Chuyên đề Nghiên cứu sự ảnh hưởng của thức ăn đến sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng Penaeus vannamei giai đoan PL1 đến PL 10 tại công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam

Việt Nam với diện tích đất liền 329.297 km2, vùng biển rộng hơn 1 triệu km2 và có bờ biển dài hơn 3.260 km, rất thuận lợi cho việc đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Ngành thủy sản nói chung, nghề nuôi tôm ở Việt Nam nói riêng những năm gần đây phát triển mạnh mẽ, giải quyết một phần tình trạng thiếu việc làm, tăng thu nhập cho nhiều hộ nông ngư dân ven biển, tăng nguồn ngoại tệ lớn thông qua xuất khẩu. Việt Nam đã trở thành một trong những nước có sản lương nuôi tôm lớn nhất thế giới. Các loài tôm được nuôi chính ở Việt Nam hiện nay là: Tôm sú (Penaeus monodon), tôm nương (P. orientalis), tôm thẻ chân trắng (P. vannamei), tôm rằn (P. semisucatus). Những năm gần đây tôm thẻ chân trắng đã được sản xuất giống đại trà ở nước ta. Tôm thẻ là đối tượng mang lại hiệu quả kinh tế, ít gặp rủi ro. Để có một vụ nuôi thành công cần một điều không thể thiếu là đàn tôm giống khỏe mạnh và sạch bệnh. Trong giai đoạn ương nuôi ấu trùng của quy trình sản xuất giống tôm thẻ chân trắng, thương gặp rủi ro, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ sống và chất lượng ấu trùng. Các nhà nghiên cứu thủy sản đã nghiên cứu rất nhiều để tìm ra loại thức ăn phù hợp nhất cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng. Các loại thức ăn được sử dụng để ương nuôi hiện nay là tảo, artemia và thức ăn tổng hợp. Nhưng có nhiều công thức phối hợp giữa các loại thức ăn với nhau. Mổi công thức khác nhau no cho kết quả khác nhau, cụ thể là tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng của ấu trùng. Từ những vấn đề cấp thiết trên tôi muốn thực hiện chuyên đề “ Nghiên cứu sự ảnh hưởng của thức ăn đến sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng Penaeus vannamei giai đoan PL1 đến PL 10 tại công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam” Thực hiện đề tài này tôi muốn tìm ra công thức thức ăn phù hợp nhất, nhằm nâng cao tỷ lệ sống, mước độ tăng trưởng và chất lượng ấu trùng tôm thẻ chân trắng giai đoạn PL1 đến PL10.

doc44 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2738 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nghiên cứu sự ảnh hưởng của thức ăn đến sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng Penaeus vannamei giai đoan PL1 đến PL 10 tại công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành bài báo cáo thực tập cuối khóa này tôi nhận được sự giúp đở rất từ nhiều từ phía nhà trường và công ty nơi tôi thực tập. Tôi xin chân thành cám ơn Trường ĐH Quảng Bình, Thầy cô giáo khoa Nông Lâm-Thủy sản, Giảng viên hướng dẫn: Trần Thị Yên. Ban giám đốc công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam chi nhánh Bình Định III, cùng toàn thể công nhân viên của công ty đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt kỳ thực tập vừa qua. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn ! MỤC LỤC Trang DANH SÁCH CÁC BẢNG Bảng 1: Bố trí thí nghiệm 30 Bảng 2: lượng thức ăn cho công thức thưc ăn I 32 Bảng 3 lượng Artemia cho công thức thức ăn II 33 Bảng 4 lượng TNT cho công thức thức ăn II 33 Bảng 5 lượng thức ăn TNT cho công thức thức ăn III 34 Bảng 6: Diễn biến của các yếu tố môi trường trong các lô thí nghiệm 35 Bảng 7: Ảnh hưởng của thức ăn đến tỷ lệ sống ấu trùng Postlarva. 36 Biểu đồ 1 ảnh hưởng của thức ăn đến tỷ lệ sống của ấu trùng Postlarva tôm thẻ chân trắng 37 Bảng 8: Ả hưởng của thức ăn đến tốc độ tăng trưởng Postlarva 38 Biểu đồ 2: Ảnh hưởng của thức ăn đến tốc độ tăng trưởng của ấu trùng Postlarva tôm thẻ chân trắng. 39 PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ Việt Nam với diện tích đất liền 329.297 km2, vùng biển rộng hơn 1 triệu km2 và có bờ biển dài hơn 3.260 km, rất thuận lợi cho việc đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Ngành thủy sản nói chung, nghề nuôi tôm ở Việt Nam nói riêng những năm gần đây phát triển mạnh mẽ, giải quyết một phần tình trạng thiếu việc làm, tăng thu nhập cho nhiều hộ nông ngư dân ven biển, tăng nguồn ngoại tệ lớn thông qua xuất khẩu. Việt Nam đã trở thành một trong những nước có sản lương nuôi tôm lớn nhất thế giới. Các loài tôm được nuôi chính ở Việt Nam hiện nay là: Tôm sú (Penaeus monodon), tôm nương (P. orientalis), tôm thẻ chân trắng (P. vannamei), tôm rằn (P. semisucatus). Những năm gần đây tôm thẻ chân trắng đã được sản xuất giống đại trà ở nước ta. Tôm thẻ là đối tượng mang lại hiệu quả kinh tế, ít gặp rủi ro. Để có một vụ nuôi thành công cần một điều không thể thiếu là đàn tôm giống khỏe mạnh và sạch bệnh. Trong giai đoạn ương nuôi ấu trùng của quy trình sản xuất giống tôm thẻ chân trắng, thương gặp rủi ro, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ sống và chất lượng ấu trùng. Các nhà nghiên cứu thủy sản đã nghiên cứu rất nhiều để tìm ra loại thức ăn phù hợp nhất cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng. Các loại thức ăn được sử dụng để ương nuôi hiện nay là tảo, artemia và thức ăn tổng hợp. Nhưng có nhiều công thức phối hợp giữa các loại thức ăn với nhau. Mổi công thức khác nhau no cho kết quả khác nhau, cụ thể là tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng của ấu trùng. Từ những vấn đề cấp thiết trên tôi muốn thực hiện chuyên đề “ Nghiên cứu sự ảnh hưởng của thức ăn đến sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng Penaeus vannamei giai đoan PL1 đến PL 10 tại công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam” Thực hiện đề tài này tôi muốn tìm ra công thức thức ăn phù hợp nhất, nhằm nâng cao tỷ lệ sống, mước độ tăng trưởng và chất lượng ấu trùng tôm thẻ chân trắng giai đoạn PL1 đến PL10. PHẦN