1. Tính cấp thiết của chuyên đề
Đảng cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam.Trong suốt trên 70 năm qua, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đảng đă lãnh đạo nhân dân ta làm cuộc cánh mạng tháng tám năm 1945 thành công, đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập dân tộc đưa cả nuớc đi lên chủ ngiã xã hội với mục tiêu dân giàu nuớc mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng tỏ Đảng ta là một tổ chức chính trị chân chính duy nhất đủ khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Mặc dù có sai lầm, khuyết điểm nhưng Đảng ta biết sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, tự phê bình và phê bình để vuơn lên, tự hoàn thiện mình bằng thực tiễn lãnh đạo cách mạng, đổi mới tư duy, nâng cao trình độ và năng lực lãnh đạo để đáp ứng với yêu cầu ngày một cao qua các giai đoạn lịch sử. Chính vì vậy, trải qua bao khó khăn, phức tạp của các giai đoạn cách mạng, Đảng ta không những đứng vững mà còn khẳng định ngày càng vững chắc vai trò lãnh đạo toàn xã hội, đuợc nhân dân tin yêu và thừa nhận vị trí độc tôn là người lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam.
Để xứng đáng với niềm tin của nhân dân, Đảng phải luôn luôn tự hoàn thiện; phải biết học tập, chỉnh đốn và rèn luyện: phải biết nghe tiếng nói của nhân dân, tiếng nói của các tổ chức chính trị – xã hội khác trong và ngoài nước; biết tiếp thu những bài học thành công và thất bại của các đảng anh em và ngay của chính mình, những bài học trên cả ba phương diện: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Với tinh thần đó, Đảng ta luôn luôn coi công tác xây dựng Đảng có vai trò cực kỳ quan trọng trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào. Hơn thế, công tác xây dựng Đảng không chỉ được coi là vấn đề thường xuyên mà còn có ý nghĩa cấp bách trong giai đoạn cách mạng hiện nay, khi đất nước chuyển sang giai đoạn đổi mới, thực hiện kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp đổi mới của Đảng ta trong những năm qua đã đạt được những thành tựu đáng mừng về kinh tế – xã hội và nhiều mặt khác. Song, mặt trái của cơ chế thị trường cũng đã tạo ra những tiêu cực khó khăn không nhỏ, đang đặt ra những vấn đề bức xúc ở mọi lĩnh vực, ngay cả trong bản thân tổ chức của đảng và trước hết là ở các tổ chức cơ sở Đảng. ở đó, một bộphận đảng viên thoái hoá, biến chất, phai nhạt lý tưởng, vi phạm kỷ luật; một số tổ chức cơ sở đảng không phát huy được vai trò lãnh đạo của mình; mối quan hệ giữa đảng uỷ cơ sở với lãnh đạo chuyên môn với ban cán sự, đảng đoàn ở các cơ quan không rõ ràng, nhiệm vụ chồng chéo, khó xác định; sinh hoạt đảng bộ, chi bộ thiếu nội dung, xơ cứng với và hình thức; vai trò là hạt nhân chính trị của cấp uỷ bị lu mờ, thiếu sức chiến đấu. Công tác quản lý đảng viên bị buông lỏng; tư tưởng trung bình chủ nghĩa tương đối phổ biến; công tác giáo dục, vận động quần chúng chậm được đổi mới; đội ngũ làm công tác Đảng ở cơ sở chưa được chăm lo đúng mức, trình độ năng lực chưa đáp ứng được với yêu cầu của nhiệm vu.Do đó, việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng không chỉ là vấn đề có ý nghĩa thường xuyên, lâu dài mà còn mang tính cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá là một Đảng bộ có số Đảng viên tương đối lớn. Đảng bộ Cơ quan cấp tỉnh Thanh Hoá trực thuộc Tỉnh uỷ, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ với chức năng, nhiệm vụ tương đối đặc thù do cơ cấu mô hình cụ thể của các cơ quan, đơn vị, ban, nghành, công ty, xí nghiệp thuộc tỉnh quản lý. Đảng bộ Cơ quan Cấp tỉnh có ba loại hình tổ chức cơ sở đảng là cơ quan sự nghiệp và doanh nghiệp. Các tổ chức cơ sở đảng cơ quan trong điều kiện hiện giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị cuả các nghành cấp tỉnh.
