1.Tính cấp thiết của đề tài.
Nền kinh tế Việt Nam đang có những chuyển biến tích cực theo cơ chế thị trường với xu thế hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới trong đó hoạt động bảo hiểm đang phát triển ngày càng mạnh mẽ đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Hoà vào xu thế phát triển chung đó, rất nhiều công ty bảo hiểm đã được thành lập và đi vào hoạt động, trong đó công ty bảo hiểm Dầu khí Việt Nam PVI với hơn 10 năm hoạt động trên thị trường đã thu được nhiều thành quả đáng khích lệ. Công ty bảo hiểm Dầu Khí Hà Nội là một trong 12 chi nhánh của PVI được thành lập vào tháng 8/2006,đây là một chi nhánh còn rất trẻ nhưng đã biết tận dụng lợi thế của mình là đóng tại thành phố Hà Nội –trung tâm kinh tế,chính trị,văn hoá của cả nước để vươn lên và giành được những thành quả ban đầu.Với chiến lược kinh doanh rõ ràng và những lợi thế được tận dụng tối đa,PVI Hà Nội hi vọng sẽ bắt nhịp và trở thành chi nhánh chủ đạo,xứng đáng với tầm quan trọng của mình.
Trong thời gian thực tập tại PVI Hà Nội, em được tiếp cận với các nghiệp vụ được triển khai tại công ty và nhận thấy nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển là một trong những nghiệp vụ có vai trò rất quan trọng đối với công ty và có cơ hội phát triển rất lớn tuy nhiên hiện nay nghiệp vụ này vẫn gặp phải một số khó khăn lớn, đặc biệt là trong khâu khai thác và những điều này đã hạn chế rất nhiều đến khả năng phát triển của nghiệp vụ chính vì vậy em đã chọn đề tài:” Nâng cao hiệu quả khai thác nghiệp vụ BH hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển tại công ty bảo hiểm dầu khí Hà Nội” với mong muốn có thể đưa ra một vài khuyến nghị dựa trên những phân tích mang tính khoa học về tình hình thực tế tại công ty để góp phần giải quyết những khó khăn trong công tác khai thác nghiệp vụ này và biến nó trở thành một trong những nghiệp vụ mạnh,đóng góp nhiều hơn nữa cho sự phát triển toàn diện của công ty.
2.Kết cấu chuyên đề
Tên chuyên đề: “Nâng cao hiệu quả khai thác nghiệp vụ BH hàng hoá XNK bằng đường biển tại công ty bảo hiểm Dầu Khí Hà Nội”.
Ngoài lời mở đầu và trang kết luận, nội dung chuyên đề gồm có 3 chương:
- Chương I: Khái quát chung về BH hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển và công tác khai thác trong BH hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
- Chương II: Thực trạng công tác khai thác nghiệp vụ bảo hiểm Xuất nhập khẩu bằng đường biển tại công ty bảo hiểm Dầu Khí Hà Nội.
- Chương III: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển tại công ty bảo hiểm Dầu khí Hà Nội.
112 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2432 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao hiệu quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển tại công ty bảo hiểm dầu khí Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU.
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Nền kinh tế Việt Nam đang có những chuyển biến tích cực theo cơ chế thị trường với xu thế hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới trong đó hoạt động bảo hiểm đang phát triển ngày càng mạnh mẽ đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Hoà vào xu thế phát triển chung đó, rất nhiều công ty bảo hiểm đã được thành lập và đi vào hoạt động, trong đó công ty bảo hiểm Dầu khí Việt Nam PVI với hơn 10 năm hoạt động trên thị trường đã thu được nhiều thành quả đáng khích lệ. Công ty bảo hiểm Dầu Khí Hà Nội là một trong 12 chi nhánh của PVI được thành lập vào tháng 8/2006,đây là một chi nhánh còn rất trẻ nhưng đã biết tận dụng lợi thế của mình là đóng tại thành phố Hà Nội –trung tâm kinh tế,chính trị,văn hoá của cả nước để vươn lên và giành được những thành quả ban đầu.Với chiến lược kinh doanh rõ ràng và những lợi thế được tận dụng tối đa,PVI Hà Nội hi vọng sẽ bắt nhịp và trở thành chi nhánh chủ đạo,xứng đáng với tầm quan trọng của mình.