II: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU I. TÌM HIỂU CHUNG VỀ CƠ SỞ THỰC TẬP 1. Vai trò chiến lược của vị trí địa lý tỉnh Bình Định     Bình Định nằm ở vị trí trung tâm của miền Trung và cả nước; phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi - nơi có khu công nghiệp Dung Quất; phía Nam giáp tỉnh Phú Yên có nhiều tiềm năng phát triển về du lịch dịch vụ; phía Tây giáp Tây Nguyên- giàu tiềm năng thiên nhiên cần được khai thác. Với vị trí địa lý đặc biệt đó nên Bình Định có một vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của vùng kinh tế miền Trung và Tây Nguyên. Hệ thống đường quốc lộ 1A, đường sắt xuyên Việt cùng với đường 19 lên Tây Nguyên và cảng biển nước sâu Quy Nhơn - Nhơn Hội tạo thành huyết mạch cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Bình Định, miền Trung và Tây Nguyên, cũng như khu vực tiểu vùng sông Mê Kông bởi trục đường hành lang Đông- Tây: Quy Nhơn - Kon Tum - Aptopo - Bắc Xế - Ubon Rat Cha Tha Ni, trục hành lang này có chiều dài khoảng 770km; mặt khác từ Quy Nhơn lên đường 19 đến Kon Tum và theo đường 14 rẽ về phía Nam đến Stung Ố Treng (Campuchia). Huyện Phù Mỹ: Là một huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Bình Định. Phú Mỹ giáp các huyện Hoài Nhơn phía bắc, nam và tây nam giáp Phù Cát, tây bắc giáp Hoài Ân và biển đông ở phía đông. Theo thống kê năm 2005 thì huyện Phù Mỹ có diện tích là 548,9km2 với dân số khoảng 188.000 người, trong đó riêng số nữ chiếm tới 96.700 người. Mật độ dân số là 342 người/ km2. Phù Mỹ cũng như Bình Định trước đây thuộc về nền văn hóa Sa Huỳnh, sau đó thuộc sứ Việt Thường Thị rồi sau này thuộc về vương quốc Chămpa. Năm 1471, sau khi đánh phá Chiêm Thành và mở bờ cõi tới núi Thạch Bi ( Phú Yên), vua Lê Thánh Tông đã đặt phủ Phù Ly để cai quản những cư dân Chiêm Thành còn ở lại và những tù nhân hay dân nghèo miền bắc được đưa vào. Sau này qua mấy lần nhập tách thì Phù Ly được chia đôi thành Phù Cát và Phù Mỹ lấy dòng sông La Tinh làm ranh giới. Trong những năm chịu sự quản lý của chính quyền Sài Gòn nơi đây được gọi là phủ Phù Mỹ. Sau 1975 được đổi thành huyện Phù Mỹ. Phù Mỹ có 19 đơn vị hành chính cấp xã và 2 thị trấn gồm: thị trấn Phù Mỹ và Bình Dương, các xã là: Mỹ An, Mỹ Cát, Mỹ Chánh, Mỹ Chánh Tây, Mỹ Châu, Mỹ Đức, Mỹ Hiệp, Mỹ Hòa, Mỹ Lộc, Mỹ Lợi, Mỹ Phong, Mỹ Quang, Mỹ Tài, Mỹ Thành, Mỹ Thọ, Mỹ Thắng và Mỹ Trinh. Huyện có 2 ga tàu hỏa thuộc đường sắt bắc — nam là ga Vạn Phú (xã Mỹ Lộc) và ga Phù Mỹ (thị trấn Phù Mỹ). Thắng cảnh của Phù Mỹ tuy hoang sơ nhưng tuyệt đẹp như: chùa Hang, giếng Tiên, và di tích lịch sử Đèo Nhông và đặc biệt là một vùng ven biển tuyệt đẹp kéo dài từ Vĩnh Lợi (Mỹ Thành) đến Hà Ra (Mỹ Đức). Trong đó bờ biển Mỹ Thọ cũng tuyệt đẹp với thắng cảnh Mũi Rồng, Bãi Bàng, Hải Đăng, thuộc thôn Tân Phụng thu hút nhiều khách tham quan của các xã lân cận. Vùng ven biển Phù Mỹ là nhiều bãi cát dài trong đó có