Cùng với sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, hệ thống ngân hàng nước ta đã có những thay đổi đáng kể để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế. Nét nổi bật đó là sự phân chia thành hai cấp của hệ thống ngân hàng, trong đó Ngân hàng Thương mại ( NHTM ) thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, còn Ngân hàng Nhà nước với vai trò quản lý toàn bộ hệ thống ngân hàng. Sự phân chia này đã góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế phát triển. Và khi nền kinh tế càng lớn mạnh thì yêu cầu đối với hệ thống ngân hàng nói chung và hệ thống NHTM nói riêng lại ngày càng cao, đòi hỏi các ngân hàg phải không ngừng đổi mới.
Tín dụng là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, là dịch vụ sinh lời chủ yếu, đồng thời cũng là lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro nhất của các NHTM. Đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh, tín dụng ngân hàng là một trong những hình thức vay vốn hiệu quả. Tuy nhiên trong những năm qua, vấn đề tín dụng đối với các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ ( DNVVN ) nói riêng gặp không ít khó khăn và tồn tại như: sự an toàn, chất lượng, hiệu quả. đặc biệt là vấn đề chất lượng của các khoản tín dụng. Vì vậy, nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNVVN là một vấn đề cấp thiết và quan trọng đối với NHTM, có liên quan trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Từ nhận thức trên, em đã chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội.” làm chuyên đề thực tập cuối khóa của mình nhằm đóng góp những ý kiến trong phạm vi kiến thức của em về vấn đề nghiên cứu trên.
Chuyên đề nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản nhất về chất lượng tín dụng đối với DNVVN, xem xét thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNVVN tại NHTMCPCTVN - Chi nhánh TP Hà Nội. Trên cơ sở đó, đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNVVN tại Chi nhánh TP Hà Nội – NHTMCPCTVN.
Nội dung của chuyên đề gồm 3 chương chính:
Chương 1: Tổng quan về chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội.
68 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3033 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU.
Cùng với sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, hệ thống ngân hàng nước ta đã có những thay đổi đáng kể để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế. Nét nổi bật đó là sự phân chia thành hai cấp của hệ thống ngân hàng, trong đó Ngân hàng Thương mại ( NHTM ) thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, còn Ngân hàng Nhà nước với vai trò quản lý toàn bộ hệ thống ngân hàng. Sự phân chia này đã góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế phát triển. Và khi nền kinh tế càng lớn mạnh thì yêu cầu đối với hệ thống ngân hàng nói chung và hệ thống NHTM nói riêng lại ngày càng cao, đòi hỏi các ngân hàg phải không ngừng đổi mới.
Tín dụng là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, là dịch vụ sinh lời chủ yếu, đồng thời cũng là lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro nhất của các NHTM. Đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh, tín dụng ngân hàng là một trong những hình thức vay vốn hiệu quả. Tuy nhiên trong những năm qua, vấn đề tín dụng đối với các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ ( DNVVN ) nói riêng gặp không ít khó khăn và tồn tại như: sự an toàn, chất lượng, hiệu quả... đặc biệt là vấn đề chất lượng của các khoản tín dụng. Vì vậy, nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNVVN là một vấn đề cấp thiết và quan trọng đối với NHTM, có liên quan trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Từ nhận thức trên, em đã chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội.” làm chuyên đề thực tập cuối khóa của mình nhằm đóng góp những ý kiến trong phạm vi kiến thức của em về vấn đề nghiên cứu trên.
Chuyên đề nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản nhất về chất lượng tín dụng đối với DNVVN, xem xét thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNVVN tại NHTMCPCTVN - Chi nhánh TP Hà Nội. Trên cơ sở đó, đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNVVN tại Chi nhánh TP Hà Nội – NHTMCPCTVN.
Nội dung của chuyên đề gồm 3 chương chính:
Chương 1: Tổng quan về chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1.1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường.
Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trên thế giới có rất nhiều khái niệm khác nhau về DNVVN mà nguyên nhân cơ bản là do việc lựa chọn các tiêu thức đánh giá quy mô doanh nghiệp khác nhau ở từng nơi. Mặt khác, việc lượng hóa các tiêu thức phân loại quy mô doanh nghiệp còn tùy thuôc vào rất nhiều yếu tố như trình độ phát triển kinh tế xã hội ở mỗi nước, độ lớn của các tiêu chí trong mỗi ngành nghề…
Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới 50 người, còn doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 300 lao động.
