1- Tính cấp thiết của đề tài:
Trong tiến trình đổi mới của đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã dành sự quan tâm đặc biệt của mình vào xoá đói, giảm nghèo. Mục tiêu này đang thực hiện bởi nhiều chương trình lớn của Chính phủ, trong những năm qua cùng với sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng: Nền kinh tế tiếp tục phát triển, xã hội ổn định, quan hệ ngoại giao mở rộng, tạo được những tiền đề cơ bản để đẩy nhanh công nghiệp hóa và hiện đại hoá đất nước. Song cùng với quá trình phát triển đó, bên cạnh sự tăng thu nhập của số đông dân cư vẫn tồn tại một bộ phận người nghèo khổ. Mặt khác, do tác động của cơ chế thị trường, sự tăng trưởng kinh tế thường đi đôi với sự phân hoá giàu nghèo, khoảng cách giàu nghèo ngày càng rõ rệt và có xu hướng ngày càng gia tăng.
Trước thực trạng đó đã đặt ra nhiều nhiệm vụ đối với Đảng và Nhà nước bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước còn phải quan tâm tới công cuộc xoá đói giảm nghèo (XĐGN).
Giải quyết vấn đề nghèo đói là một chủ trương lớn, một quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Tại Hội nghị đánh giá Chương trình Mục tiêu quốc gia về XĐGN tháng 10 năm 2003 Thủ tướng Chính phủ khẳng định: “Xoá đói giảm nghèo là một nhiệm vụ chiến lược lâu dài của Đảng, Nhà nước và toàn dân, là trách nhiệm xã hội của mọi cấp, mọi ngành, mọi tổ chức; nó thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Xoá đói giảm nghèo có ý nghĩa kinh tế xã hội, chính trị và nhân văn sâu sắc”.
Nhằm cụ thể hóa chủ trương này của Đảng và Nhà nước, thời gian qua các Bộ, Ngành đã trình Chính phủ ban hành một hệ thống cơ chế, chính sách và giải pháp để giúp người nghèo tiếp cận tốt hơn các dịch vụ sản xuất và các dịch vụ xã hội cơ bản, để tạo cho họ có cơ hội thuận lợi tự vươn lên thoát khỏi đói nghèo và trở nên khá giả, giàu có. Một trong những chính sách và giải pháp quan trọng đó là chính sách tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo.
Ngày 04 tháng 10 năm 2002 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 131/QĐ-TTg về việc thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH).
NHCSXH hoạt động không vì mục đích lợi nhuận mà thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Với mục đích khắc phục những tồn tại về mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của Ngân hàng Phục vụ người nghèo trước đây, tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại, thúc đẩy quá trình hiện đại và lành mạnh hoá hoạt động ngân hàng trong giai đoạn hiện nay; đồng thời nhằm tập trung và quản lý thống nhất những chương trình tín dụng ưu đãi, phối hợp lồng ghép có hiệu quả những dự án hỗ trợ xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn lực, phát triển thị trường lao động.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế này, tôi chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện Giao Thuỷ tỉnh Nam Định” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng ngân hàng nói chung và tín dụng đối với hộ nghèo của NHCSXH nói riêng.
- Phân tích thực trạng về hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo trong giai đoạn 2004 - 2006 tại Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Giao Thuỷ (PGD NHCSXH).
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo tại PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của chuyên đề:
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo của PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ
- Phạm vi nghiên cứu: Tín dụng đối với hộ nghèo của PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2004 đến năm 2006.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng về mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động tín dụng.
- Phương pháp duy vật lịch sử được áp dụng khi xem xét đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo của PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ có gắn với các điều kiện lịch sử nhất định.
- Phương pháp nghiên cứu kinh tế học cũng được sử dụng trong quá trình nghiên cứu: Đó là phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp kết hợp với quan sát thực tế để làm rõ đề tài nghiên cứu.