Với lý do đó, là một cán bộ công tác tại Đảng uỷ Cơ quan Cấp tỉnh Thanh Hoá, tôi nhận thức về sự cần thiết cấp bách phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, nâng cao chất lượng của các tổ chức cơ sở đảng cơ quan, cho nên tôi chọn chuyên đề :
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng cơ quan thuộc Đảng bộ Cơ quan Cấp tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay “.
2. Tình hình nghiên cứu chuyên đề:
Đảng bộ Cơ quan Cấp tỉnh Thanh Hoá thành lập ngày 3-11-1988 theo quyết định của Ban Thường Vụ tỉnh uỷ Thanh Hoá ; là Đảng bộ đượcthành lập hơn 10 năm, mô hình tổ chức còn mới và có những đặc thù rất riêng về choc năng và nhiệm vụ. Vì vậy, việc nghiên cứu của chuyên đề về tổ chức cơ sở đảng cơ quan thuộc Đảng bộ Cơ quan Cấp tỉnh cũng là vấn đề còn mới mẻ.Nhiều vấn đề công tác xây dựng Đảng ở loại hình tổ chức cơ sở đảng này còn vừa làm vừa rút kinh nghiệm trong thực tiễn.Do đó chuyên đề này chỉ nêu ra những nội dung chủ yếu, bước đầu tìm ra giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng cơ quan thuộc Đảng bộ Cơ quan Cấp tỉnh Thanh Hoá.
3. Mục đích nhiệm vụ chuyên đề :
Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng của tổ chức cơ sở đảng cơ quan thuộc Đảng bộ Cơ quan Cấp tỉnh, chuyên đề góp phần tạo ra sự thống nhất trong nhận thức về vị trí, vai trò, chức năng , nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng cơ quan nói riêng và của Đảng bộ Cơ quan Cấp tỉnh nói chung. Từ đó tìm ra giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng cơ quan. Đồng thời qua nghiên cứu chuyên đề sẽ giúp cho bản thân phương pháp nghiên cứu lý luận và thực tiễn, từ đó nâng cao chất lượng, hiệu suất công tác của bản thân.
Nhiệm vụ của chuyên đề là nêu ra những cơ sở lý luận và thực tiễn về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng cơ quan, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng cơ quan thuộc Đảng bộ Cơ quan Cấp tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận,thực tiễn và phương pháp nghiên cứu :
Các nội dung của chuyên đề được trình bày trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về xây dựng Đảng. Đồng thời xuất phát từ tình hình cụ thể của các tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Cơ quan Cấp tỉnh Thanh Hoá, chuyên đề đánh giá thực trạng và nêu ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng cơ quan. Các nội dung nêu trên của đề tài được trình bày dựa vào phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng với phương pháp nghiên cứu là kết hợp cả phân tích và tổng hợp, khảo sát thực tế, trao đổi kinh nghiệm, thu thập tài liệu, kết hợp lý luận với thực tiễn, trao đổi kinh nghiệm, thu thập tài liệu, kết hợp lý luận với thực tiễn để làm sáng tỏ những vấn đề mà nội dung và yêu cầu của chuyên đề đặt ra.
5. Kết thúc của chuyên đề :
Gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận, tổ chức thực hiện, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.