Ở Việt Nam, cơ sở pháp lý để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay là Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của chính phủ về trợ giúp phát triển với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 của Nghị định thì "Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật được chia thành 3 cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn hoặc số lao động bình quân năm, cụ thể như sau:
DN siêu nhỏ
Doanh nghiệp
nhỏ
Doanh nghiệp
vừa
Số lao động
Tổng nguồn vốn
Số lao động
Tổng nguồn vốn
Số lao động
Nông lâm nghiệp và thủy sản
10 người trở xuống.
20 tỷ đồng trở xuống.
Từ trên 10 người đến 200 người.
Từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng.
Từ trên 200 người đến 300 người.
Công nghiệp và xây dựng
10 người trở xuống.
20 tỷ đồng trở xuống.
Từ trên 10 người đến 200 người.
Từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng.
Từ trên 200 người đến 300 người.
Thương mại và dịch vụ
10 người trở xuống.
20 tỷ đồng trở xuống.
Từ trên 10 người đến 50 người.
Từ trên 10 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng.
Từ trên 50 người đến 100 người.
Tùy theo tính chất , mục tiêu của từng chính sách, chương trình trợ giúp mà cơ quan chủ trì có thể cụ thể hóa các tiêu chí nêu trên cho phù hợp.”
Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Bên cạnh những đặc điểm cơ bản của một doanh nghiệp thông thường, DNVVN còn có một số đặc điểm riêng biệt sau:
Các DNVVN chiếm số lượng lớn trên thị trường với tốc độ gia tăng cao.
Với ưu điểm là vốn ít và số lao động nhỏ nên hiện nay tỷ lệ DNVVN luôn chiếm số lớn trong hệ thống doanh nghiệp.
Các DNVVN hoạt động trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế: thương mại, dịch vụ, công nghiệp, xây dựng, nông lâm ngư nghiệp... và hoạt động dưới mọi hình thức như: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. và các cơ sở kinh tế cá thể...nhưng chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các DNVVN chỉ cần lượng vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao, thu hồi vốn nhanh, Vì thế mà hấp dẫn nhiều cá nhân, tổ chức ở mọi thành phần kinh tế đầu tư vào khu vực này. Hiện nay có không ít các tổ chức kinh tế tư nhân đứng ra thành lập doanh nghiệp của mình, làm cho tốc độ gia tăng của các DNVVN rất cao.
DNVVN có tính năng động, linh hoạt cao trước những thay đổi của thị trường.
So với doanh nghiệp lớn, DNVVN năng động, linh hoạt hơn trước những thay đổi liên tục của thị trường. Với mỗi thay đổi của nền kinh tế, các DNVVN có khả năng chuyển hướng kinh doanh và chuyển hướng mặt hàng nhanh hơn các doanh nghiệp có quy mô vốn lớn. Sự đa dạng về loại hình hoạt động, loại hình sản phẩm đã giúp các DNVVN đứng vững được trong thị trường, đạt được hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế.
Với quy mô vốn và lao động nhỏ, hệ thống tổ chức sản xuất và bộ máy quản lý ở các DNVVN gọn nhẹ, linh hoạt hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp lớn. Công tác điều hành cũng mang tính trực tiếp cao. Các quyết định được thực hiện nhanh, công tác giám sát được tiến hành chặt chẽ và không phải qua nhiều khâu trung gian, tiết kiệm được một lượng lớn chi phí quản lý doanh nghiệp.
Trình độ công nghệ còn lạc hậu.
Do quy mô vốn nhỏ nên các DNNVV không có điều kiện đầu tư quá nhiều vào nâng cấp, đổi mới máy móc, mua sắm thiết bị công nghệ tiên tiến, hiện đại. Do đó hiện nay đa số các DNVVN đang sử dụng công nghệ cách đây vài chục năm, thời gian chiết khấu của máy móc đã hết. Chỉ trừ có một số ít DNVVN mới thành lập có điều kiện mua thiết bị máy móc mới, đa số các DNVVN có năng lực kỹ thuật và trình độ hạn chế làm giảm đáng kể năng suất lao động của DNVVN, dẫn đến khả năng cạnh tranh bị giảm dần so với các doanh nghiệp mới thành lập và các doanh nghiệp lớn. Có những DNVVN có điều kiện trang bị máy móc mới thì cũng theo kiểu tự phát và không khoa học nên thiếu định hướng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, thiếu thông tin hướng dẫn, và không theo kịp với những biến đổi của công nghệ mới trên thị trường.