bãi cát từ Xuân Thạnh (Mỹ An) qua (Mỹ Thắng) đến (Mỹ Đức) là dài nhất. Ngoài ra Phù Mỹ còn một số thắng cảnh nổi tiếng trong xã và trong huyện thôi. 2. Điều kiện thời tiết, khí hậu Tỉnh Bình Định nằm trong vùng nhiệt đới ẩm gió mùa. Do sự phức tạp của địa hình và mặt đệm biến đổi khá lớn nên gió mùa khi vào đất liền đã thay đổi hướng và cường độ khá nhiều. Nếu xét tới các xu thế chủ yếu có thể phân chia chế độ gió trong năm của tỉnh có gió mùa Đông Bắc; phần phía Nam của tỉnh có gió Bắc và Tây Bắc. Trong thời kỳ này hướng gió nói chung tương đối ổn định. Từ tháng 4 - 8 ở phần phía Bắc tỉnh có gió Nam và Tây Nam; ở phần phía Nam tỉnh chủ yếu có gió Đông Nam và gió Tây, tiếp theo là gió Tây Bắc và gió Nam.     - Nhiệt độ không khí trung bình năm ở khu vực miền núi biến đổi từ 20,1 - 26,1oC, cực đại trung bình 25,0 - 31,7oC và cực tiểu 16,5 - 22,7oC. Tại vùng duyên hải, nhiệt độ không khí trung bình năm là 27,0oC, nhiệt độ cực đại 39,9oC và cực tiểu 15,8oC. Tổng nhiệt độ năm trong tỉnh (tại Quy Nhơn) đạt 9.636oC vượt tiêu chuẩn 9.500oC của khí hậu xích đạo.     - Độ ẩm tuyệt đối trung bình tháng trong năm 22,5 - 27,9 % và độ ẩm tương đối từ 79 - 92 % tại khu vực miền núi; tại vùng duyên hải độ ẩm tuyệt đối trung bình là 27,9 mb, cực đại 32,7 mb và cực tiểu 20,0 mb. Độ ẩm tương đối trung bình là 79 % và cực tiểu là 31 %.     - Chế độ mưa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 12. Riêng đối với khu vực miền núi có thêm một mùa mưa phụ từ tháng 5 - 8 do ảnh hưởng của mùa mưa Tây Nguyên. Mùa khô kéo dài từ tháng 1 - 8. Đối với các huyện miền núi tổng lượng mưa trung bình năm từ 2.000 - 2.400 mm. Riêng thung lũng sông Kôn từ 1.600 - 2.000 mm. Vùng có tổng lượng mưa trung bình năm lớn nhất là huyện An Lão (2.400 - 3.200 mm). Đối với vùng duyên hải tổng lượng mưa trung bình năm là 1.751 mm, cực đại là 2.658mm và cực tiểu là 1.131 mm. Tổng lượng mưa trung bình có xu thế giảm dần từ miền núi xuống duyên hải. Riêng ở phía Bắc tỉnh có xu thế giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam.     - Về bão: Bình Định nằm ở miền Trung Trung bộ Việt Nam, đây là miền thường có bão đổ bộ vào đất liền. Hàng năm trong đoạn bờ biển từ Quảng Nam - Đà Nẵng đến Khánh Hòa trung bình có 1,04 cơn bão đổ bộ vào. Tần suất xuất hiện bão lớn nhất từ tháng 9 - 11.     Nhìn chung, vị trí địa lý và hoàn cảnh khí hậu trên đây của tỉnh đã chi phối đến các đặc trưng điều kiện tự nhiên khác cũng như chi phối mạnh mẽ đến các hoạt động phát triển kinh tế của tỉnh. Để khai thác các mặt thuận lợi và phòng chống các mặt bất lợi cần thiết phải có sự nghiên cứu hệ thống và hiểu biết đầy đủ các quy luật khí hậu để có các giải pháp phù hợp và kịp thời. 3. Tình hình kinh tế - xã hội * Con người Các sử gia triều đình nhà Nguyễn đã ghi nhận về phong thái, đức tính của người Phù Mỹ trong Đồng Khánh dư địa chí như sau: "Cần kiệm tột bậc là Phù Mỹ. Chuộng gốc nhiều, theo ngọn ít. Kẻ sĩ siêng cần, giàu chuyên học, dân cần cù, giản dị".           