5. Kết cấu của chuyên đề:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội
Chương 2: Thực trạng hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ
73 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3379 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại phòng giao dịch ngân hàng chính sách xã hội huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Lời mở đầu
Trang
Chương I
Những vấn đề cơ bản về hiệu quả tín dụng đối với
hộ nghèo tại Ngân hàng chính sách xã hội
1.1
Đói nghèo và sự cần thiết phải giảm đói nghèo
6
1.1.1
Đói nghèo và hậu quả của đói nghèo
6
1.1.1.1
Khái niệm người nghèo
6
1.1.1.2
Hậu quả của đói nghèo
9
1.1.2
Sự cần thiết phải giảm đói nghèo
13
1.2.3
Các biện pháp để giảm đói nghèo
15
1.2
Hiệu quả tín dụng của Ngân hàng Chính sách xã hội
đối với hộ nghèo
16
1.2.1
Ngân hàng Chính sách xã hội
16
1.2.1.1
Tổ chức, bộ máy, mục tiêu hoạt động của NHCSXH
16
1.2.1.2
Các hoạt động cơ bản của NHCSXH
18
1.2.1.3
Tín dụng đối với người nghèo
18
1.2.2
Hiệu quả tín dụng đối với người nghèo
24
1.2.2.1
Khái niệm: hiệu quả tín dụng trên phương diện Ngân hàng, hiệu quả tín dụng đối với người nghèo
24
1.2.2.2
Các tiêu chí phản ánh hiệu quả đối với người nghèo
26
Chương II
Thực trạng hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo
tại Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội
huyện Giao Thuỷ
2.1
Thực trạng hộ nghèo tại huyện Giao Thuỷ
28
2.2
Giới thiệu về Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Giao Thuỷ
30
2.2.1
Quá trình hình thành và phát triển
30
2.2.2
Các hoạt động cơ bản của PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ
31
2.2.2.1
Huy động vốn
31
2.2.2.2
Cho vay các chương trình
31
2.3
Thực trạng hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo
33
2.3.1
Thực trạng cho vay đối với hộ nghèo
33
2.3.1.1
Cơ chế tín dụng đối với hộ nghèo của NHCSXH
33
2.3.1.2
Cho vay đối với hộ nghèo tại PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ
36
2.3.2
Hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo
39
2.3.3
Đánh giá hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo
42
Chương III
Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo
tại Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội
huyện Giao Thuỷ
3.1
Định hướng của Đảng và Nhà nước về xoá đói giảm nghèo
45
3.2
Định hướng của Ngân hàng Chính sách xã hội về tín dụng
đối với hộ nghèo
49
3.3
Các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ nghèo tại Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Giao Thuỷ
51
3.4
Kiến nghị
56
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Lời mở đầu
1- Tính cấp thiết của đề tài:
Trong tiến trình đổi mới của đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã dành sự quan tâm đặc biệt của mình vào xoá đói, giảm nghèo. Mục tiêu này đang thực hiện bởi nhiều chương trình lớn của Chính phủ, trong những năm qua cùng với sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng: Nền kinh tế tiếp tục phát triển, xã hội ổn định, quan hệ ngoại giao mở rộng, tạo được những tiền đề cơ bản để đẩy nhanh công nghiệp hóa và hiện đại hoá đất nước. Song cùng với quá trình phát triển đó, bên cạnh sự tăng thu nhập của số đông dân cư vẫn tồn tại một bộ phận người nghèo khổ. Mặt khác, do tác động của cơ chế thị trường, sự tăng trưởng kinh tế thường đi đôi với sự phân hoá giàu nghèo, khoảng cách giàu nghèo ngày càng rõ rệt và có xu hướng ngày càng gia tăng.
Trước thực trạng đó đã đặt ra nhiều nhiệm vụ đối với Đảng và Nhà nước bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước còn phải quan tâm tới công cuộc xoá đói giảm nghèo (XĐGN).
Giải quyết vấn đề nghèo đói là một chủ trương lớn, một quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Tại Hội nghị đánh giá Chương trình Mục tiêu quốc gia về XĐGN tháng 10 năm 2003 Thủ tướng Chính phủ khẳng định: “Xoá đói giảm nghèo là một nhiệm vụ chiến lược lâu dài của Đảng, Nhà nước và toàn dân, là trách nhiệm xã hội của mọi cấp, mọi ngành, mọi tổ chức; nó thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Xoá đói giảm nghèo có ý nghĩa kinh tế xã hội, chính trị và nhân văn sâu sắc”.
Nhằm cụ thể hóa chủ trương này của Đảng và Nhà nước, thời gian qua các Bộ, Ngành đã trình Chính phủ ban hành một hệ thống cơ chế, chính sách và giải pháp để giúp người nghèo tiếp cận tốt hơn các dịch vụ sản xuất và các dịch vụ xã hội cơ bản, để tạo cho họ có cơ hội thuận lợi tự vươn lên thoát khỏi đói nghèo và trở nên khá giả, giàu có. Một trong những chính sách và giải pháp quan trọng đó là chính sách tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo.