Có rất nhiều nguyên nhân giải thích cho điều này, một trong những nguyên nhân quan trọng là việc khó tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng của các DNVVN, đặc biệt là nguồn vay trung và dài hạn.
Thương hiệu của DNVVN còn yếu kém.
Sự yếu kém về thương hiệu cũng góp phần làm yếu khả năng cạnh tranh của các DNVVN. Hầu hết các DNVVN chưa xây dựng được các thương hiệu mạnh, chưa khẳng định được uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế. Nhiều DNVVN chưa có chiến lược xây dựng thương hiệu, chưa thường xuyên tìm hiểu thị trường nước ngoài, chưa tạo được uy tín về chất lượng sản phẩm và dịch vụ, do đó khả năng cạnh tranh còn yếu.
Tuy nhiên theo nghiên cứu của các chuyên gia thì việc xây dựng một thương hiệu rất tốn kém và mất thời gian, phải mất vài năm cho một thương hiệu quốc gia và tầm 10 năm cho một thương hiệu quốc tế. Do đó, các DNVVN không nên “đơn thương độc mã” xây dựng thương hiệu của mình, mà để giải quyết vấn đề đó thì một trong các giải pháp đơn giản nhất đó là mua thương hiệu của các công ty và tập đoàn lớn.
Năng lực quản lý thấp.
Năng lực của các nhà quản lý là một trong những nhân tố quan trọng nhất có ảnh hưởng quyết định đến khả năng cạnh tranh của DNVVN. Hội nhập quốc tế đã buộc các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng cạnh tranh để đủ sức đứng vững trên thương trường. Doanh nhân ngày nay cần có những năng lực tổng hợp, chú trọng bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng về xây dựng và phát triển thương hiệu cũng như chiến lược cạnh tranh.
Tuy nhiên hiện nay, số lượng DNVVN có chủ doanh nghiệp, giám đốc giỏi, trình độ chuyên môn cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ phận lớn chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế-xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh. Mặt khác, DNNVV ít có khả năng thu hút được những nhà quản lý và lao động có trình độ, tay nghề cao do khó có thể trả lương cao và có các chính sách đãi ngộ hấp dẫn để thu hút và giữ chân những nhà quản lý cũng như những người lao động giỏi. Dẫn đến một thực trạng là đã có khá nhiều DNVVN phá sản chỉ sau một thời gian ngắn hoạt động.
Vị thế của DNVVN trên thị trường thấp.
Năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao là các yếu tốt trực tiếp làm giảm khả năng cạnh tranh của các DNVVN. Nguồn tài chính của DNVVN còn hạn chế, trong khi các doanh nghiệp lớn có nhiều khả năng nhận được các nguồn tài chính khác nhau. Các NHTM cũng như các tổ chức tài chính khác thường e ngại, không muốn cho DNVVN vay vốn bởi vì họ chưa có quá trình kinh doanh uy tín và chưa tạo lập được khả năng trả nợ. Điều này ngăn cản sự mở rộng doanh nghiệp, làm cho doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn khác như: khó khăn trong việc mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và nhất là khó khăn trong việc cạnh tranh với các DN lớn sản xuất cùng một loại sản phẩm trên thị trường. Khi nền kinh tế có biến động lớn, ví dụ biến động về đầu vào, DNVVN khó có khả năng chống đỡ và dễ dẫn đến bị phá sản.
Một trong những khó khăn không nhỏ của các DNVVN hiện nay chính là thị trường tiêu thụ sản phẩm. Thị trường của DNVVN thường nhỏ bé, không ổn định và phụ thuộc vào hướng phát triển của các doanh nghiệp lớn, tồn tại như một bộ phận của doanh nghiệp lớn.