Phù Mỹ vốn là đất hiếu học của Bình Định, từng sản sinh ra nhiều nhà khoa bảng trẻ tuổi học rộng tài cao, đức độ và khí phách. Cuối thế kỷ 18 có Cao Tắc Tựu, Phạm Văn Tung, Trần Bá Hữu, Lê Văn Trung... nổi tiếng văn võ song toàn, có nhiều đóng góp lớn cho phong trào nông dân Tây Sơn. Trước 1945, Phù Mỹ chỉ có 2 trường tiểu học ở Trà Quang, An Lương cùng một số ít trường ở tổng và làng nên nhân dân tự mở ra nhiều trường tư thục, gia đình học hiệu. Những năm đất nước bị chia cắt, ở cả hai miền Nam - Bắc, Phù Mỹ đều có nhiều học sinh sinh viên giỏi, điều đặc biệt là họ đều yêu nước, yêu quê hương và dân tộc Việt Nam.           Kho tàng văn hóa dân gian của Phù Mỹ khá phong phú, số lượng ca dao, tục ngữ, hò vè... mà các nhà nghiên cứu sưu tầm được trên đất Phù Mỹ khá nhiều, tiêu biểu nhất có vè Chàng Lía. Văn hóa dân gian ở Phù Mỹ nồng đượm tình người, giàu hương sắc địa phương. Dân phù Mỹ rất ưa chuộng dân ca bài chòi và hát tuồng. Hát tuồng rất phổ biến tại những làng chài ven biển, tại các lễ hội cầu ngư, người ta thường tổ chức hát lăng, biểu diễn chèo bá trạo. Ở những làng quê phổ biến các hình thức hát hò, hát kết của các đôi trai gái trao gởi tâm tình... Hát hò, dân ca bài chòi là một trong những hình thức mà người Phù Mỹ sử dụng nhiều để thể hiện sự giàu có về tâm hồn của mình. * Kinh tế Nói tới Phù Mỹ bây giờ là nói đến chuyện phát triển nghề nuôi tôm trên cát. Quả thật, về Mỹ An và Mỹ Thắng vào những ngày này, trong câu chuyện của người dân, ta dễ dàng nhận thấy bóng dáng của con tôm. Ông Huỳnh Văn Nam – Phó chủ tịch UBND huyện Phù Mỹ cho biết: "Bên cạnh 2.000 ha ao đầm đã được khai thác lâu nay, huyện đã hợp đồng nghiên cứu xây dựng quy hoạch vùng nuôi tôm trên cát để mở rộng khả năng nuôi trồng. Quy hoạch này do Viện Hải dương học Nha Trang thực hiện, chính Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Tác An – Viện trưởng chủ trì. Bản quy hoạch đã được các cơ quan thẩm định đánh giá rất cao. Tiếp đó hợp phần quy hoạch chi tiết được các chuyên gia của trường Đại học thủy lợi II thực hiện. Kết quả chúng tôi đã có một vùng nuôi tôm trên cát rộng 500 ha trong đó diện tích rừng chắn cát rộng 300ha, diện tích hồ nuôi trồng là 200ha. Huyện đã đầu tư hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng đường giao thông, tiêu thoát nước, kéo điện đến chân công trình ao hồ. 120ha hồ tôm đầu tiên đã được triển khai xong ở Mỹ An, 80 ha còn lại của Mỹ Thắng hiện đang được khẩn trương thực hiện. Khu nuôi tôm này là điểm nhấn quan trọng để thể hiện năng lực khả năng phát triển của Phù Mỹ, bởi giá trị kinh tế của con tôm thì ai cũng đã biết rồi!" Ngoài ra cùng với Tuy Phước, Vân Canh, An Nhơn; Phù Mỹ là huyện có nguồn đá ốp lát, đá xây dựng thuộc loại phong phú nhất. Chưa có những cuộc điều tra, khảo sát để đánh giá một