Trong thời gian thực tập tại PVI Hà Nội, em được tiếp cận với các nghiệp vụ được triển khai tại công ty và nhận thấy nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển là một trong những nghiệp vụ có vai trò rất quan trọng đối với công ty và có cơ hội phát triển rất lớn tuy nhiên hiện nay nghiệp vụ này vẫn gặp phải một số khó khăn lớn, đặc biệt là trong khâu khai thác và những điều này đã hạn chế rất nhiều đến khả năng phát triển của nghiệp vụ chính vì vậy em đã chọn đề tài:” Nâng cao hiệu quả khai thác nghiệp vụ BH hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển tại công ty bảo hiểm dầu khí Hà Nội” với mong muốn có thể đưa ra một vài khuyến nghị dựa trên những phân tích mang tính khoa học về tình hình thực tế tại công ty để góp phần giải quyết những khó khăn trong công tác khai thác nghiệp vụ này và biến nó trở thành một trong những nghiệp vụ mạnh,đóng góp nhiều hơn nữa cho sự phát triển toàn diện của công ty.
2.Kết cấu chuyên đề
Tên chuyên đề: “Nâng cao hiệu quả khai thác nghiệp vụ BH hàng hoá XNK bằng đường biển tại công ty bảo hiểm Dầu Khí Hà Nội”.
Ngoài lời mở đầu và trang kết luận, nội dung chuyên đề gồm có 3 chương:
- Chương I: Khái quát chung về BH hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển và công tác khai thác trong BH hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
- Chương II: Thực trạng công tác khai thác nghiệp vụ bảo hiểm Xuất nhập khẩu bằng đường biển tại công ty bảo hiểm Dầu Khí Hà Nội.
- Chương III: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển tại công ty bảo hiểm Dầu khí Hà Nội.
Chương I- KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ CÔNG TÁC KHAI THÁC TRONG BH HÀNG HOÁ XNK VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN.
1.1.Tổng quan về BH hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
1.1.1.Vai trò của vận chuyển bằng đường biển và các loại rủi ro,tổn thất trong quá trình vận chuyển bằng đường biển.
1.1.1.1.Vai trò của vận chuyển bằng đường biển.
Trong xu thế vận động và phát triển của kinh tế toàn cầu ngày nay,thương mại ngày càng phát triển mạnh mẽ,đặc biệt là thương mại quốc tế, trong đó vận chuyển đóng một vai trò vô cùng quan trọng, là cầu nối cho sự lưu thông và phát triển của thương mại quốc tế.Có thể nói “không có thương mại nếu không có vận chuyển”,đặc biệt là vận chuyển bằng đường biển chiếm khoảng 90% tổng khối lượng hàng hoá XNK của thế giới.Có rất nhiều lý do khiến vận chuyển bằng đường biển trở nên phổ biến như vậy:
- Vận chuyển bằng đường biển có thể đảm nhận những khối lượng hàng hoá lớn với khối lượng lớn mà các phương tiện vận tải khác không làm được chẳng hạn vận chuyển các loại hàng hoá siêu trường, siêu trọng.
- Hiệu quả sử dụng của các tuyến đường cao vì đường biển rất rộng lớn mà chi phí đầu tư xây dựng không cao do dựa nhiều vào điều kiện tự nhiên.Cũng chính vì vậy mà giá thành vận chuyển bằng đường biển thường thấp hơn so với các phương tiện khác.
- Vận chuyển bằng đường biển còn có đặc thù là trải qua nhiều vùng biển khác nhau và nhiều nước khác nhau nên nó góp phần phát triển tốt mối quan hệ kinh tế với các nước và mở rộng quan hệ làm ăn cho các bên,góp phần tăng thu ngoại tệ cho Nhà Nước.
1.1.1.2.Các loại rủi ro,tổn thất trong vận chuyển bằng đường biển.
Các loại rủi ro.