Ngày 04 tháng 10 năm 2002 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 131/QĐ-TTg về việc thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH).
NHCSXH hoạt động không vì mục đích lợi nhuận mà thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Với mục đích khắc phục những tồn tại về mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của Ngân hàng Phục vụ người nghèo trước đây, tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại, thúc đẩy quá trình hiện đại và lành mạnh hoá hoạt động ngân hàng trong giai đoạn hiện nay; đồng thời nhằm tập trung và quản lý thống nhất những chương trình tín dụng ưu đãi, phối hợp lồng ghép có hiệu quả những dự án hỗ trợ xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn lực, phát triển thị trường lao động.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế này, tôi chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện Giao Thuỷ tỉnh Nam Định” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng ngân hàng nói chung và tín dụng đối với hộ nghèo của NHCSXH nói riêng.
- Phân tích thực trạng về hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo trong giai đoạn 2004 - 2006 tại Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Giao Thuỷ (PGD NHCSXH).
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo tại PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của chuyên đề:
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo của PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ
- Phạm vi nghiên cứu: Tín dụng đối với hộ nghèo của PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2004 đến năm 2006.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng về mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động tín dụng.
- Phương pháp duy vật lịch sử được áp dụng khi xem xét đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo của PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ có gắn với các điều kiện lịch sử nhất định.
- Phương pháp nghiên cứu kinh tế học cũng được sử dụng trong quá trình nghiên cứu: Đó là phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp kết hợp với quan sát thực tế để làm rõ đề tài nghiên cứu.
5. Kết cấu của chuyên đề:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội
Chương 2: Thực trạng hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại PGD NHCSXH huyện Giao Thuỷ
Chương 1
Những vấn đề cơ bản về hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo
tại Ngân hàng Chính sách xã hội
1.1. đói nghèo và sự cần thiết phảI giảm đói nghèo:
1.1.1. Đói nghèo và hậu quả của đói nghèo:
1.1.1.1. Khái niệm người nghèo:
Quan niệm về nghèo đói hay nhận dạng về nghèo đói của từng quốc gia hay từng vùng, từng nhóm dân cư, nhìn chung không có sự khác biệt đáng kể, tiêu chí chung nhất để xác định nghèo đói vẫn là mức thu nhập hay chi tiêu để thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người về: ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục, văn hoá, đi lại và giao tiếp xã hội. Sự khác nhau chung nhất là thoả mãn ở mức cao hay thấp mà thôi, điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội cũng như phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc gia.
Tại Hội nghị về chống đói nghèo do Uỷ ban kinh tế xã hội khu vực Châu á - Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tại Bangkok, Thái Lan vào tháng 9/1993, các quốc gia trong khu vực đã thống nhất cao và cho rằng: “Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của từng vùng và những phong tục tập quán ấy được xã hội thừa nhận”.
Nhà kinh tế học người Mỹ Galbraith thì cho rằng: “ Con người bị coi là nghèo khổ khi mà thu nhập của họ, ngay dù khi thích đáng để họ có thể tồn tại, rơi xuống rõ rệt dưới mức thu nhập của cộng đồng coi như cái cần thiết tối thiểu để sống một cách đúng mức”.
Hội nghị thượng đỉnh về phát triển xã hội tổ chức tại Copennhagen Đan Mạch năm 1995 đã đưa ra một định nghĩa cụ thể hơn về nghèo đói như sau: “Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới 1 đô la (USD) mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại”.
Các quan niệm về nghèo đói nêu trên phản ánh 3 khía cạnh chủ yếu của người nghèo:
- Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản tối thiểu dành cho con người.
- Có mức thu nhập thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư.
- Thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
* Các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo:
Đói nghèo do nhiều nguyên nhân, nhưng có thể chia đói nghèo thành những nguyên nhân sau:
- Nhóm nguyên nhân do chủ quan của người nghèo:
+ Thiếu vốn sản xuất: Các tài liệu điều tra cho thấy đây là nguyên nhân chủ yếu nhất. Nông dân thiếu vốn thường rơi vào vòng luẩn quẩn, sản xuất kém, làm không đủ ăn, phải đi làm thuê, phải đi vay để đảm bảo cuộc sống tối thiểu hàng ngày. Có thể nói: thiếu vốn sản xuất là một lực cản lớn nhất hạn chế sự phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của các hộ gia đình nghèo.