63 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 7892 | Lượt tải: 7
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng cơ quan thuộc Đảng bộ cơ quan cấp tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A: Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của chuyên đề
Đảng cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam.Trong suốt trên 70 năm qua, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đảng đă lãnh đạo nhân dân ta làm cuộc cánh mạng tháng tám năm 1945 thành công, đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập dân tộc đưa cả nuớc đi lên chủ ngiã xã hội với mục tiêu dân giàu nuớc mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng tỏ Đảng ta là một tổ chức chính trị chân chính duy nhất đủ khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Mặc dù có sai lầm, khuyết điểm nhưng Đảng ta biết sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, tự phê bình và phê bình để vuơn lên, tự hoàn thiện mình bằng thực tiễn lãnh đạo cách mạng, đổi mới tư duy, nâng cao trình độ và năng lực lãnh đạo để đáp ứng với yêu cầu ngày một cao qua các giai đoạn lịch sử. Chính vì vậy, trải qua bao khó khăn, phức tạp của các giai đoạn cách mạng, Đảng ta không những đứng vững mà còn khẳng định ngày càng vững chắc vai trò lãnh đạo toàn xã hội, đuợc nhân dân tin yêu và thừa nhận vị trí độc tôn là người lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam.
Để xứng đáng với niềm tin của nhân dân, Đảng phải luôn luôn tự hoàn thiện; phải biết học tập, chỉnh đốn và rèn luyện: phải biết nghe tiếng nói của nhân dân, tiếng nói của các tổ chức chính trị – xã hội khác trong và ngoài nước; biết tiếp thu những bài học thành công và thất bại của các đảng anh em và ngay của chính mình, những bài học trên cả ba phương diện: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Với tinh thần đó, Đảng ta luôn luôn coi công tác xây dựng Đảng có vai trò cực kỳ quan trọng trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào. Hơn thế, công tác xây dựng Đảng không chỉ được coi là vấn đề thường xuyên mà còn có ý nghĩa cấp bách trong giai đoạn cách mạng hiện nay, khi đất nước chuyển sang giai đoạn đổi mới, thực hiện kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp đổi mới của Đảng ta trong những năm qua đã đạt được những thành tựu đáng mừng về kinh tế – xã hội và nhiều mặt khác. Song, mặt trái của cơ chế thị trường cũng đã tạo ra những tiêu cực khó khăn không nhỏ, đang đặt ra những vấn đề bức xúc ở mọi lĩnh vực, ngay cả trong bản thân tổ chức của đảng và trước hết là ở các tổ chức cơ sở Đảng. ở đó, một bộphận đảng viên thoái hoá, biến chất, phai nhạt lý tưởng, vi phạm kỷ luật; một số tổ chức cơ sở đảng không phát huy được vai trò lãnh đạo của mình; mối quan hệ giữa đảng uỷ cơ sở với lãnh đạo chuyên môn với ban cán sự, đảng đoàn ở các cơ quan không rõ ràng, nhiệm vụ chồng chéo, khó xác định; sinh hoạt đảng bộ, chi bộ thiếu nội dung, xơ cứng với và hình thức; vai trò là hạt nhân chính trị của cấp uỷ bị lu mờ, thiếu sức chiến đấu. Công tác quản lý đảng viên bị buông lỏng; tư tưởng trung bình chủ nghĩa tương đối phổ biến; công tác giáo dục, vận động quần chúng chậm được đổi mới; đội ngũ làm công tác Đảng ở cơ sở chưa được chăm lo đúng mức, trình độ năng lực chưa đáp ứng được với yêu cầu của nhiệm vu.Do đó, việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng không chỉ là vấn đề có ý nghĩa thường xuyên, lâu dài mà còn mang tính cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá là một Đảng bộ có số Đảng viên tương đối lớn. Đảng bộ Cơ quan cấp tỉnh Thanh Hoá trực thuộc Tỉnh uỷ, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ với chức năng, nhiệm vụ tương đối đặc thù do cơ cấu mô hình cụ thể của các cơ quan, đơn vị, ban, nghành, công ty, xí nghiệp thuộc tỉnh quản lý. Đảng bộ Cơ quan Cấp tỉnh có ba loại hình tổ chức cơ sở đảng là cơ quan sự nghiệp và doanh nghiệp. Các tổ chức cơ sở đảng cơ quan trong điều kiện hiện giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị cuả các nghành cấp tỉnh.