Mặc dù vận chuyển bằng đường biển có rất nhiều lợi thế nhưng nó vẫn tồn tại một số nhược điểm mà nhược điểm lớn nhất chính là khả năng xày ra rủi ro đối với tàu biển là khá lớn,không những thế giá trị tổn thất khi xảy ra rủi ro cũng rất cao. Rủi ro ở đây được hiểu là rủi ro hàng hải,đó là những rủi ro do thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển gây ra làm hư hỏng hàng hoá và phương tiện chuyên chở.Để tiện cho việc kiểm soát và sử dụng các biện pháp khắc phục người ta thường phân loại các loại rủi ro theo nguyên nhân, theo đó có rủi ro do thiên tai, rủi ro do tai nạn bất ngờ trên biển và rủi ro do hành động của con người :
+ Thiên tai là những hiện tượng do thiên nhiên gây ra như biển động, bão, lốc, sét,thời tiết quá xấu… mà con người không chống lại được.
+ Tai nạn bất ngờ trên biển:Mắc cạn, đắm tàu, bị phá huỷ, cháy nổ,mất tích, đâm va với các tàu khác hoặc đâm va với một vật thể nào đó mà không phải là nước,sự phá hoại của thuyền trưởng và thuỷ thủ trên tàu…
+ Hành động của con người:Ăn trộm, ăn cắp hàng,mất cướp, chiến tranh, đình công,bắt giữ,tịch thu…
Ngoài ra còn có các rủi ro khác như rủi ro lúc xếp dỡ hàng,hàng bị nhiễm mùi, lây bẩn…
Các loại tổn thất.
Rủi ro xảy ra thường gây ra tổn thất đối với hàng hoá được vận chuyển bằng đường biển, thông thường rủi ro được phân chia theo các cách sau:
- Căn cứ vào mức độ và quy mô, tổn thất đựơc chia thành hai loại:
+ Tổn thất bộ phận (patial loss): Là sự mất mát một phần đối tượng bảo hiểm thuộc một hợp đồng bảo hiểm. Ví dụ lô hàng 10 tấn đường trong quá trình vận chuyển bị tổn thất 1 tấn.
+ Tổn thất toàn bộ (total loss): Là hàng hóa bảo hiểm bị mất 100% giá trị hoặc gía trị sử dụng. Tổn thất toàn bộ gồm 2 loại:
* Loại 1: Tổn thất toàn bộ thực sự (actual total loss) : Là tổn thất mà do hàng hóa bị phá hủy hoàn toàn hay bị hư hỏng nghiêm trọng không còn là vật phẩm như cũ hoặc người được bảo hiểm bị tước quyền sở hữu với hàng hóa.
Như vậy tổn thất toàn bộ thực sự có thể là do hàng hóa bảo hiểm bị phá hủy hoàn toàn như cháy hoặc nổ, hay hàng hóa bị hư hỏng nghiêm trọng như gạo hay ngô bị thối do ngấm nước hoặc người được bảo hiểm bị tước hẳn quyền sở hữu đối với hàng hóa như hàng vị mất do mất tích hay do tầu bị đắm.
* Loại 2: Tổn thất toàn bộ ước tính (contructive total loss) : Là tổn thất về hàng hóa mà không sao tránh khỏi tổn thất toàn bộ thực sự hay những chi phí phải bỏ ra để sửa chữa, khôi phục và đưa hàng hóa về bến đến bằng hoặc vượt quá trị giá hàng hóa.
Tổn thất toàn bộ ước tính gồm 2 dạng:
Thứ nhất: Chắc chắn tổn thất toàn bộ thực sự sẽ xảy ra, ví dụ một lô ngô được chở từ nước ngoài về Việt Nam, dọc đường ngô bị ngấm nước và bắt đầu thối, nếu cố mang về Việt Nam thì ngô sẽ thối hết, tổn thất toàn bộ thực sự chắc chắn sẽ xảy ra.
Thứ hai: Xét về tài chính thì coi là tổn thất toàn bộ, ví dụ vận chuyển sắt thép từ nước ngoài về Việt Nam, dọc đường tàu hỏng máy buộc phải vào Hồng Kông để sửa chữa. Ðể chữa tàu phải dỡ sắt lên bờ, trong thời gian chữa phải lưu kho lưu bãi sắt thép, khi chữa xong phải tái xếp sắt thép xuống tàu và đưa sắt thép về Việt Nam. Tổng các chi phí phải bỏ ra trong trường hợp này có thể bằng hoặc lớn hơn trị giá bảo hiểm của sắt thép.