cách toàn diện và đầy đủ tiềm năng, chủng loại, trữ lượng đá granite của Phù Mỹ (trừ mỏ đá đen tuyền Phù Hà – Mỹ Hòa được đánh giá sơ bộ có trữ lượng khoảng 4,5 triệu m3) nhưng điều có thể nói ngay là những loại đá đẹp nhất, có giá trị cao nhất mà thị trường đang chú ý hầu hết đều có đủ ở huyện này. Có thể kể đến những mỏ đá sắc xanh ở Mỹ Thành, đá sắc đỏ ở Mỹ Đức, đá sắc trắng, vàng tổ ong, đen tuyền ở Mỹ Hòa. Cho đến nay trên toàn địa bàn huyện vẫn mới chỉ có 2 đơn vị tổ chức khai thác đá granite với lượng khai thác hãy còn rất thấp. Một khi quốc lộ 1A được nâng cấp xong, các cụm công nghiệp được mở rộng, kinh tế phát triển đồng thời huyện cũng cải thiện sự hấp dẫn của chính sách hỗ trợ, trải thảm đỏ mời nhà đầu tư thì tình thế sẽ khác hẳn.           Trong những năm qua, các công trình nghiên cứu quốc gia về tuyển quặng tinh inmenhite, ziếc côn, rutin... trong sa khoáng biển Bình Định đã được Viện Địa chất khoáng sản, Viện Luyện kim màu triển khai và cho những kết quả sơ bộ đáng phấn khởi. Ước tính, Bình Định có khoảng 2 triệu tấn quặng tinh inmenhite nằm lộ thiên ven biển phân bố khá đồng đều ở hai huyện Phù Mỹ và Phù Cát. Những thông số này cho phép Phù Mỹ tổ chức gọi mời đầu tư và khai thác khoáng sản titan là một trong những lĩnh vực mà Phù Mỹ đã thu hút được nhiều vốn đầu tư. Hiện nay, trên địa bàn đã có 2 doanh nghiệp đang tổ chức khai thác sa khoáng titan, 2 doanh nghiệp khác đang hoàn chỉnh thủ tục để triển khai khai thác 4. Vài nét về công Ty Cổ Phần Chăn Nuôi C.P Việt Nam C.P Thái Lan là một tập đoàn sản xuất kinh doanh đa ngành nghề và là một trong những tập đoàn mạnh nhất của Thái Lan trong lãnh vực công - nông nghiệp, điển hình là lĩnh vực sản xuất lương thực - thực phẩm chất lượng cao và an toàn cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Với kinh nghiệm hơn 80 năm phát triển sản xuất kinh doanh, hiện nay tập đoàn C.P Thái Lan đã mở rộng địa bàn hoạt động đến 20 quốc gia khác nhau với 200 công ty thành viên, và thu hút một nguồn lao động 200.000 người. C.P.Việt Nam là thành viên của C.P.Thái Lan , được cấp giấy phép đầu tư số 545A/GP vào năm 1993 với hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài. Các lĩnh vực đầu tư sản xuất kinh doanh tại Việt Nam hiện nay bao gồm : hạt giống, thức ăn chăn nuôi và thuỷ sản, giống heo, gà và thủy sản, thiết bị chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản, nuôi gia công heo, gà và chế biến thực phẩm. Trong lĩnh vực chế biến thức ăn gia súc tại Việt Nam, tập đoàn C.P đã xây dựng 2 nhà máy sản xuất thức ăn gia súc tại miền nam thuộc công ty C.P và một nhà máy sản xuất thức ăn gia súc tại miền bắc thuộc công ty Charoen Pokphand. Thức ăn gia súc của công ty hiện được tiêu thụ trên thị trường thông qua hệ thống phân phối : Cấp 1 , cấp 2 và trại trực tiếp .