Với lý do đó, là một cán bộ công tác tại Đảng uỷ Cơ quan Cấp tỉnh Thanh Hoá, tôi nhận thức về sự cần thiết cấp bách phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, nâng cao chất lượng của các tổ chức cơ sở đảng cơ quan, cho nên tôi chọn chuyên đề :
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng cơ quan thuộc Đảng bộ Cơ quan Cấp tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay “.
2. Tình hình nghiên cứu chuyên đề:
Đảng bộ Cơ quan Cấp tỉnh Thanh Hoá thành lập ngày 3-11-1988 theo quyết định của Ban Thường Vụ tỉnh uỷ Thanh Hoá ; là Đảng bộ đượcthành lập hơn 10 năm, mô hình tổ chức còn mới và có những đặc thù rất riêng về choc năng và nhiệm vụ. Vì vậy, việc nghiên cứu của chuyên đề về tổ chức cơ sở đảng cơ quan thuộc Đảng bộ Cơ quan Cấp tỉnh cũng là vấn đề còn mới mẻ.Nhiều vấn đề công tác xây dựng Đảng ở loại hình tổ chức cơ sở đảng này còn vừa làm vừa rút kinh nghiệm trong thực tiễn.Do đó chuyên đề này chỉ nêu ra những nội dung chủ yếu, bước đầu tìm ra giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng cơ quan thuộc Đảng bộ Cơ quan Cấp tỉnh Thanh Hoá.
3. Mục đích nhiệm vụ chuyên đề :
Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng của tổ chức cơ sở đảng cơ quan thuộc Đảng bộ Cơ quan Cấp tỉnh, chuyên đề góp phần tạo ra sự thống nhất trong nhận thức về vị trí, vai trò, chức năng , nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng cơ quan nói riêng và của Đảng bộ Cơ quan Cấp tỉnh nói chung. Từ đó tìm ra giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng cơ quan. Đồng thời qua nghiên cứu chuyên đề sẽ giúp cho bản thân phương pháp nghiên cứu lý luận và thực tiễn, từ đó nâng cao chất lượng, hiệu suất công tác của bản thân.
Nhiệm vụ của chuyên đề là nêu ra những cơ sở lý luận và thực tiễn về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng cơ quan, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng cơ quan thuộc Đảng bộ Cơ quan Cấp tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận,thực tiễn và phương pháp nghiên cứu :
Các nội dung của chuyên đề được trình bày trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về xây dựng Đảng. Đồng thời xuất phát từ tình hình cụ thể của các tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Cơ quan Cấp tỉnh Thanh Hoá, chuyên đề đánh giá thực trạng và nêu ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng cơ quan. Các nội dung nêu trên của đề tài được trình bày dựa vào phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng với phương pháp nghiên cứu là kết hợp cả phân tích và tổng hợp, khảo sát thực tế, trao đổi kinh nghiệm, thu thập tài liệu, kết hợp lý luận với thực tiễn, trao đổi kinh nghiệm, thu thập tài liệu, kết hợp lý luận với thực tiễn để làm sáng tỏ những vấn đề mà nội dung và yêu cầu của chuyên đề đặt ra.
5. Kết thúc của chuyên đề :
Gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận, tổ chức thực hiện, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.
B. nội dung
I/ nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng cơ quan cấp tỉnh thanh hoá là nhu cầu cần thiết cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
1/Khái niệm, đặc điểm, vị trí và vai trò của tổ chức cơ sở đảng.