Khi hàng hóa bị tổn thất toàn bộ ước tính, người được bảo hiểm có thể từ bỏ hàng hóa. Từ bỏ hàng hóa là từ bỏ mọi quyền lợi liên quan đến hàng hóa hay là sự tự nguyện của người được bảo hiểm chuyển quyền sở hữu về hàng hóa cho người bảo hiểm để đòi bồi thường toàn bộ. Muốn từ bỏ hàng phải tuân thủ các quy định sau;
Một là: Tuyên bố từ bỏ hàng (notice of abandonment - NOA) gửi cho người bảo hiểm bằng văn bản.
Hai là: Chỉ từ bỏ khi hàng hóa còn ở dọc đường và chưa bị tổn thất toàn bộ thực sự.
Ba là: Khi từ bỏ đã được người bảo hiểm chấp nhận thì không thay đổi được nữa, sở hữu về hàng hoá thuộc về người bảo hiểm và người được bảo hiểm được đòi bồi thường toàn bộ.
- Căn cứ vào quyền lợi và trách nhiệm, tổn thất được chia làm hai loại:
+ Tổn thất riêng (particular average) : Là tổn thất của từng quyền lợi bảo hiểm do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây nên. Ví dụ, dọc đường tàu bị sét đánh làm hàng hóa của chủ hàng A bị cháy, tổn thất của hàng A là do thiên tai, chủ hàng A phải tự chịu, hoặc đòi công ty bảo hiểm, không được phan bổ tổn thất cho chủ tàu và các chủ hàng khác. Tổn thất trong trường hợp này là tổn thất riêng.
+ Tổn thất chung (general average): Là những thiệt hại xảy ra do những chi phí hoặc hi sinh đặc biệt được tiến hành một cách cố ý và hợp lý nhằm mục đích cứu tàu, hàng hóa và cước phí trong một hành trình chung trên biển khỏi sự nguy hiểm chung đối với chúng.
Tổn thất chung được chia làm 2 bộ phận
* Bộ phận thứ nhất: Hy sinh tổn thất chung : Là những thiệt hại hoặc chi phí do hậu quả trực tiếp của một hành động tổn thất chung. Ví dụ: Tàu gặp bão lớn, buộc phải vứt hàng của chủ hàng A xuống biển để cứu toàn bộ hành trình. Hàng A bị vứt xuống biển là hy sinh tổn thất chung.
* Bộ phận thứ 2: Chi phí tổn thất chung: Phải trả cho người thứ ba trong việc cứu tàu, hàng, cước phí thoát nạn hoặc chi phí làm cho tàu tiếp tục hành trình. Những chi phí sau đây được coi là chi phí tổn thất chung; Chi phí tàu ra vào cảng lánh nạn, chi phí lưu kho lưu bãi tại cảng lánh nạn, chi phí tạm thời sửa chữa những hư hại của tàu, chi phí tăng thêm về nhiên liệu... do hậu quả của hành động tổn thất chung.
Các thiệt hại,chi phí hoặc hành động được coi là tổn thất chung khi có các đặc trưng sau:
Hành động cứu tàu phải là hành động tự nguyện,hữu ý của người có quyền hành trên biển là thuyền trưởng hoặc người thay mặt thuyền trưởng.
Hy sinh hoặc chi phí phải đặc biệt, bất thường.
Hy sinh hoặc chi phí phải hợp lý và vì an toàn chung, vì lợi ích chung của tất cả quyền lợi của các bên liên quan trong cuộc hành trình.
Nguy cơ đe doạ toàn bộ hành trình phải nghiêm trọng và thực tế.
Mất mát,thiệt hại hoặc chi phí phải là hậu quả trực tiếp của hành động tổn thất chung.
TTC phải xảy ra trên biển.
TTC và TTR có những điểm khác nhau: TTR xảy ra một cách ngẫu nhiên và chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi riêng biệt của các bên mà không có sự đóng góp chung trong khi TTC là cố tình và có sự chia sẻ tổn thất của các bên có liên quan.TTR có thể xảy ra trên biển hoặc bất kì địa điểm nào khác trong khi TTC chỉ xảy ra trên biển và đây là loại tổn thất mà công ty bảo hiểm luôn chịu trách nhiệm bồi thường cho các chủ hàng đối với mức đóng góp của mỗi bên còn đối với TTR công ty bảo hiểm có bồi thường hay không còn tuỳ vào điều kiện bảo hiểm.Thông thường khi có TTC xảy ra công ty bảo hiểm phải tiến hành tính toán mức độ đóng góp tổn thất của các bên để bồi thường hợp lý.