Như vậy, với đặc điểm của mình thì trước mắt của các DNVVN cần tập trung vào các thị trường nhỏ lẻ, địa phương và đặt trọng tâm vào những sản phẩm hàng hoá có giá bán thấp . Nếu có định hướng chiến lược dài hạn thì cần phải chú ý tới thị trường của các địa phương khác và thị trường Quốc tế. Các DNVVN cần hiểu rõ vị thế cạnh tranh của mình trên thị trường, nắm được các ưu điểm và các điểm yếu của mình để có thể tồn tại và phát triển bền vững.
Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường.
Sự phát triển của các DNVVN trong nền kinh tế thị trường góp phần quan trọng trong việc giải quyết những mục tiêu kinh tế – xã hội ở một số mặt:
Đóng góp một phần lớn vào sự gia tăng thu nhập quốc dân.
DNVVN chiếm tỷ lệ cao về số lượng doanh nghiệp (chiếm 97% trong tổng số doanh nghiệp trên cả nước ), thu hút nhiều lao động và đóng góp đáng kể vào tổng thu nhập quốc dân và tăng trưởng kinh tế. Theo tính toán của các nước thì DNVVN đóng góp rất lớn vào sự gia tăng thu nhập quốc dân của các nước, bình quân chiếm khoảng dưới 50% GDP ở mỗi nước.
DNVVN hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực, các ngành nghề, đặc biệt là các loại hàng hoá mang tính chất vùng, địa phương. Với nguồn lực sẵn có của địa phương cùng với đội ngũ nhân công lành nghề của doanh nghiệp, rất nhiều sản phẩm được ra đời đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. DNVVN tham gia cung cấp một khối lượng hàng hoá đáng kể trong xã hội, đóng vai trò quan trọng trong lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ trong nền kinh tế.
Góp phần giải quyết công ăn việc làm.
Sự có mặt của các DNVVN đã tham gia giải quyết một số lượng lớn lao động trên cả nước, đặc biệt là lao động giản đơn, lao động thủ công, làm giảm sức ép việc làm trong xã hội, góp phần xoá đói giảm nghèo.
Mặc dù số lao động của mỗi DNVVN ít nhưng do số lượng DNVVN lớn nên tổng số lao động làm việc tại các DNVVN chiếm tỷ lệ rất cao. Vì thê vai trò của các DNVVN hết sức quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm, đáp ứng nhu cầu việc làm của người dân, góp phần tạo ra thu nhập và nâng cao mức sống cho người dân.
Khai thác và phát huy tốt các nguồn lực tại chỗ.
Do tính chất nhỏ bé, quy mô vốn ban đầu không nhiều nên DNVVN có thể được thành lập ở tất cả địa phương, tận dụng được những lợi thế ngay tại chỗ, giảm chi phí sản xuất, tránh gây lãng phí nguồn lực tài nguyên sẵn có.
DNVVN đã sử dụng hơn ½ lực lượng sản xuất lao động phi nông nghiệp (58%) trong cả nước, và tại một số vùng nó đã sử dụng tuyệt đại đa số lực lượng sản xuất lao động phi nông nghiệp.
Khu vực DNVVN thu hút được khá nhiều vốn trong dân tham gia vào sản xuất kinh doanh, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công nghiệp phát triển mạnh, đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại, dịch vụ phát triển.
Tạo ra môi trường cạnh tranh, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển có hiệu quả hơn.
Sự hình thành rất nhiều DNVVN trên mọi lĩnh vực, làm cho số lượng và chủng loại sản phẩm sản xuất tăng lên rất nhanh. Kết quả là làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường, tạo sức ép buộc các doanh nghiệp thường xuyên phải đổi mới mặt hàng, giảm chi phí, tăng chất lượng để thích ứng với môi trường mới và có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Những yếu tố đó có tác động lớn làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn.
Việc hình thành các cơ sở sản xuất ngay tại nông thôn, hình thành các đô thị nhỏ đan xen giữa những làng quê, thực hiện quá trình đô thị hoá phi tập trung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình CNH-HĐH ở các nước đang phát triển như nước ta.
Hình thành và phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động.
Các DNVVN thường xuyên phải thay đổi để thích nghi với môi trường xung quanh, phản ứng với những tác động bất lợi của nền kinh tế, đòi hỏi những người quản lý và sáng lập ra các DNVVN phải có tính linh hoạt cao trong quản lý và điều hành, dám nghĩ, dám làm và chấp nhận sự mạo hiểm.
