gửi của khách, tạo nên lợi nhuận lớn nên các ngân hàng đều tìm cách mở rộng thu hút tiền gửi để cho vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền.
Tóm lại: đứng trên góc độ các loại hình mà ngân hàng cung cấp thì ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán- và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Như vậy, ngay từ khi mới được hình thành cho đến nay, hoạt động tín dụng luôn là hoạt động nòng cốt của các ngân hàng thương mại.
Tín dụng được hiểu là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và đi vay. Tuy nhiên, khi gắn tín dụng với chủ thể nhất định như ngân hàng (hoặc các trung gian khác)- ví dụ như tín dụng ngân hàng- thì chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay.
Hoạt động tín dụng của NHTM dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khă năng sinh lời. Các nguyên tắc này được cụ thể hoá trong các qui định của ngân hàng Nhà nước và các NHTM. Ba nguyên tắc cơ bản như sau:
Thứ nhất: khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc) và lãi với thời gian xác định. Các khoản tín dụng của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như đã cam kết. Do vậy, ngân hàng luôn yêu cầu người nhân tín dụng phải thực hiện đúng cam kết này. Đây là điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển.
Thứ hai: khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo đúng mục đích được thoả thuận với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật và các qui định khác của ngân hàng cấp trên. Luật pháp qui định phạm vi hoạt động cho các ngân hàng. Bên cạnh đó, mỗi ngân hàng có thể có mục đích và phạm vi hoạt động riêng. Mục đích tài trợ được ghi trong hợp đồng tín dụng đảm bảo ngân hàng không tài trợ cho các hoạt động trái pháp luật và việc tài trợ đó là phù hợp với cương lĩnh của ngân hàng.
Thứ ba: ngân hàng tài trợ trên phương án (hoặc dự án) có hiệu quả. Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Phương án hoạt động có hiệu quả của người vay minh chứng cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ ngân hàng. Các khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản của người vay. Trong trường hợp xét thấy kém an toàn, ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi vay.
1.2.2_Các hình thức tín dụng ngân hàng
Trong một môi trường cạnh tranh gay gắt với đòi hỏi ngày càng cao và đa dạng của hàng triệu khách hàng, các ngân hàng cũng luôn phải đa dạng hoá các loại hình dịch vụ của mình nhằm đáp ứng được nhu cầu của thị trường, từ nhu cầu của quốc gia, các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp, các hộ gia đình cho đến nhu cầu của mỗi các nhân riêng biệt. Bên cạnh đó, phần lớn nguồn vốn đưa và kinh doanh của ngân hàng là lượng vốn nhãn rỗi trong dân cư, của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế..do đó khi cấp tín dụng ngân hàng luôn phải xác định loại hình cấp phát hợp lý nhằm hạn chế được rủi ro ở mức thấp nhất trên cơ sở đó tối đa hoá lợi nhuận.
a_Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Căn cứ vào thời hạn tín dụng, người ta chiưa tín dụng thành 3 loại:
Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn tín dụng dưới 12 tháng. Tín dụng ngắn hạn nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất, và phục vụ nhu cầu sinh hoạt của cá nhân.
Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Tín dụng trung hạn nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm trang thiết bị, xây dựng với qui mô nhỏ, cải tiến kĩ thuật, mua công nghệ hay để đầu tư cho các dự án t