1.1.2.Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá vận chuyển bằng đường biển gặp rất nhiều rủi ro và tổn thất khó lường , trong lịch sử đã có không ít các rủi ro gây tổn thất rất lớn cho các chủ hàng, gây ra những ảnh hưởng rất xấu đến công việc kinh doanh của họ và con người đã có nhiều biện pháp chống lại những tác động xấu này nhưng thực tế cho thấy biện pháp hữu hiệu nhất là bảo hiểm. Hình thức sơ khai ban đầu là các chủ hàng đã tự bảo hiểm cho nhau bằng cách cùng chở hàng cho nhiều chủ hàng trên một con tàu, như vậy nếu có xảy ra rủi ro tổn thất thì các chủ hàng sẽ san sẻ tổn thất cho nhau và không ai phải gánh chịu rủi ro một mình cả, đây là cách làm rất hiệu quả vì vậy nó tiếp tục được nhân rộng và hoàn thiện dưới dạng các đơn bảo hiểm được cung cấp đa dạng bởi các công ty bảo hiểm như ngày nay. Vì bảo hiểm có quy mô và phạm vi bảo vệ rộng nên nó có thể đảm nhận vai trò là tấm lá chắn cho các chủ hàng khỏi những tổn thất lớn về tài chính mà họ không thể kham nổi. Nếu không có bảo hiểm các chủ hàng có thể sẽ không thể vực dậy hoạt động kinh doanh của mình khi có những tổn thất lớn xảy ra, nền kinh tế có thể sẽ gặp phải những biến động lớn khi những tổn thất mang tính chất thảm hoạ, chính bảo hiểm sẽ là tấm lá chắn che chở cho hoạt động kinh tế của các chủ thể diễn ra một cách an toàn và thông suốt. Hơn thế nữa,bảo hiểm cho hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển góp phần thúc đẩy mối quan hệ kinh tế quốc tế thông qua con đường thương mại và còn có ảnh hưởng tới vấn đề kinh tế xã hội của cả nước xuất khẩu và nước nhập khẩu.Chính vì lẽ đó, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu trở thành một vấn đề quan trọng và cần thiết,trở thành tập quán thương mại quốc tế bắt buộc được áp dụng rộng rãi trên thế giới ngày nay.
1.1.3.Những nội dung cơ bản của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển.
1.1.3.1.Đối tượng bảo hiểm và trách nhiệm các bên liên quan
Đối tượng được bảo hiểm là hàng hoá xuất nhập khẩu được vận chuyển và xếp dỡ bằng đường biển có giấy tờ mua bán và nguồn gốc xuất xứ rõ ràng được thể hiện qua các hợp đồng mua bán,hợp đồng vận chuyển và hợp đồng giao nhận.
Thông thường hoạt động XNK hàng hoá được thực hiện qua 3 loại hợp đồng cụ thể là:
- Hợp đồng mua bán
- Hợp đồng vận chuyển
- Hợp đồng bảo hiểm
Ba loại hợp đồng này cũng là cơ sở pháp lý để phân định trách nhiệm của các bên liên quan và trách nhiệm này phụ thuộc vào điều kiện mua hàng của hợp đồng mua bán.Theo các điều kiện thương mại quốc tế “INCOTERM 2000”(international commercial terms) thì hiện nay có 13 loại điều kiện giao hàng được chia thành 4 nhóm như sau:
- Nhóm E: EXW(ex-work) nghĩa là điều kiện trong đó hàng xuất đi được bảo hiểm kể từ khi nó được giao tại cơ sở của người bán
- Nhóm F: Hàng hoá được bảo hiểm không bao gồm cước vận chuyển chính và bao gồm các điều kiện giao hàng cụ thể sau:
+ FCA( free carrier ) : hàng được bảo hiểm kể từ khi nó được giao cho người vận chuyển gọi là điều kiện giao hàng cho người vận chuyển
+ FAS( free alongside ship): hàng hoá được bảo hiểm kể từ khi nó được giao qua mạn tàu gọi là điều kiện giao hàng dọc mạn tàu.