Trong lịch sử nhân loại các tổ chức chính trị, các Đảng chính trị ra đời từ khi có giai cấp, đấu tranh giữa giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ và lực lượng kìm hãm sự tiến bộ. Giai cấp nào cũng phải xây dựng cho mình một tổ chức chính trị, thể hiện sứ mệnh là tham mưu chỉ huy cuộc chiến tranh giành quyền lãnh đạo xã hội, giai cấp công nhân cũng không ngoài quy luật đó.
C.Mac và Ph.Ăng ghen đã chỉ ra giai cấp vô sản các nước phải đoàn kết lại, lật đổ chế độ cũ, lật đổ giai cấp tư sản, thiết lập chính quyền của mình, xây dựng chũ nghĩa xã hội, tiến lên chũ nghĩa cộng sản. Sứ mệnh lịch sử đó là tất yếu khách quan, vì trong nền sản xuất đại công nghiệp chỉ có giai cấp công nhân đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất, mới có đủ khả năng lãnh đạo giai cấp khác, đưa xã hội tiến lên trình độ văn minh hơn. Muốn thực hiện được sứ mệnh lịch sử đó, giai cấp công nhân không chỉ đoàn kết lại mà còn phải xây dựng được chính đảng của mình, đó là đội tiên phong được tổ chức chặt chẽ gồm những người ưu tú, là bộ tham mưu vạch ra đường lối, chiến lược, sách lược, vạch ra các mục tiêu cho giai cấp và cho toàn xã hội.
Dưới sự lãnh đạo của C.Mác và Ph.Ăng ghen, tổ chức cộng sản đầu tiên. Liên đoàn những người cộng sản đã được thành lập, và hai ông đã khẳng định trong bức thư gửi những nhà lãnh đạo của liên đoàn :”Đảng công nhân phải hoạt động sao cho có tổ chức nhất, thống nhất, độc lập nhất [13,168] biến mỗi chi bộ thành trung tâm và hạt nhân của các hiệp hội công nhân [13,173].
Các lãnh đạo đầu tiên của giai cấp công nhân đã chỉ ra vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của tổ chức cơ sở đảng ngay từ những năm tháng đầu tiên khi mới hình thành tổ các chức cộng sản. Sau này trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội trên lĩnh vực tổ chức và tiến hành xây dựng một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân V.I Lê nin đã phát triển tư tưởng đó, chăm lo xây dựng nhằm xác lập vai trò lãnh đạo của các tiểu tổ công nhân dân chủ –xã hội, phát triển các tiểu tổ đó trở thành chi bộ cơ sở trong các nhà máy, công xưởng, những khu dân cư … của Đảng bôn sê vích Nga. Khi cách mạng chuyển sang giai đoạn chuyên chính vô sản, Đảng trở thành lãnh đạo chính trị của toàn xã hội. Xuất phát từ vai trò đó, các tổ chức cơ sở đảng đã tăng lên về số lượng và phong phú về nội dung, phương thức hoạt động. V.I Lê nin viết : “ Những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với Trung ương Đảng, phải trao đổi kinh nghiệm lẫn cho nhau, phải làm công tác cổ động, tuyên truyền, công tác tổ chức, phải thích nghi với mọi đời sống xã hội, với tất cả mọi loại và mọi tầng lớp quần chúng lao động, những chi bộ ấy phải thông qua công tác muôn hình muôn vẻ đó mà rèn luyện bản thân mình, rèn luyện đảng, giai cấp, quần chúng một cách có hệ thống [11,233]. Vai trò của các tổ chức cơ sở đảng ngày càng quan trọng ở thời kỳ Đảng tập trung sự lãnh đạo của mình vào lĩnh vực kinh tế. Khi chuyển sang lãnh đạo thực hiện chính sách kinh tế mới, V.I Lê nin cho rằng, để giành được thắng lợi trong bứơc chuyển biến chiến lược này, các tổ chức cơ sở đảng có vai trò hết sức to lớn. Do vậy, Người đặt ra vân đề, các tổ chức đảng, các tổ chức Xô Viết “ phải đem hết sức lực, đem hết chú ý để tạo ra, để phát huy một tính chủ động lớn hơn ở cơ sở [11,279]