+ Thiếu kinh nghiệm và kiến thức làm ăn: Phương pháp canh tác cổ truyền đã ăn sâu vào tiềm thức, sản xuất tự cung, tự cấp là chính, thường sống ở những nơi hẻo lánh, giao thông đi lại khó khăn, thiếu phương tiện thông tin, con cái thất học… Những khó khăn đó làm cho hộ nghèo không thể nâng cao trình độ dân trí, không có điều kiện áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào canh tác, thiếu kinh nghiệm và trình độ sản xuất kinh doanh dẫn đến năng suất thấp, không hiệu quả.
+ Do sinh đẻ nhiều, sức khoẻ yếu, không đủ sức làm kinh tế. Bình quân nhân khẩu lớn nhưng lao động ít.
+ Đất đai canh tác ít, thiếu việc làm, không năng động tìm việc làm, lười biếng, mắc các tệ nạn xã hội. Mặt khác do hậu quả của chiến tranh dẫn đến nhiều người dân bị mất sức lao động, nhiều phụ nữ bị goá phụ dẫn tới thiếu lao động hoặc thiếu lao động trẻ, khoẻ có khả năng đảm nhiệm những công việc nặng nhọc.
+ Gặp những rủi ro trong cuộc sống, người nghèo thường sống ở những nơi hẻo lánh xa trung tâm, thời tiết khắc nghiệt, nơi mà thường xuyên xảy ra hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh… Cũng chính do thường sống ở những nơi hẻo lánh, giao thông đi lại khó khăn mà hàng hoá của họ sản xuất ra thường bị bán rẻ (do chi phí giao thông) hoặc không bán được, chất lượng hàng hoá giảm sút do lưu thông không kịp thời.
- Nhóm nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách:
Thiếu hoặc không đồng bộ về chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu vực khó khăn, chính sách khuyến khích sản xuất, vốn tín dụng, hướng dẫn cách làm ăn, khuyến nông, lâm, ngư, chính sách trong giáo dục - đào tạo, y tế, giải quyết đất đai, định canh, định cư, kinh tế mới và nguồn lực đầu tư còn hạn chế…
- Nhóm nguyên nhân do môi trường tự nhiên xã hội:
Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt đã tác động đến sản xuất nông nghiệp của các hộ gia đình nghèo, ở những vùng có khí hậu khắc nghiệt: thiên tai, lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh, đất đai cằn cỗi, diện tích canh tác ít, địa hình phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, kinh tế chậm phát triển, hậu quả của chiến tranh để lại, cơ sở hạ tầng thiếu hoặc không có là những vùng có nhiều hộ nghèo đói nhất.
* Những đặc trưng cơ bản của hộ nghèo:
- Đặc trưng cơ bản và dễ nhận diện nhất đó là hộ gia đình nghèo thường thiếu việc làm.
- Người nghèo đa phần là những nông dân sống ở các vùng nông thôn, cơ bản họ vẫn còn tư liệu sản xuất như ruộng đất. Nhưng họ thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm, thiếu kiến thức sản xuất.
- Đa số người nghèo có trình độ học vấn thấp, bị hạn chế về khả năng tiếp cận kỹ năng, kỹ thuật sản xuất tiên tiến và những thông tin thị trường.
- Những hộ nghèo thường rất dễ bị tổn thương bởi những biến cố khách quan mang tính thời vụ hoặc những biến động bất thường xảy ra.
- Các hộ nghèo thường có nhiều con hoặc có ít lao động trong gia đình, chịu những áp lực lớn về chi phí y tế, giáo dục, phải tốn kém nhiều để giữ gìn, nâng cao nguồn nhân lực.
- Các hộ nghèo thuộc dân tộc ít người thường chịu nhiều bất lợi do bị tách biệt về mặt địa lý và về mặt xã hội.
- Những hộ nghèo ở thành thị đa phần là những người thất nghiệp hoặc có những việc làm không ổn định.
- Hộ nghèo ở các vùng nông thôn có một số rơi vào tình trạng không có đất do phải cầm cố, cho thuê hoặc bán để chi tiêu vào những lúc khó khăn, thiếu thốn trong cuộc sống và cũng có rất nhiều hộ nghèo có ít đất đai.