Được phục vụ và phát triển bởi đội ngũ Bác sĩ thú y, Kỹ sư Chăn Nuôi tốt nghiệp từ các trường đại học Nông Nghiệp trong nước và nước ngoài theo tiêu chí : Chất lượng là hàng đầu, không ngừng phát triển công nghệ tiên tiến và quản lý theo tiêu chuẩn ISO 9001 để vật nuôi được phát triển hoàn toàn tiềm năng di truyền và nâng cao thành tích sản xuất, an toàn cho con người khi tiêu thụ vật nuôi ( không có hoocmon tăng trưởng mà bộ Nông nghiệp và phát triển Nông Thôn nghiêm cấm ), an toàn cho môi trường . Để hổ trợ cho việc phát triển ngành thức ăn gia súc, giúp ngành chăn nuôi của Việt Nam phát triển theo hướng nông nghiệp và nâng cao hiệu quả cho các trang trại, Công Ty đã xây dựng : Nhà máy dụng cụ và thiết bị chăn nuôi tại khu công nghiệp Biên Hòa 2 Tỉnh Đồng Nai, 3 Trại gà giống Bố Mẹ và 3 Nhà máy Ấp Trứng tại Tỉnh Đồng Nai. Nhiều trại heo giống ông bà ở các tỉnh : Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Dương, Lâm Đồng ... Nhà máy thứ 4 đang được khởi công xây dựng và sẽ đi vào hoạt động tháng 1 năm 2008 tại khu công nghiệp Mỹ Phước với công suất 35.000 tấn /tháng . Đây là nhà máy có công nghệ sản xuất hiện đại nhất khu vực Đông Nam Á. Với đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm của Phòng thu mua, phòng thí nghiệm, phòng bán hàng, phòng kỷ thuật ….và được sự hổ trợ của các chuyên gia của tập đoàn C.P trên thế giới . Ngành thức ăn gia súc của công ty C.P.Việt Nam luôn đứng đầu về chất lượng và doanh số bán hàng trên thị trường. Công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam chi nhánh Bình Đinh III, nằm ở thôn Xuân Thạnh xã Mỹ Ăn huyện Phù Mỹ tỉnh Bình Định. Trại giống được xây dựng với diện tích khoảng 6ha. Đây là mọt trong những trại sản xuất tôm giống lớn nhất Việt Nam, sản xuất giống dựa trên công nghệ tiên tiến của Thái Lan. Hệ thống trại bao gồm: Hệ thống văn phòng làm việc của ban giám đốc Khu nhà nghỉ của giám đốc và công nhân viên. Bộ phận thí nghiệm gồm: 1 phòng Vi khuẩn, 2 phòng PCR, 1 phòng kiểm tra chất lượng nước, 1 phòng kiểm định chất lượng, 1 phòng nuôi cấy tảo thí nghiệm ( Lab), 1 nhà ấp Artemia, 1 nhà nuôi tảo ống, 8 nhà nuôi tảo sinh khối ( Mass). Khu tôm bố mẹ (Maturation) gồm 4 nhà, mỗi nhà có 32 bể x 24m2. Khu ương nuôi ấu trùng gồm 24 nhà mỗi nhà có 14 bể x 10m3. Và hệ thống bể chứa và xử lý nước. II. VÀI NÉT VỀ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA TÔM THẺ CHÂN TRẮNG 1. Đặc điểm sinh học của tôm thẻ chân trắng 1.1. Hệ thống phân loại, đặc điểm hình thái cấu tạo và phân bố của Tôm Thẻ Chân Trắng ( Litopenaeus vannamei Boone, 1931) (Nguyễn Trọng Nho, Tạ Khắc Thường, Lục Minh Diệp, 2006) 1.1.1. Hệ thống phân loại Ngành: (chân khớp) Arthropoda Lớp: (Giáp xác) Crustacea Bộ: (Mười chân) Decapoda Bộ phụ: (Bơi) Natantia Họ: (Tôm he) Penaeidae Giống: (Tôm he) Penaeus Loài: Penaeus vannamei , Boone 1931. Tên gọi Tên tiếng Anh :  WhiteLeg shrimp Tên khoa học : Penaeus vannamei (Boone, 1931) Tên thường gọi : Tôm bạc Thái Bình Dương, tôm