Kế thừa tư tưởng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã vận dụng vào thực tiễn xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam. Xác định tổ chức cơ sở đảng là cấp tổ chức nền tảng của Đảng, là nơi xuất phát, hình thành cơ sở thực tiễn và lý luận cho những chủ chương, đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng và cũng là nơi tổ chức thực hiện, đưa đường lối của Đảng vào thực tiễn sinh động của cuộc sống, vật chất hoá nó bằng các mục tiêu cụ thể phục vụ cho đời sống con người, nó là nơi mở đầu cũng là nơi kết thúc: từ thực tiễn cách mạng đặt ra và mục tiêu cách mạng giải quyết. Với ý nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng :” Muốn làm nhà cho tốt phải xay dựng nền cho vững “ [16,114] ; ”nền” ở đây theo tư tưởng của người là các chi bộ, đảng cơ sở. Chi bộ, đảng bộ cơ sở vững mạnh trong sạch là yếu tố quyết định năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Tổ chức cơ sở đảng không phải là một kháI niệm trùi tượng, nó là một cấp trong hệ thống tổ chức chặt chẽ của Đảng từ Trung ương đến cơ sở, nó chụi sự chi phối, lãnh đạo của cấp trên; nó phục tùng nguyên tắc tổ chức của Đảng nhưng có vai trò to lớn đối với quá trình hoạt động của Đảng. Tổ chức cơ sở đảng là nơi kiểm nghiệm, đáng giá thực chất sự đúng, sai, thành, bại của phong trào, của đường lối, chính sách của Đảng; tổ chức cơ sở là nơi cơ quan các đảng viên thi hành nhiệm vụ của mình, từ khâu phản ánh hiện thực, yêu cầu của cuộc sống và lãnh đạo giải quyết các yêu cầu đó bằng phương thức, phương pháp lãnh đạo của Đảng. Xét cho đến cùng, tổ chức cơ sở đảng là nơi kiểm chứng các tiêu chuẩn chân lý. Với vị trí quan trọng như vậy nên chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết luận:” Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt “ [16,149].
Quan điểm, tư tưởng đó đẵ xuyên suốt quá trình phát triển của Đảng, được đại hội toàn quốc lần thứ IV khẳng định và rút ra bàI học kinh nghiệm về xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong điều kiện cách mạnh xã hội chủ nghĩa ; các đại hội tiếp theo đã làm phong phú, sâu sắc thêm tư tưởng này. Đại hội Vicủa Đảng nêu rõ : “Những thành tựu đẵ đạt được, những tiềm năng được khai thác, những kinh nghiệm có gí trị đều bắt nguồn từ từ sự nỗ lực phấn đấu của quần chúng ở cơ sở mà hạt nhân lãnh đạo là tổ chức đảng đã hạn chế những thành tựu của cách mạng “ [5,114].
Đại hội toàn quốc lần thứ Vi mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn diện của Đảng, của,của đất nước dến nay đẵ giành được những thành tựu đáng kể, đồng thời quá trình đó cũng bộc lộ ra những khuyết điểm, yếu kém của Đảng ta,trong đó có trách nhiệm của các tổ chức cơ sở đảng. Chính vì vậy, công cuộc đổi mới toàn diện đang đặt ra những yêu cầu chất lượng ngày càng cao đối với các tổ chưc cơ sở đảng. Những quan điểm, chính sách của đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế xã hội theo hướng dân chủ hoá, phát huy vai trò chủ động,sáng tạo của đơn vị cơ sở, khai thác tốt tiềm năng lao động, tài nguyên cơ vật chất – kỹ thuật … nhằm phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân ; đồng thời tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đoạ của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đã lựa chọn. Sự nghiệp đó càng đề cao vị trí nền tảng của các đảng bộ cơ sở trong hệ thống tổ chức và trong hoạt động lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng ( khoá VI ) đã nêu :”Trong điều kiện chuyển sang thực hiện cơ chế quản lý mới, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của các đơn vị kinh tế cơ sở, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, các tổ chức cơ sở đảng phải thật sự là hạt nhân lãnh đạo chính trị trong các tập thể lao động …”.Với vai trò đó,các đảng bộ cơ sở phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, bảo đảm công cuộc đổi mới được thực hiện trên thực tế ở đơn vị cơ sở ; đồng thời, từ thực tiễn cuộc sống, đóng góp ý kiến với Đảng và Nhà nước để hoàn chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật.