1.1.1.2. Hậu quả của đói nghèo:
- Cản trở tăng trưởng kinh tế: nghèo đói ăn không đủ, vốn sản xuất không có dẫn đến thất nghiệp, không có thu nhập làm cho kinh tế của toàn xã hội không phát triển.
- Kìm hãm phát triển con người: nghèo đói làm cho các em nhỏ không có điều kiện cắp sách tới trường dẫn đến mù chữ, trình độ học vấn thấp không đủ kiến thức để đáp ứng yêu cầu sản xuất của nền kinh tế mới, gây cùng cực cho người nghèo.
- Bất bình đẳng xã hội: quy luật từ sự đói nghèo dẫn đến hậu quả hết sức nghiêm trọng nó đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế - xã hội, hố ngăn cách giầu nghèo ngày càng tăng, phát sinh tệ nạn cho vay nặng lãi và bán sản phẩm trước kỳ thu hoạch của các hộ nông dân.
- Phá huỷ môi trường: từ nghèo đói con người sẽ huỷ hoại và khai thác rừng bừa bãi làm ô nhiễm môi trường sinh thái.
- Nguy cơ mất ổn định xã hội và phát triển bền vững: thiếu vốn, thiếu việc làm nảy sinh các tệ nạn xã hội, bệnh tật phát triển, gia tăng buôn lậu, tham nhũng, hối lộ…
* Thực trạng hộ nghèo ở Việt Nam:
- Chuẩn mực phân loại hộ nghèo đói:
Chuẩn nghèo (hay còn gọi là ngưỡng nghèo hoặc tiêu chuẩn nghèo) là công cụ để phân biệt người nghèo và người không nghèo. Hầu hết chuẩn nghèo dựa vào thu nhập hoặc chi tiêu.
Những người được coi là người nghèo khi mức sống của họ được đo qua thu nhập (hoặc chi tiêu) thấp hơn một mức tối thiểu chấp nhận được, tức là thấp hơn chuẩn nghèo. Những người có mức thu nhập (hoặc chi tiêu) ở trên chuẩn này là người không nghèo.
Chuẩn nghèo là công cụ để đo lường và giám sát nghèo đói. Một thước đo nghèo đói tốt sẽ cho phép đánh giá tác động các chính sách của chính phủ tới nghèo đói; cho phép so sánh nghèo đói theo thời gian; tạo điều kiện so sánh với các nước khác và giám sát chi tiêu xã hội theo hưóng có lợi cho người nghèo. Ngoài ra còn định hướng chính sách hướng vào người nghèo để cải thiện vị thế của họ như: xây dựng các chính sách hỗ trợ người nghèo theo các nguyên nhân nghèo đói khác nhau, xây dựng các chính sách hỗ trợ giảm nghèo theo vùng, tình trạng việc làm, văn hoá, giới tính.
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều thước đo khác nhau, tuỳ vào từng điều kiện cụ thể mà các quốc gia có thể lựa chọn để sử dụng cho mình phương pháp xác định cho phù hợp.
Chỉ tiêu đánh giá về đói nghèo của Việt Nam là lấy thu nhập bình quân đầu người một tháng (hoặc năm) được đo bằng giá trị hay hiện vật quy đổi bằng lương thực (gạo) để đánh giá.
+ Thực trạng xác định chuẩn nghèo của nước ta thời kỳ 2001-2005:
Trong những năm qua, Việt Nam tồn tại song song một số phương pháp xác định chuẩn nghèo phục vụ các mục đích khác nhau. Đó là cách xác định chuẩn nghèo và hộ nghèo của Bộ Lao động Thương binh và xã hội, Tổng cục thống kê và Ngân hàng thế giới. Cụ thể như sau:
Vùng đô thị là 150 nghìn VNĐ/tháng/người (1,8 triệu VNĐ/tháng/người).
Vùng nông thôn đồng bằng là 100 nghìn VNĐ/tháng/người (1,2 triệu VNĐ/tháng/người).
Vùng nông thôn miền núi là 80 nghìn VNĐ/tháng/người (9,6 triệu VNĐ/tháng/người).