+ FOB (free on board) : hàng hoá được bảo hiểm khi nó đã nằm trên tàu gọi là điều kiện giao hàng lên tàu.
- Nhóm C :Hàng hoá được bảo hiểm đã bao gồm cả cước vận chuyển chính và bao gồm các điều kiện giao hàng cụ thể sau:
+ CFR( Cost and freight): Giá trị bảo hiểm được bao gồm tiền hàng và cước phí vận chuyển
+ CIF( Cost insurance freight) : Giá trị bảo hiểm bao gồm tiền hàng, phí bảo hiểm và cước phí.
+ CPT ( carriage paid to…): cước trả tới
+ CIP ( Carriage and insurance paid to…) tiền cước và phí bảo hiểm trả tới.
-Nhóm D: Bảo hiểm cho hàng hoá khi hàng đến, tức là khi người bán đã giao hàng tại nước người mua, bao gồm:
+ DAF (Delivered at frontier) : bắt đầu bảo hiểm có hiệu lực khi hàng hoá được giao tại biên giới
+ DES ( Delivered ex-ship): bắt đầu bảo hiểm có hiệu lực khi hàng hoá được giao tại tàu.
+ DEQ(Delivered ex-quay): bắt đầu bảo hiểm có hiệu lực khi hàng hoá được giao tại cầu cảng.
+ DDU( Delivered duty paid) : hàng hoá bắt đầu được bảo hiểm khi nó được giao tại đích và đã nộp thuế cho hải quan.
Trong các điều kiện trên thì điều kiện FOB và điều kiện CIF là được sử dụng thường xuyên nhất trong đó điều kiện FOB thường được các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng khi xuất khẩu và điều kiện CIF thường được sử dụng khi nhập khẩu.
Về cơ bản, trách nhiệm của các bên được phân chia như sau:
- Người bán(người xuất khẩu): Chuẩn bị hàng hoá theo đúng hợp đồng về số lượng, chất lượng, loại hàng,bao bì đóng gói, thời hạn tập kết hàng ở cảng. thủ tục hải quan, kiểm dịch…
Nếu bán theo giá CIF thì người bán phải mua bảo hiểm cho hàng hoá, sau đó kí hậu vào đơn bảo hiểm để chuyển nhượng quyền lợi bảo hiểm cho người mua.
- Người mua(người nhập khẩu) :Có trách nhiệm nhận hàng của người chuyên chở theo đúng số lượng, chất lượng đã ghi trong hợp đồng vận chuyển và hợp đồng mua bán, lấy giấy chứng nhận kiểm đến. biên bản kết toán giao nhận hàng với chủ tàu, biên bản hàng hoá hư hỏng đổ vỡ do tàu gây nên (nếu có).
Nếu sai lệch về số lượng, chất lượng với hợp đồng mua bán nhưng đúng đối với hợp đồng vận chuyển thì người mua bảo lưu quyền khiếu nại đối với người bán.Nếu phẩm chất, số lượng sai lệch so với biên bản giao hàng thì người mua căn cứ vào hang hư hỏng do tàu đổ vỡ gây nên mà khiếu nại người vận chuyển.
Ngoài ra, người mua còn có trách nhiệm mua bảo hiểm cho hàng hoá hoặc nhận hợp đồng bảo hiểm do người bán chuyển nhượng lại.
- Người vận chuyển: Có trách nhiệm chuẩn bị phương tiện vận chuyển theo yêu cầu kỹ thuật thương mại và kỹ thuật hàng hải,giao nhận hàng theo đúng quy định của hợp đồng vận chuyển. Theo tập quán thương mại quốc tế, tàu chở hàng cũng được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm thân tàu.Ngoài ra, người vận chuyển còn có trách nhiệm cấp vận đơn cho người gửi hàng. Vận đơn( Bill of Lading) là một chứng từ vận chuyển hàng trên biển do người vận chuyển cấp cho người gửi hàng nhằm nói lên mối quan hệ pháp lý giữa người vận chuyển, người gửi hàng và người nhận hàng.