Lý luận và thực tiễn chứng minh, dù ở giai đoạn nào trên con đường phát triển của cách mạng do Đảng lãnh đạo, với vị trí nền tảng của mình, các đảng bộ cơ sở luôn có vai trò là hạt nhân lãnh đạo chính trị, là người đảm bảo cho đường lối, chính sách của Đảng được tổ chức thực có kết quả ở đơn vị cơ sở và là cấp tổ chức trực tiếp tiến hành xây dựng nội bộ Đảng. Đất nước đang đứng trước thời cơ và vận hội lớn nhưng đồng thời cũng đang gặp khó khăn, thác thức không nhỏ, vì vậy tình hình đặt ra cho toàn Đảng,toàn dân phải vượt qua những khó khăn và thách thức để chip lấy thời cơ giành lấy vận hội. Đảng phải kiên trì mục tiêu cách mạng, khắc phục khó khăn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, và trước hết là ở các tổ chức cơ sở đảng để xứng đáng với vị trí, vai trò là hạt nhân chính trỉ các đơn vị cơ sở trong hệ thống tổ chức xã hôI nước ta.Vị trí, vai trò hạt nhân chính trị thực chất là sự lãnh đạo toàn diện, là bằng thực tiễn của mình lãnh đạo mọi tổ chức đoàn thể, lãnh đạo mọi tầng lớp nhân dân thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, đảm bảo cho đường lối đổi mới trở thành thực tiễn sinh động trong đời sống ; và đồng thời, từ thực tiễn cuồc sống đóng góp vào quá trình hoàn thiện đứng đắn, đầy đủ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mac –Lê nin, hơn 70 năm qua,thực tiễn sinh đông trong quá trình xây dựng và trưởng thành của Đảng ta, cả lúc chưa giành chính quyền cho đến khi trở thành một Đảng cầm duy nhất như ngày nay, đã chỉ ra rắng :Trong bất kỳ giai đoạn cách mạng nào, ở đâu và mục tiêu cụ thể gì, các tổ chức cơ sở đảng luôn luôn là hạt nhân chính trị, giữ vai trò toán diện, đảm bảo cho đường lối chính sách của Đảng được thực hiện cí kết quả, đảm bào cho mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân luôn luôn gắn bó mau sthịt với nhau, đảm bảo cho Đảng luôn luôn khẳng định vị tri lãnh đạo toàn xã hội.
2/ Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.
*Năng lực lãnh đạo :
Năng lực trước hết là khả năng hiện thực, sẵn có của chủ thể thể thực hiện mặt hoạt động nào đó, khả năng hoàn thành một công việc hay khả năng biến các yếu tố, các điều kiện đã có của tư duy trở thành hiện thực ( lời nói hay việc làm ).
Năng lực tư duy hay năng lực hành động đều là một khả năng có thật, có thể trở thành hiện htực nếu con người “ vật chất hoá ” bắng các thao tác quy luaatj của tư duy, ý thức hay thực tiễn.
Năng lực lãnh đạo của Đảng cũng xuất phát từ khẳ năng thực tế đó, nó bao hàm “ khả năng “ và “ thực hiện “. Năng lực lãnh đạo của Đảng bao gồm nhiều nội dung : năng lực lãng đạo, chỉ đạo thực hiện đướng lối, chủ trương, chỉ thị, nghị quyết và chỉ đạo thực hiện nó.