+ Chuẩn nghèo mới áp dụng cho Việt Nam thời kỳ 2006 - 2010:
Điểm nổi bật trong viêc xây dựng chuẩn nghèo mới thời kỳ 2006 - 2010 là đã thống nhất về khái niệm, nội dung và phương pháp xác định chuẩn nghèo giữa các cơ quan có liên quan, đặc biệt là Bộ lao động thương binh xã hội và Tổng cục thống kê. Chỉ sử dụng một chuẩn nghèo quốc gia duy nhất và từng bước tiếp cận phương pháp xác định của quốc tế để tạo điều kiện cho việc hội nhập và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực XĐGN.
Cụ thể giai đoạn từ năm 2006 - 2010 quy chế quy định như sau:
Đối với khu vực thành thị: hộ nghèo là những hộ gia đình có mức thu nhập bình quân đầu người một tháng dưới 250.000 đồng.
Đối với khu vực nông thôn: hộ nghèo là những hộ gia đình có mức thu nhập bình quân đầu người một tháng dưới 200.000 đồng.
- Thực trạng nghèo đói ở Việt Nam:
Thành tựu của quá trình đổi mới đã ảnh hưởng ngày càng sâu rộng tới mọi mặt đời sống kinh tế xã hội của đất nước đã đưa nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội và bước vào một giai đoạn phát triển mới, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tiến tới phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy vậy, Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo, nhiều chỉ tiêu kinh tế bình quân đầu người còn ở mức thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Phần lớn hộ nghèo tập trung ở nông thôn (chiếm 80% số hộ nghèo là các hộ nông dân) và thường rơi vào các nhóm hộ độc canh cây lúa, sản xuất tự cung tự cấp, thiếu tư liệu sản xuất, thiếu lao động, thiếu việc làm hoặc việc làm kém hiệu quả, thu nhập thấp, không có khả năng tích luỹ để tái sản xuất giản đơn.
Việt Nam thuộc nhóm các nước nghèo của thế giới, tỷ lệ hộ đói nghèo khá cao. Nếu tính theo chuẩn đói nghèo của Việt Nam năm 2002 còn khoảng 2,4 triệu hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 14% tổng số hộ toàn quốc. Theo chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010 thì tỷ lệ hộ nghèo cả nước là 22% tương đương với 4 triệu hộ nghèo.
- Đặc điểm cơ bản người nghèo ở Việt Nam:
Những người nghèo thường có những đặc điểm tâm lý và nếp sống khác hẳn với những khách hàng khác thể hiện:
+ Những người nghèo thường rụt rè, tự ti, ít tiếp xúc, phạm vi giao tiếp hẹp thường bó gọn trong làng, xã…
+ Bị hạn chế về khả năng nhận thức và kỹ năng sản xuất kinh doanh. Vì vậy, người nghèo thường tổ chức sản xuất theo thói quen, chưa biết mở mang ngành nghề và chưa có điều kiện tiếp xúc với thị trường. Do đó, sản xuất mang nặng tính tự cung tự cấp, chưa tạo ra được sản phẩm hàng hoá và đối tượng sản xuất kinh doanh thường hay thay đổi.
+ Phong tục, tập quán sinh hoạt và những truyền thống văn hoá của người nghèo cũng tác động tới nhu cầu tín dụng.
Khoảng cách giữa ngân hàng và nơi người nghèo sinh sống đang là trở ngại, người nghèo thường sinh sống ở những nơi mà cơ sở hạ tầng còn yếu kém.
Người nghèo thường sử dụng vốn vào sản xuất nông nghiệp là chủ yếu hoặc những ngành nghề thủ công, buôn bán nhỏ. Do vậy, nhu cầu sử dụng vốn của người nghèo mang tính thời vụ.
1.1.2. Sự cần thiết phải giảm đói nghèo:
Ngày nay, thế giới đã và đang phát triển ở đỉnh cao chưa từng có trong lịch sử gắn liền với một nền văn minh rực rỡ. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại đói, nghèo mang tính toàn cầu. Theo ước tính của Ngân hàng thế giới, hiện nay có hơn 1 tỷ người trên hành tinh còn sống trong nghèo đói với mức thu nhập bình quân đầu người dưới 1USD một ngày và trên 2 tỷ người có mức thu nhập dưới 2USD một ngày.
Với những nước chậm phát triển, đói, nghèo đang là vấn đề nhức nhối, một thách thức lớn đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Đói, nghèo không những chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần mà còn liên quan đến nhiều vấn đề chính trị, văn hoá, xã hội và tính nhân đạo trong cuộc sống. Nghèo cũng là sự phản ánh tình trạng của sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội, biểu hiện ra ở phân tầng xã h