- Người bảo hiểm có trách nhiệm đối với hàng hoá đăng kí bảo hiểm.Chẳng hạn kiểm tra chứng từ về hàng hoá,về hành trình và bản thân con tàu vận chuyển…
1.1.3.2.Giá trị bảo hiểm,Số tiền bảo hiểm và Phí bảo hiểm.
Giá trị bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm(GTBH) là giá trị thực tế của lô hàng đăng kí tham gia bảo hiểm,thường là giá CIF,bao gồm : Giá hàng hoá, cước phí vận chuyển,phí bảo hiểm và các chi phí liên quan khác.Ngoài ra để đáp ứng nhu cầu khách hàng, các công ty bảo hiểm còn tổ chức bảo hiểm cho lợi nhuận dự tính của lô hàng.
Giả sử là các hợp đồng bảo hiểm đều bảo hiểm cho cả lô hàng hoá và cả lợi nhuận thương mại của lô hàng(tối đa 10% giá CIF) thì giá trị bảo hiểm của lô hàng lớn nhất bằng 110% CIF. Có thể xác định giá trị bảo hiểm( GTBH ) theo giá CIF theo công thức sau:
V=C+F/1-R
Trong đó:
- V (Value) là GTBH của hàng hoá XNK theo giá CIF
- C(Cost) là giá hàng được tính bằng giá FOB ở cảng đi
- F(freight) là cước phí vận chuyển
- R(rate) là tỷ lệ phí bảo hiểm
Hoặc nếu bảo hiểm theo lãi dự tính thì GTBH = (C+F).(a+1)/1-R
Trong đó a là tỉ lệ phần trăm lãi dự tính của lô hàng so với tổng giá trị của lô hàng(gồm giá trị hàng hoá và cước phí vận chuyển)
Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm(STBH ) là số tiền được đăng kí bảo hiểm ghi trong hợp đồng bảo hiểm,nó được xác định trên cơ sở GTBH . GTBH lại thường được xác định căn cứ vào hoá đơn hàng hoá.Thường thì có 3 trường hợp sau đây:
-Nếu STBH bằng GTBH thì gọi là bảo hiểm ngang giá trị hay bảo hiểm toàn phần.
-Nếu STBH cao hơn GTBH thì gọi là bảo hiểm trên giá trị hay bảo hiểm vượt mức
-Nếu STBH thấp hơn GTBH thì gọi là bảo hiểm dưới giá trị hay bảo hiểm dưới mức.
Các chủ hàng thường đăng kí bảo hiểm cho hàng hoá theo bảo hiểm ngang giá trị hoặc thấp hơn giá trị.
Phí bảo hiểm.
Khi tham gia bảo hiểm, người tham gia phải trả cho nhà bảo hiểm một khoản phí gọi là phí bảo hiểm để nhà bảo hiểm bảo hiểm cho những rủi ro mà hàng hoá có thể gặp phải.Phí bảo hiểm được xác định trên cơ sở STBH và tỷ lệ phí bảo hiểm.Phí bảo hiểm(P) được xác định như sau:
P = Sb.R
Trong đó:
- Sb là STBH
- R là Tỷ lệ phí bảo hiểm được tính toán dựa trên các điều kiện liên quan đến đối tượng bảo hiểm như GTBH, điều kiện bảo hiểm, mức khấu trừ, hạn mức trách nhiệm của các công ty bảo hiểm v.v…
Như đã nói ở trên,vì các chủ hàng thường mua bảo hiểm ngang giá trị nên phí bảo hiểm có thể được xác định theo công thức :
P=CIF.R(nếu không có phần bảo hiểm thêm cho lãi dự tính)
Hoặc P=CIF.(a+1).R(nếu bảo hiểm thêm phần lãi dự tính a)
Tỷ lệ phí bảo hiểm R được thoả thuận và quy định trong hợp đồng bảo hiểm.Tỷ lệ này phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Loại hàng hoá:Hàng dễ bị tổn thất nhưng dễ vỡ,dễ bị mất cắp thì tỉ lệ phí bảo hiểm sẽ cao hơn.
- Loại bao bì:Bao bì càng chắc chắn thì tỷ lệ phí bảo hiểm càng hạ
- Phương tiện vận chuyển cũng là một nhân tố quan trọng quyết định đến tỷ lệ phí bảo hiểm:hàng hoá được chở trên t