Tịch tụ, tập trung hoá sản xuất, sáp nhập, giải thể là các hoạt động thường xuyên diễn ra ở khu vực DNVVN trong mọi giai đoạn. Đây là một sức ép lớn buộc các nhà quản lý các DNVVN luôn phải đổi mới, tìm kiếm các phương thức mới, đặt ra nhiệm vụ chuyển đổi cho phù hợp với môi trường kinh doanh.
Với một số lượng lớn và một tỷ lệ lớn các DNVVN, thì sự có mặt của đội ngũ các nhà quản lý này có một vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra một cơ cấu kinh tế năng động, linh hoạt và phù hợp với những biến động thị trường.
Qua các phân tích ở trên chúng ta có thể thấy rõ vai trò và tầm quan trọng của các DNVVN đối với kinh tế. Do đó, việc khuyến khích, hỗ trợ phát triển các DNVVN là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nước ta trong thời gian tới.
Tín dụng ngân hàng và chất lượng tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tín dụng ngân hàng.
Khái niệm.
Trong thực tế, thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, ngay cả trong quan hệ tài chính tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể, mà thuật ngữ tín dụng có một nội dung riêng. Chúng ta có thể được thuật ngữ tín dụng như sau: “Tín dụng là một giao dịch về tài sản ( tiền hoặc hàng hoá ) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán”.
Từ định nghĩa tín dụng trên ta có khái niệm về tín dụng ngân hàng:
“Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng vốn giữa ngân hàng với các chủ thể kinh tế khác trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay”.
Với tư cách là người đi vay : ngân hàng huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội bằng hình thức nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu.
Với tư cách là người cho vay: ngân hàng đáp ứng nhu cầu cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khi các đối tượng này có nhu cầu về vốn bổ sung trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Với vai trò này, ngân hàng đã thực hiện chức năng phân phối lại vốn, tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tái sản xuất xã hội.
Đây là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt đầy đủ và kịp thời.
Đặc trưng.
Về cơ sở tín dụng: Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên cơ sở lòng tin. Chỉ khi ngân hàng tin tưởng người đi vay sẽ sử dụng vốn vay có hiệu quả và hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi cho ngân hàng thì lúc đó mới thiết lập quan hệ tín dụng. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong thực tế khi một số nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm về khách hàng mà lại chú trọng đến các đảm bảo, chính quan điểm này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Về tài sản giao dịch: tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng tồn tại ở hai hình thức là cho vay và cho thuê (bất động sản và động sản). Trước đây, hoạt động tín dụng ngân hàng chỉ có hình thức cho vay bằng tiền. Từ những năm 1970 trở lại đây, dịch vụ cho thuê hoạt động và cho thuê tài chính đã được ngân hàng hoặc các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng.
Về nguyên tắc hoàn trả và thời gian hoàn trả: Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc có hoàn trả. Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời vốn vay trong một thời gian nhất định, sau khi hết thời hạn sử dụng đã thoả thuận thì người đi vay phải hoàn trả cho ngân hàng.
Về giá trị hoàn trả: giá trị hoàn trả thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài gốc. Để thực hiện được nguyên tắc này, ngân hàng phải xác định lãi xuất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát, hay nói cách khác lãi xuất thực phải dương ( Lãi suất thực = Lãi xuất danh nghĩa- Tỷ lệ lạm phát ). Tuy nhiên, vì lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, nên trong một số trường hợp cụ thể lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn tỷ lệ lạm phát. Ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn và sẽ được điều chỉnh nhanh chóng.
Ngoài ra, trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng luôn bị chi phối bởi các quy luật khách quan như quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị và quy luật lưu thông tiền tệ. Hoạt động TDNH trong nền kinh tế thị trường luôn chứa đựng khả năng rủi ro vì nếu người vay vốn hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì mới trả được cho ngân hàng. Trong khi đó, có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến người vay như: giá cả thị trường biến động, thiên tai , khủng hoảng kinh tế, chính trị.
Phân loại.
Theo luật các tổ chức tín dụng thì: “Các tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức: cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của ngân hàng Nhà nước”. Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại tín dụng có cơ sở khoa học là tiền đề để thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Người ta có thể dựa trên những tiêu chí khác nhau để phân loại tín dụng:
Căn cứ vào mục đích cho vay:
- Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến vi