Năng lực đề ra đương lối, chủ trương của Đảng :Đó là một khả năng thực tế được cụ thể hoá bằng việc xây dựng các cương lĩnh, đường lối, chủ trương chiến lược.Cương lĩnh, đường lối, chủ trương chiến lược bao quóat, định hướng cho cả một thời kỳ lịch sở tương đồi dài ; đòi hỏi phải nghiên cứu, am hiểu rất nhiều lĩnh vực để tổng kết, kháI quóat, đưa ra các vấn đề và giải đáp nó với quan điểm lớn, tổng thể ; nó không chỉ trong phạm vi hẹp mà rất rộng lớn về không gian, về thời gian - đó là không gian quốc gia, và quốc tế và thì gian thường là một giai đoạn hay một thời kỳ lịch sử ; quy mô và nội dung bao gômg tất cả các lĩnh vực liên quan đến đời sống kinh tế xã hội, dân tộc trong và ngoài nước, đướng lối, cương lĩnh chi phối cả dân tộc, và cao hơ, ảnh hưởng đến dân tộc khác.
Trong lịch sử hơn 70 năm xây dựng và phát triển, Đảng cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ được năng lực đè ra đường lối đúng đằn, lãnh đạo nhân dân ta đứng lên lật đổ chế độ cũ, đánh dưởi bọn xâm lược, giành độc lập dân tộc, đưa đất nước đi lên chũ nghĩa xã hội vứi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bắng văn minh.
Năng lực xây dựng nghị quyết của Đảng : Đó là những vấn đề đã được nghiên cứu, xem xét, thảo luận của một tập thể ( tổ chức đảng,Ban chấp hành các cấp ) và đi đến quyết định thực hiện.
Nghị quyết gồm nhiều loại và có các mức khác nhau : Từ cấp chi bộ đến cấp trung ương ; các loại nghị quyết đều mang dấu ấn của trí tuệ, ý chí của tập thể, dù trực tiếp hay gián tiếp đều tham gia vào quá trình ra quyết định thực hiện, giải quyết những vấn đề đặt ra trong quà trình lãnh đạo của Đảng. Có nghị quyết lớn của Trung ương phải giải quyết những vấn đề trọng của đất nước trong một giai đoạn lịch sử quan trọng ; cũng có nghị quyết chỉ giải quyết một việc của một người (khai trừ hay kết nạp ).Dù nghị quyết ở trong phạm vi, mức độ nào cũng đòi hỏi kiến thức, trình độ, tư duy, lý luận và thực tiễn cao của tập thể lãnh đạo từ chi bộ đến Ban chấp hành Trung ương.
- Năng lực tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị quyết của Đảng là khả năng nắm bắt, am hiểu các vấn đề thuộc phạm vi đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị quyết đề ra, đồng thời biết cách tổ chức, xây dựng điều kiện, huy động và bố trí lực lượng có biện pháp đúng để triển khai thực hiện có kết quả những chương trình, kế hoạch đặt ra của nghị quyết.
Trong lịch sử đấu tranh cách mạng hơn 70 năm qua, Đảng ta đã trưởng thành lớn mạnh. Thắng lợi của sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, những thành tựu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là kết quả của việc đề ra cương lĩnh chính trị, đường lối và các nghị quyết ấy.
Năng lực tổ chức thực hiện gồm nhiều vấn đề, trong đó có năng lực đề ra và tiến hành phương pháp cách mạng, phương phap tổ chức thực hiện thắng lợi các kế hoạch, mục tiêu đề án ; trong đó các vấn đề tổ chức huy dộng lực lượng, tạo dộng lực cách mạng và các biện pháp cách mạng.
Những vấn đề chủ yếu nêu trên đều thuộc phạm trù năng lực lãnh đạo của Đảng, trong đó có các năng lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng.
*Sức chiến