bạc bờ Tây châu Mỹ, Camaron blanco, Langostino. Tên của FAO : Camaron patiblanco. Tên Việt Nam : Tôm Thẻ Chân Trắng 1.1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo Cơ thể chia làm hai phần: đầu ngực (Cephalothorax) và phần bụng (Abdomen) Phần đầu ngực có 14 đôi phần phụ bao gồm: + Chủy tôm gồm có 2 răng cưa ở bụng và 8-9 răng cưa ở lưng. + 1 đôi mắt kép có cuống mắt. + 2 đôi râu: Anten 1(A1) và Anten 2(A2). A1 ngắn, đốt 1 lớn và có hốc mắt, hai nhánh ngắn. A2 có nhánh ngoài biến thành vẩy râu (Antennal scale), nhánh trong kéo dài. Hai đôi râu này giữ chức năng khứu giác và giữ thăng bằng. + 3 đôi hàm: đôi hàm lớn, đôi hàm nhỏ 1 và đôi hàm nhỏ 2. + 3 đôi chân hàm (Maxilliped) có chức năng giữ mồi, ăn mồi và hỗ trợ hoạt động bơi lội của tôm. + 5 đôi chân bò hay chân ngực (walking legs), giúp cho tôm bò trên mặt đáy. Ở tôm cái, giữa gốc chân ngực 4 và 5 có thelycum ( cơ quan sinh dục ngoài, nơi nhận và giữ túi tinh từ con đực chuyển sang). Phần bụng có 7 đốt: 5 đốt đầu, mỗi đốt mang một đôi chân bơi hay còn gọi là chân bụng ( Pleopds hay Swimming legs). Mỗi chân bụng có một đốt chung bên trong. Đốt ngoài chia làm hai nhánh: Nhánh trong và nhánh ngoài, đốt bụng thứ 7 biến thành telson hợp với đôi chân đuôi phân thành nhánh tạo thành đuôi giúp cho tôm chuyển động lên xuống và búng nhảy. Ở tôm đực, hai nhánh trong của đôi chân bụng 2 biến thành đôi phụ bộ đực- là bộ phận sinh dục bên ngoìa của tôm. Màu sắc của tôm: tôm có màu trắng đục. 1.1.3. Đặc điểm phân bố và nguồn gốc Tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) có nguồn gốc từ vùng biển xích đạo Ðông Thái Bình Dương (biển phía Tây Mỹ La tinh), phân bố chủ yếu ở ven biển Tây Thái Bình Dương, châu Mỹ, từ ven biển Mexico đến miền trung Pêru, nhiều nhất ở biển gần Ecuador . Hiện nay tôm chân trắng đã có mặt hầu hết ở các khu vực ôn và nhiệt đới bao gồm Đài Loan, Trung Quốc và các nước ven biển thuộc khu vực Đông Nam Á.Tôm Thẻ Chân Trắng có thể sống ở độ sâu 72m, đáy bùn, nhiệt độ nước ổn định từ 25- 32°C, độ mặn từ 28- 34 ‰, pH từ 7,7- 8,3 , giai đoạn tôm con sống ở vùng cửa sông, giai đoạn trưởng thành sống ở biển sâu. 1.2. Đặc điểm sinh trưởng và sự lột xác 1.2.1 Các thời kỳ phát triển và vòng đời của Tôm Thẻ Chân Trắng (Litopenaeus vannamei Boone, 1931) (Nguyễn Trọng Nho, Tạ Khắc Thường, Lục Minh Diệp, 2006) a) Các thời kỳ phát triển của Tôm Thẻ Chân Trắng Thời kỳ phôi Thời kỳ phôi bắt đầu từ khi trứng thụ tinh đến khi trứng nở, thời gian phát triển phôi tùy thuộc vào nhiệt độ nước. Thời kỳ ấu trùng Ấu trùng Tôm Thẻ Chân Trắng trải qua nhiều lần lột xác và biến thái hoàn toàn, gồm các giai đoạn sau: + Giai đoạn Nauplius (N): Ấu trùng N của Tôm Thẻ Chân Trắng trải qua 6 lần lột xác và có 6 giai đoạn phụ ( N1- N6). Ấu trùng N bơi lội bằng bằng 3 đôi phần phụ, vận động theo kiểu zic zắc, không định hướng và không liên tục. Chúng c
Luận văn liên quan